Hạnh Tạng (Cariyà-pitaka) Anh ngữ: I. B. Horner Việt ngữ: Tỳ kheo Thiện Minh



tải về 492.56 Kb.
trang6/8
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích492.56 Kb.
#9954
1   2   3   4   5   6   7   8

77 Hatthinàga.

78 Nàga. Họ nói rằng với đức tin này ông ta sẽ mang lại mưa, bản chú giải Hạnh Tạng. 35. Ơû dưới, câu kệ thứ bảy cho thấy rằng không có ông ta chắc hẳn sẽ không có hạn hán.

79 Ðạt được quả vị Toàn giác.

80 Gaja.

81 Nước cúng dường.

82 Nàga.

83 Bản chú giải Hạnh Tạng 38, Hạnh Tạng xuất bản Rangoon, bản Hạnh Tạng xuất bản Colombo gọi là tass, "bởi ông ta" Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh là tasminir.

84 Nàga nếu ông ta thất bại ở độ đầu tiên thì có lẽ ông không thể đạt được quả vị Toàn giác, bản chú giải Hạnh Tạng. 38.

85 Kinh Mahasudassana, Trường bộ số 17, Túc sanh truyện Mahàsudassana số 95. Tôi theo số lời kệ ở Hạnh Tạng in ở Rangoon và Colombo bởi vì sự sắp xếp dường như tốt hơn ở Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh.

86 Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là mudusabhà, bản chú giải Hạnh Tạng 42 - viết là subhà, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon, ở Colombo viết là mudù subhà.

87 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là Vanìpako, bản chú giải Hạnh Tạng 44, Hạnh Tạng in ở Colombo viết là Vanibbake, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là Vanibbako. Xem BHSD.

88 Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh, Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là bhogam, Hạnh Tạng in ở Colombo viết là dànam.

89 Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là pinatthi, Hạnh Tạng ở Rangoon, Hạnh Tạng ở Colombo viết là na pinatthi đối chiếu I 5.3. Không có trong bản dịch. Không được chứng minh nếu chúng ta chấp nhận bản chú giải Hạnh Tạng.

90 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là vajjani, bản Hạnh Tạng in ở Colombo viết là vejjam.

91 Sự viên mãn về những chúng sinh và của riêng tôi, bản chú giải Hạnh Tạng.

92 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là ùnadhanam; bản chú giải Hạnh Tạng, bản chú giải in ở Rangoon, ở Colombo viết là ùnamanam. "do bởi độ bố thí của tôi chưa được viên mãn tôi đã không đạt được sự thỏa mãn" bản chú giải Hạnh Tạng.

93 Ðối với cách đọc xem phần trên, câu kệ 6. N.

94 Bản Hạnh Tạng bằng La tinh viết là apaccàyo; bản chú giải Hạnh Tạng, các bản Hạnh Tạng in ở Colombo và Rangoon viết là àso.

95 Ðối chiếu kinh Mahà - govinda, Trường bộ II. 230ff; cũng như ở Mahàvastu III. 197ff.

96 Ðược dặt tên ở Trường bộ II. 236.

97 Naradeva ở đây là các vị vua. Bản chú giải Hạnh Tạng. 45 đề cập sự việc này đối với các vị vua và tất cả những người trị vì khác, Khattiya, ở Jambudìpa.

98 Ðiều này dường như có nghĩa là không từ chối việc bố thí hoặc cũng không tỏ ra yêu thích. Cùng với sự so sánh ở những hình thức áp dụng khác, ở Phật Tông. XI. I, Mi Tiên vấn đáp 21.

99 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là pin' atthi, các bản Hạnh Tạng in ở Colombo viết là Napi n' atthi. Ðối chiếu. I. 4. 7.

100 Bản chú giải Hạnh Tạng 47 varamdhanan Ti uttamam icchitam và dhanam, sự giàu sang tột bậc được mong cầu cho.

101 Túc sanh truyện Nimi, số 541.

102 Của bản thân và những người khác, bản chú giải Hạnh Tạng. 51.

103 Những ngưỡng cửa dẫn vào bốn hướng, bản chú giải Hạnh Tạng. 53.

104 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là naranàrinam, đàn ông và đàn bà, các bản Hạnh Tạng in ở Rangoon và Colombo viết là naràdinam. Bản chú giải Hạnh Tạng nói: không chỉ về súc sinh mà cũng nói về các loài ngạ quỉ.

105 Cũng như vậy chú giải Hạnh Tạng trang 54.

106 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng viết là abbhocchinnam; bản Hạnh Tạng in ở Colombo, Rangoon viết là abbo. Ông ta thực hiện việc bố thí liên tục vì việc duy trì sự sống.

107 Như vậy để mà viên mãn độ bố thí.

108 Túc sanh truyện khadahàla số 542. Ðối với những bản dịch đặc biệt khác xin xem Handurukande, trang 87. Ðược đề cập Mi Tiên vấn đáp 203.

109 Bản chú giải Hạnh Tạng 58 Cadarà Jacariyam.

110 Tên cũ của thành Bàrànasì bản chú giải Hạnh Tạng trang 58.

111 Bản chú giải Hạnh Tạng 61, các bản Hạnh Tạng in ở Colombo, Rangoon viết là yannavàtato, bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là vàtako.

112 Ðối với sự bàn cải từ vựng khó này xin xem A. K. Coomaraswamysamvega, "Aesthetic shock", HJAS bộ số 7, số 3, tháng 2. 1943.

113 Khàdati, động từ cho việc ăn các thức ăn cứng.

114 Etam atthavasam natvà như ở suttanipàta 297. Ở đây lý do cho việc bố thí là hoài bão về quả tối thượng cũng như là một phượng tiện để đạt được sự giác ngộ.

115 Bhavàbhave, ở những kiếp khác. Bản chú giải Hạnh Tạng không giải thích ở đây.

116 Túc sanh truyện Sivi, số 499, được đề cập ở Mi Tiên vấn đáp 120.

117 Bản chú giải Hạnh Tạng 64 "một món quả của con người bình thường"

118 bản Hạnh Tạng tiếng La tinh viết là vimamsayàmi, các bản Hạnh Tạng in ở Colombo và Rangoon viết là vì.

119 Bản tiếng La tinh viết là phalitasiro, các bản in ở Colombo và Rangoon viết là palita.

120 Rồi mỗi người sẽ có một con mắt, bản chú giải Hạnh Tạng. 65.

121 Mặc dù vị Bà la môn biết được ý nghĩ của ông ta, bản chú giải Hạnh Tạng 65, như được mô tả ở lời kệ tiếp theo.

122 Vị y sĩ của Sivi.

123 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng 68 viết là dandayi, các bản in ở Colombo và Rangoon viết là dandhayi.

124 Bản tiếng La tinh viết là va tibbake, W. R đối với vanibbake xem I. 4 6n.

125 Tàlaminja nhưng có lẽ có ý nghĩa nhân của một quả ở từ một cây cọ..

126 cittassa annathà, xin xem Critical Pàli Dictionary, Copenhagen, 1924, S. V. Ðọc annathà. Cùng một thành từ ở Phật Tông 60, Túc sanh truyện. I. 46 bản chú giải Appadàna 50.

127 Túc sanh truyện Vessantara, số 547, chuyện Màlà số 9. Thu mục chi tiết ở Lamotte, Traité tập 2, trang 713. Ðề cập đến Vessantara và Túc sanh truyện ở Mi Tiên vấn đáp 113, 274 bản chú giải Luật tạng 245 và chú giải Pháp cú kinh i.84, 115, iii.164, bản chú giải Bộ Phân tích. 414, Mahàvamsa 30.88, Culavamsa 42.5.

128 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là Phussatì, nhưng Phusati được dùng trong các câu kệ 7, 8, 10.

129 Các Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh và Hạnh Tạng in ở colombo viết là camahesiyà, Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là mahesi piyà.

130 Mặc dù số nhiều của atìtasu jàtisu, bản chú giải Hạnh Tạng 74 xác nhận rằng kiếp quá khứ thì đúng nghĩa.

131 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh và bản Hạnh Tạng in ở Colombo viết là disvà, nhưng in ờ Rangoon viết là natvà.

132 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là vare nhưng in ở Colombo viết là vara, bản chú giải Hạnh Tạng 75 viết là varàti varrasu varam gamha, chọn một đặc ân trong những đặc ân.

133 Xem Túc sanh truyện VI. 482, 497, Mi Tiên vấn đáp 376, 385, 410 cho cái tên của loài cây này 9.

134 Có nghĩa là Như Lai là một đặc ân được dâng đến cho bà ta, bản chú giải Hạnh Tạng 76.

135 Thủ đô của vương quốc Sivi nơi Sivi và con trai ông ta là Sanjaya trị vì.

136 Chú giải Hạnh Tạng 77, các bản Hạnh Tạng in ở Colombo và Rangoon viết là addhike, bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là patthike, được ghi nhận như là av. 1 ở bản Hạnh Tạng in ở Colombo viết là patthi-, pathi- (cũng được ghi nhận bản Hạnh Tạng in ở Rangoon).

137 Khìne, cũng được giải thích ở bản chú giải Hạnh Tạng 77.

138 Người dân Vaisya.

139 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh viết là mettikam, bản chú giải Hạnh Tạng 78, bản Hạnh Tạng in ở Colombo viết là matti lưu ý được đọc là metti- cũng ở trong bản Hạnh Tạng in ở Rangoon.

140 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh viết là mettika-, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon, Colombo viết là pettika-

141 bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh, Túc sanh truyện VI. 485 Jàto'mhi, được ghi nhận ở Hạnh Tạng 78 cùng với bản Hạnh Tạng in ở Rangoon và Colombo đọc là Jàt' ettha.

142 Ở trong Vassas.

143 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là Yàcetvà, bản chú giải Hạnh Tạng, các bản Hạnh Tạng in ở Rangoon và Colombo, Túc sanh truyện VI. 486 viết là Sàvetvà.

144 Cõi trời thứ 33 (được đặt tên bản chú giải Hạnh Tạng 79, Thanh tịnh đao 424) nằm trên đỉnh núi Tu Di (Suneru) được biết như là cõi của núi Tu Di. Hoặc có ý nghĩa là núi Tu Di và cõi hoan lạc ở Diêm phù đề (Jambudìpa) và cõi núi Tu Di. Ðiều này có nghĩa là tô điểm cho cõi của núi Tu Di (bản chú giải Hạnh Tạng).

145 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh viết là addhadhamàse, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon và Colombo viết là anvaddha-, cũng như bản chú giải Hạnh Tạng. 80 được chú thích bằng anu - addhamàse. Xin xem Luật tạng IV. 145 anvaddhamàsan ti anuposathikam, mỗi ngày bát quan.

146 Như được vạch rõ ở bản chú giải Hạnh Tạng. 81các câu kệ bắt đầu ở đây (16, 17, 18, 19, 20 đã xảy ra ở I. 3. 2 - 5)

147 tính luôn những người con trai của vua Sivi và theo thực tế tất cả mọi người ngoiạ trừ vua Sanjaya, hoàng hậu Phusati và công chúa Maddì, bản chú giải Hạnh Tạng 82.

148 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh và bản Hạnh Tạng in ở Colombo viết là ayàcissam, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là -cisam.

149 Kannabherin ti gugalamahàbherim, bản chú giải Hạnh Tạng 85, một cặp trống lớn hoặc có lẽ là cái trống lớn.

150 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh viết là àyàcayitvà; V. 1. Àsàvayitvà ở bản chú giải Hạnh Tạng và như vậy bản Hạnh Tạng in ở Colombo với V. 11, sàvetvà, àyàvayitvà, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là sàvayitvà. Ðược giải thích ở bản chú giải Hạnh Tạng bằng ghosàpetvà.

151 Bản Hạnh Tạng bằng tiếng La tinh và bản Hạnh Tạng in ở Colombo viết là dànema mam, bản in ở Rangoon viết là dànen' imam.

152 Nivattitvà vilokite, đối chiếu Trường bộ II. 122. Nơi đây lần cuối cùng đức Phật "nhìn thành Vesàli cùng với hình dáng của con voi" Nàgapalokitam V. Apaloketvà, đối chiếu Divy 208.

153 Bimba, một hình ảnh, cũng là một loại quả bầu. Theo như ghi nhận của BCL trang 103, n. 2"dòng dõi Jalam hatthe àkiritvà bràhmanànam adam gajam theo kinh của hội Pàli Text thì bị bỏ đi trong những phần hiệu đính khác và không được bổ sung ở bản chú giải. Do đó tôi không được thoải mái khi dịch nó".

154 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh viết là yanti, bản chú giải Hạnh Tạng 86, bản Hạnh Tạng in ở Colombo và Rangoon viết là enti.

155 Các bản Hạnh Tạng viết bằng tiếng La tinh và in ở Colombo viết là pavane, bản in ở Rangoon viết là bhavana.

156 Bản tiếng La tinh viết là ubbidhà, bản in ở Rangoon viết là ubbiddhà, bản in ở Colombo viết là ubbiggà.

157 Mãnh lực công đức của ông ta, bản chú giải Hạnh Tạng 87.

158 Bản tiếng La tinh viết là Màtulà, các bản Hạnh Tạng in ở Colombo và Rangoon cũng như chú giải bản Hạnh Tạng 88 viết là Màtule gọi nó là một thành phố ở vương quốc Ceta.

159 Chú giải Hạnh Tạng giải thích điều này bởi vì có nhiều sự liên quan để biết rằng chính Bồ-tát Vessantara đã đi đến ở trong những hoàn cảnh như vậy.

160 Ðiều này đề cập đến "bốn người chúng tôi", bản chú giải Hạnh Tạng 88.

161 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh viết là Vissu-.

162 Asunno; CPD đưa ra sự cần mẫn cho đoạn văn này. Bản chú giải Hạnh Tạng 89 - 90 nói rằng "thậm chí khi nơi ẩn cư có nhiều người (asunno) thì Như Lai cũng (không lười biếng) trong việc phát triển từ asunna thành asunne thì cũng là một cách đọc, chỗ ở của tôi thì đông người do sự chiếm cứ của tôi để săn sóc những đứa con, ở đó tôi đã sống. Qua sức mạnh tâm từ của Bồ-tát tất cả thú vật cách đó ba do tuần cũng hưởng được lòng từ bi".

163 Nghĩ rằng ông ta sẽ viên mãn bố thí độ.

164 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh viết là sìlavatini, bản chú giải Hạnh Tạng 94 - 5 (văn xuôi), các bản Hạnh Tạng in ở Rangoon và Colombo viết là vantim.

165 Ðôi tay của vị Bà la môn giang ra, bản chú giải Hạnh Tạng 95.

166 Bồ-tát nghĩ rằng, đạt được đỉnh cao của độ bố thí ngài sẽ đi đến sự giác ngộ.

167 Bồ-tát không nghĩ về sự đau khổ, ngài không giữ nó (trong tâm), bản chú giải Hạnh Tạng 96, tất cả các vị Bồ-tát cũng phải thực hành năm đại thí: tài sản, đầu, tứ chi hoặc mắt, mạng sống, vợ và con.

168 Ðối chiếu I. 8. 15 câu kệ được trích dẫn ở Mi Tiên vấn đáp. 117.

169 Câu kệ được trích dẫn ở Mi Tiên vấn đáp. 281 được đề cập ở Hạnh Tạng cùng tên.

170 Những người khác cũng đến, bản chú giải Hạnh Tạng. 100.

171 Có nghĩa là những sự thăng trầm mà Bồ-tát đã phải trải qua. Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh, bản chú giải Apadana. 51 viết là dukkham, các bản Hạnh Tạng in ở Rangoon và Colombo, Túc sanh truyện i.47 viết là dukham.

172 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh, bản Hạnh Tạng in ở Colombo viết là sanàtibhi, bản chú giải Hạnh Tạng. 101 viết là -tìhi, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là sannatibhi. Ðối chiếu. III. 3. 4n.

173 Bản tiếng La tinh viết là pavisàmi, các bản Hạnh Tạng in ở Colombo và Rangoon và bản chú giải Hạnh Tạng viết là pavisàmi.

174 Bản Hạnh Tạng tiếng La tinh viết là pàto padissare, các bản in ở Rangoon và Colombo viết là pàto ca dissare.

175 Sự tàn sát các sinh vật, tà kiến ... và bố thí, trì giới ... bản chú giải Hạnh Tạng 103.

176 Bản tiếng La tinh viết là gavesinisuư,, bản in ở Colombo viết là gavesiyuư, bản chú giải Hạnh Tạng 104, bản Hạnh Tạng ở Rangoon viết là gavesisuư.

177 Bản tiếng La tinh viết là nisajja cin besi, bản in ở Colombo viết là nissajja cintesim,, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là nisajja cintesim.

178 Các bản Hạnh Tạng tiếng La tinh và hai bản in ở Rangoon và Colombo viết là màsà và, bản chú giải Hạnh Tạng viết là na màsà. Phần này và mugga, đậu xanh cả hai đều là những hạt đậu.

179 Bản tiếng La tinh viết là yadi eti, các bản Hạnh Tạng ở Rangoon và Colombo viết là yadi koci eti.

180 Bản tiếng La tinh viết mam' antike, các bản khác ở Rangoon và Colombo viết là mama santike.

181 Ở Túc sanh truyện con thỏ rùng mình để không làm khó chịu người khác. (Xem câu kệ 1, 12) như vậy bất cứ những sinh vật nhỏ nào sống ở trong lông của nó bị đốt chết. Bản chú giải Hạnh Tạng thì tương tự.

182 Bản Hạnh Tạng La tinh viết là dhùmamayati, sai văn phạm, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon viết là dhamadhamàyati, bản Hạnh Tạng ở Colombo viết là dhama dhamàyati, tạo nên tiếng ồn dhamadhama. Ðối chiếu III 9.4.

183 Sameti, chú thích của chú giải Hạnh Tạng 107 bằng vàpasameti.

184 Deti cùng ở trong sách. Uppàdeti.

185 Theo truyền thống câu chuyện này kết thúc với vị trời Sakka tạo nên một con thỏ giống như con thỏ trên mặt trăng (có thể nhìn thấy ở các vùng nhiệt đới) Túc sanh truyện i.172 nói rằng đó là một trong bốn điều kỳ diệu của kiếp này là toàn bộ của nó giống như hình con thỏ sẽ kéo dài sự sống trên mặt trăng. Một hình thức khác của bốn sự kỳ diệu này là không có khả năng đốt cháy một khu vực nào đó, xem phần III 9 ở dưới.

186 Trên ký hiệu của những câu kệ tiếp theo xem lời giới thiệu trang XI.

187 Bản chú giải Hạnh Tạng 108 dùng Bràhmano như là thuộc của Akitti mặc dù vị này là một người Bà la môn trước khi trở thành một ẩn sĩ đã không được nói đến trong câu chuyện của ông ta ở I.1.

188 Parikkhàra hiển nhiên ý nghĩa của nó thật cần thiết để được sinh ra như chín người đầu tiên của phẩm này đối với con thỏ để hoàn thành độ bố thí cao thượng, nghĩa là bố thí mạng sống của mình. Ðể được hoàn tất phẩm hạnh và phẩm hạnh cao hơn của độ bố thí bằng cách bố thí tài sản và tứ chi của họ (kể luôn cả bố thí mắt, vợ và con) xem I. 9. 52n và II. 10. Sn.

189 Túc sanh truyện i. 45, bản chú giải Phật Tông. 59, bản chú giải Apadana. 49 đề cập đến Túc sanh truyện sasapandita, trích dẫn lời kệ này để minh họa đỉnh cao của bố thí độ.

190 Kunjara.

191 Gunena, được giải thích như là sìlagunena ở bản chú giải Hạnh Tạng 110.

192 Gaja.

193 Các bản tiếng La tinh, bản in ở Rangoon viết là napi àlakakàsuyà, bản in ở Colombo viết là na piyàlhaka-, với vil. Napi àlahaka-, bản chú giải Hạnh Tạng III à laka- (ở một từ kép khác) v 5. V. CPD.

194 Bản tiếng La tinh viết là samàgahite, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng ở Rangoon viết là sahaga, bản hạnh tặng ở Colombo viết là samam gahita.

195 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng viết là bhisamulà, hai bản Hạnh Tạng ở Colombo và Rangoon viết là -mùlàla, những cánh hoa sen.

196 Một bản dịch thoát dựa trên bản chú giải Hạnh Tạng 112 về patibalo bhave tesam yàva rajjampi mà nu sam, "tôi có khả năng không chỉ tiêu diệt anh ta người đến bắt tôi mà ngay cả toàn bộ quả dất này".

197 Pakkhi pantam.

198 Bản tiếng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng viết là Àlake, bản Hạnh Tạng ở Colombo viết là Àlhake, bản ở Rangoon viết là àlake. Như vậy Bồ-tát cũng cũng cho thấy quyết định vững chắc (cũng là một hạnh), bản chú giải Hạnh Tạng 113.

199 Túc sanh truyện Bhùridatta số 543.

200 Bản chú giải Hạnh Tạng 115 Bhùri là trái đất, datta là tên cha mẹ ông ta đặt. Bằng trí tuệ cao thượng của Bồ-tát ngài giống như quả đất. Do đó gọi là vị Bồ-tát Datta thông thái.

201 Cũng ở trong sách, thần thông của xà vương.

202 Bản chú giải Hạnh Tạng 117, Tàvatimsa.

203 Cùng trong sách Mãn xà vương. Bồ-tát là một trong bốn vị vua trời.

204 Cùng trong sách, tái sinh ở, nghĩa là ở trong một số kiếp tương lai.

205 Cùng trong sách chẳng hạn như là rửa mặt.

206 Như ở phẩm 11. 10.2. Năng lực mạnh gấp bốn lần, chú giải Trung bộ III.194 trong Trung bộ I. 481 = 8 Tương ưng kinh II.28 = Tăng chi bộ I.50: "tôi sẳn sàng, da, gân, xương, và để cho máu và thịt kho đi". Xin xem lời kệ tiếp và bản chú giải Hạnh Tạng 117, nói rằng chavicamma là một yếu tố phần còn lại được dùng riêng lẽ. Do đó Bel làm sai lạc bản chú giải: "Tứ vô lậu học: Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát"mặc dù những hình thức này tạo nên bốn anga yếu tố, thành phần ở Tăng chi kinh II.79.

207 Bản chú giải Hạnh Tạng 122, bản Hạnh Tạng Rangoon viết là àlambàyano, bản ở Colombo viết àlambano.

208 Bản tiếng La tinh viết Àlampànenana, bản ở Colombo viết Àlambàịena, bản ở Rangoon viết Àlambàyena na.

209 Bản tiếng La tinh viết uppattanà, bản chú giải Hạnh Tạng 122 viết uppatanà, bản Hạnh Tạng ở Colombo và Rangoon viết uppattamam. Bản chú giải Hạnh Tạng dùng từ parivattanà trong phần giải thích, với phân đối chiếu parivatteyyam ... ở Luật tạng i.7. Ở đây ngài Mục-kiền-liên cho rằng ông ta sẽ đảo lộn quả địa cầu.

210 Ðối chiếu phẩm II.1.9.

211 Túc sanh truyện Campeyya, số 506.

212 Mãn xà vương sống dưới sông campà giữa Anga và Maggadha.

213 Dhammika được giải thích là Dhammacàrin, pháp sư, chú giải Hạnh Tạng 126.

214 Bản tiếng La tinh viết ahikundika, bản chú giải Hạnh Tạng 130 viết -gunthika, bản Hạnh Tạng Colombo -gunđika, bản ở Rangoon viết Tundika.

215 Dhamacàrin, chú giải Hạnh Tạng. 129, người giải thích giáo pháp về mười cách cư xử tốt đẹp.

216 Cùng trong sách 130 giải thích kìlati bằng kìlàpeti.

217 Chỗ cư ngụ của vua uggasena của xứ Barànasì.

218 Bản Hạnh Tạng La tinh viết yam so vannam cintayati nìlapitam va lohitam, bản Hạnh Tạng ở Colombo viết yam so vannam cintayati nìlan ca pìta lohitam; bản ở Rangoon viết yam yam so vannam cintayi nìlam va pìtalohitam.

219 Quả vị Phật phù hợp với nguyện vọng của Bồ-tát được thực hiện dưới chân của đức Phật Dipankara, bản chú giải Hạnh Tạng 130f.
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương