của họ, tuy nhiên họ lại không thể đánh giá mức độ tác động đối với phần còn lại của xã hội
(đây là “sự mù quáng” đối với lợi ích của người khác); do đó họ không nên cố gắng tạo ra
những hậu quả xã hội”
11
(Smith, 1789). Xã hội sẽ tốt hơn khi mỗi cá nhân hướng đến tạo ra
hậu quả ở cấp độ cá nhân (ít nhất là đối với trường hợp mà ông sử dụng bàn tay vô hình); và
xã hội sẽ có kết quả có lợi khi mỗi cá nhân hành động theo cách này.
Thuyết Bàn tay vô hình là một lý thuyết quan trọng trong kinh tế học, đòi hỏi có sự hiểu
biết chính xác về khái niệm, đặc điểm, bản chất của những kết quả không mong đợi. Adam
Smith (1976) nhấn mạnh rằng: “Các cá nhân có xu hướng ưu tiên hỗ trợ ngành công nghiệp
trong nước hơn nước ngoài, xuất phát từ mong muốn của họ bảo đảm an toàn cho bản thân;
và định hướng ngành công nghiệp vận hành theo cách có thể sản xuất ra giá trị lớn nhất, cá
nhân chỉ hướng đến lợi ích của mình; và khi đó, cũng như trong các trường hợp khác, cá
nhân bị dẫn dắt bởi bàn tay vô hình phấn đầu vì một mục đích ngoài mong đợi của họ…
Thông qua theo đuổi lợi ích riêng của mình, các cá nhân sẽ mang lại hiệu quả cho xã hội
nhiều hơn là khi họ có ý định theo đuổi hiệu quả xã hội đó”
12
(Smith, 1789: IV.2.9). Một cách
khái quát, bàn tay vô hình chỉ ra mối quan hệ giữa quá trình theo đuổi lợi ích của mỗi cá nhân
(tức là sự mong đợi của họ đều hướng tới cấp độ cá nhân) và các kết quả quả không mong đợi
ở cấp độ xã hội. Theo đó, quá trình theo đuổi lợi ích của mỗi cá nhân tạo động lực thúc đẩy sự
phát triển và mang lại lợi ích cho xã hội.
3. CÁC QUAN ĐIỂM GIẢI THÍCH VỀ BÀN TAY VÔ HÌNH
Hiện có hai quan điểm giải thích bàn tay vô hình. Thứ nhất, theo quan điểm cơ bản
(Invisiblehand explanations), sự tương tác giữa các cá nhân đang theo đuổi tư lợi tạo ra “bàn
tay vô hình”, dẫn đến các hậu quả xã hội không mong đợi; từ đó, cho phép giải thích các quá
trình gây ra các hiện tượng trong xã hội. Áp dụng định nghĩa về các hậu quả xã hội không
mong đợi, thuyết bàn tay vô hình chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của “kết quả xã hội không
mong đợi”, cụ thể:
11
Individuals are the best judges of their interest, but they cannot judge the interests of the rest of the
society (i.e. they are ‘blind’ with respect to the interests of others); therefore they should not try to bring about
social consequences.
12
“By preferring the support of domestic to that of foreign industry, he intends only his own security; and
by directing that industry in such a manner as its produce may be of the greatest value, he intends only his own
gain, and he is in this, as in many other cases, led by an invisible hand to promote an end which was no part of
his intention.... By pursuing his own interest he frequently promotes that of the society more effectually than
when he really intends to promote it”.
Học thuyết doanh nghiệp
38
Giải thích những biến động kinh tế trên thế giới;
Giải thích cơ chế liên kết giữa các cá nhân trong các mối quan hệ với xã hội;
Giải thích các hành xử của cá nhân và doanh nghiệp theo các điều kiện đã được
quy định;
Giải thích các hiện tượng, quy luật tự nhiên.
Thứ hai, theo quan điểm hiện đại (modern conceptions), lại có hai cách giải thích khác
nhau về bàn tay vô hình. Quan điểm (i) kết quả cuối cùng (endstate interpretation) cho rằng
học thuyết “bàn tay vô hình” của Smith (1976) là nền tảng thúc đẩy quá trình phát triển tiến
bộ của nền kinh tế, điển hình là sự phát triển của thuyết “kinh tế học phúc lợi (theorems of
welfare economics)” (Stiglitz, 1991). Cụ thể, các hoạt động của cá nhân có thể dẫn đến một
kết quả có lợi cho xã hội; và tồn tại một trạng thái cân bằng hay tối ưu Pareto trong xã hội về
vấn đề liên quan. Ví dụ, khi xuất hiện sự phân phối thu nhập (distribution of income), một sự
cân bằng cạnh tranh hoàn hảo trong dài hạn (a longrun perfectly competitive equilibrium) sẽ
mang lại sự phân bổ nguồn lực tối ưu (an optimum allocation of resources), và mọi sự phân
bổ nguồn lực tối ưu đều là sự cân bằng cạnh tranh hoàn hảo trong dài hạn (Blaug, 1997).
Nhưng hạn chế của thuyết “bàn tay vô hình” lại chính vì thiếu bằng chứng thực nghiệm về
trạng thái cân bằng tối ưu (Paretooptimum equilibrium proves), khi không đề cập đến những
vấn đề như tăng trưởng lợi nhuận, các yếu tố bên ngoài, cạnh tranh không hoàn hảo, thời gian,
bất ổn… (Stiglitz, 1991).
Theo quan điểm (ii) quá trình (process interpretation), “khái niệm Bàn tay vô hình phải
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |