Hạnh Tạng (Cariyà-pitaka) Anh ngữ: I. B. Horner Việt ngữ: Tỳ kheo Thiện Minh



tải về 492.56 Kb.
trang8/8
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích492.56 Kb.
#9954
1   2   3   4   5   6   7   8

369 Gativivajjito, bản chú giải Hạnh Tạng, im lặng.

370 Ðể thử xem Bồ-tát có phải là câm điếc, một người tàn tật.

371 Kàlakanì, có tai màu đen. Ðối chiếu bản chú giải Pháp cú kinh iii. 31, 38 về tính ngữ bao hàm một điều xấu.

372 Bản Hạnh Tạng La tinh viết janapadà, các bản in ở Colombo, Rangoon viết là jàna-

373 Vethevà ràjavethanam, cũng được giải thích ở bản chú giải Hạnh Tạng 223.

374 Bản Hạnh Tạng La tinh viết hatthamuncitam, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng Colombo viết -muncito, bản ở Rangoon muccito.

375 Bản Hạnh Tạng La tinh tajjanto, bản chú giải Hạnh Tạng, các bản Hạnh Tạng ở Colombo, Rangoon viết ento.

376 Tham khảo nhiều kinh diễn khác nhau những người nuôi nấng Như Lai tìm cách khám phá điều gì bất ổn xảy ra với ngài cho tới khi ngài được 16 tuổi, xem lời kệ 10.

377 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản Hạnh Tạng Colombo viết là vatam, bản ở Rangoon chỉ dùng tam.

378 Ðối chiếu phẩm I. 8. 16, phẩm III. I. 6.

379 Mô tả sự cao cả của quyết định độ, lời kệ này được trích dẫn ở Túc sanh truyện I. 46. Bản chú giải Phật Tông. 61. Bản chú giải Apandàna. 51, tất cả đọc na (pi) me dessam mahàyassam, sự giàu sang (hoặc những phần lớn lao tiếp theo) cũng không thỏa mãn (Như Lai) tôi đối với của Hạnh Tạng là attà na me ca dessiyo.

380 Bản Hạnh Tạng in ở Rangoon viết "nhét tôi (Như Lai)", ngược lại với âm luật, nhưng hòa hợp với các câu kệ ở phẩm III. 7 và phẩm III. 9. 14.

381 Túc sanh truyện Vànarinda số 57. Bản Hạnh Tạng La tinh, phần giới thiệu XIV giống với số 208, BCL với số 250.

382 Sumsumàra. Ở câu kệ tiếp kumbhila.

383 Có một tảng đá ở giữa sông giữa đường đến bờ sông và một cù lao trên đó có nhiều cây trái. Một người bạn cùng ở chung với cá sấu muốn ăn trái tim của con khỉ vì thế cho đến khi con khỉ (Bồ-tát) lừa được cá sấu, nó nằm trên tảng đá để bắt khỉ, bằng cách ấy đã bỏ rơi được cá sấu cả nơi cung cấp chỗ ăn và sự an toàn.

384 Nghĩa là tảng đá ở trên sông, bản chú giải Hạnh Tạng 229.

385 Rồi con khỉ sẽ nhảy từ tảng đá đến nơi nó sinh sống (cùng trong sách).

386 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng (bản Hạnh Tạng ở Rangoon) viết là satthu nhưng bản ở Colombo viết là sattu.

387 Bản Hạnh Tạng La tinh viết ruddadassana, bản chú giải Hạnh Tạng, hai bản Hạnh Tạng ở Colombo và Rangoon viết là ludda-

388 bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng 230. Bản Hạnh Tạng ở Rangoon viết asanisi, bản Hạnh Tạng ở Colombo, trình bày điều này như là một động từ 1, àsinisi.

389 Giữ lời của mình, vì thế Bồ-tát nói sự thật

390 bản Hạnh Tạng La tinh viết là vadi, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng in ở Colombo và Rangoon viết là vadini.

391 Patitthahim, Như Lai đứng thật vững.

392 Ở Túc sanh truyện Sunisumàra số 208 và Túc sanh truyện Vànara số 342, con khỉ đã nói dối với con cá sấu.

393 Dường như không phù hợp với Túc sanh truyện, BCL đồng hòa với số 73.

394 Không có ở trong từ điển danh từ riêng Pàli (DPPN= Dictionary of Pàli Proper Name)

395 bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng 231, bản Hạnh Tạng ở Rangoon viết là palesim, bản ở Colombo là pàlemi.

396 Samagga, bản chú giải Hạnh Tạng 232 nói rằng Như Lai đã cho mọi người thấy tai họa ở những cuộc cải vả và những cuộc tranh luận mà họ thích thú tận hưởng và thay vào đó nên củng cố một số điều trong mười phẩm hạnh tốt,và đã giúp cho những kẻ khác đi xuất gia, (không nghi ngờ về sự xuất gia của những người sáng suốt mà chính bản thân Như Lai đã xuất gia), ngài đã chứng minh chúng, tùy theo công đức của chúng, kiểm soát bản thân bằng thói quen đạo đức, gìn giữ các căn, chánh niệm, tỉnh giác dục lạc, tự tại, thiền dịnh và hiểu biết sâu sắc.

397 Túc sanh truyện vattaka số 35, đối chiếu Túc sanh truyện Màlà số 16.

398 Vattakaràjacariyam ở bản chú giải Hạnh Tạng 233.

399 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản in ở Rangoon viết là davadàho, bản ở Colombo -dhàho.

400 Pàvaka, văn chương người trong sạch.

401 Sikhin, văn chương, có ngọn (lửa).

402 "Khói" bản chú giải viết rằng "do đó tạo nên âm thanh dhama dhama. Ðiều này bao hàm tiếng vang của đám cháy rừng". Ðối chiếu phẩm I. 10. 16.

403 Aggi.

404 Pajahàmi. Bản chú giải Hạnh Tạng 234 giải thích bằng pasàremi iriyàmi vayàmi, thàmi, patìhàmi khác, "Như Lai chiến đấu" được giải thích như là vehàsagamanayogge kàtumìthàmi.

405 Agatika, người không đi được.

406 Bản chú giải Hạnh Tạng biết "bởi vì Như Lai không thể đi được thành ra Như Lai không có chỗ nương náu do bởi sự bỏ đi của cha mẹ mình, tattha (ở đó) lưu lại ở trong rừng đó... hoặc ở trong tổ".

407 Những lời kệ 8 đến nữa đường qua 11 cũng như ở Túc sanh truyện i. 214f.

408 Avassàya, Túc sanh truyện I. 214 apa-

409 Nói đến đôi cánh và chân của Như Lai, bản chú giải Hạnh Tạng 235.

410 Tên dùng cho agni, bản chú giải Hạnh Tạng viết "được bốc lên, jàta, người ta cảm nhận, vediyati, nó trở thành biểu tượng với sự xuất hiện của khói và ngọn lửa cháy rực, do đó jàtaveda".

411 Sikhin, văn chương có ngọn (lửa).

412 Một karìsa dường như là một miếng đất vuông có lẽ tương đương bốn mẫu. Xem Rhys Davis, sách tiền xu cổ và hệ thống đo lường của Tích Lan trang 18. Túc sanh truyện I. 172, nói đến Túc sanh truyện Vattaka, nói rằng đây là một trong bốn điều phi thường sẽ kéo dài suốt trong (kiếp này) đặc biệt là nơi này sẽ không bao giờ bị hỏa hoạn. Ðiều này cũng được nói trong phần cuối cùng của Túc sanh truyện Vattaka.

413 Sử dụng lại từ Sikhin, ở đây bản chú giải Hạnh Tạng giải thích như là một trận hỏa hoạn. Jàtaveda, nó bị dập tắt giống như bó đuốc bị nhúng vào nước.

414 Túc sanh truyện Maccha số 75, BCL đồng hóa với số 34, đối chiếu Túc sanh truyện Màlà số 15.

415 Unho, mà bản chú giải Hạnh Tạng nói rằng là mùa nóng.

416 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản Hạnh Tạng Colombo viết là bakà, bản ở Rangoon là kankà.

417 Con cá chui vào trong bùn ở dưới đáy hồ.

418 Dhammatha, sự tốt lành nơi Dhamana; mục đích của nó, ý nghĩa của nó? Bản chú giải Hạnh Tạng giải thích bằng dhammabhùtam attham Dhammato và anapetam attham, "điều tốt lành đó trở thành giáo pháp. Hoặc, điều tốt lành đó không xa rời khỏi giáo pháp"

419 đó là việc không làm hại kẻ khác ngay cả một sinh vật nhỏ bé, bản chú giải Hạnh Tạng 238.

420 Bản Hạnh Tạng La tinh viết là Vihimsitam, các bản in ở Colombo, Rangoon viết là pihini- một sự quả quyết giống như thế được thực hiện như ở Túc sanh truyện IV. 142 và đối chiếu Trung bộ II. 103.

421 Ðược gọi là megha (cơn bão) đám mây, bản chú giải Hạnh Tạng 238. Túc sanh truyện I. 332 ở bản chú giải Tương ưng bộ kinh 81, ngài được gọi là thần sấm, thần mưa.

422 Mặc dù Kàla ở số ít, số nhiều là ý định, hoặc một bầy quạ, kàlasamgha, bản chú giải Hạnh Tạng 238f.

423 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng ở Colombo viết là rundhehi, bản Hạnh Tạng Rangoon và Túc sanh truyện I. 332 viết ran- được lưu ý như là một động từ ở bản Hạnh Tạng Colombo.

424 Macche bản chú giải Hạnh Tạng 239 nói rằng điều này có nghĩa: tất cả loài cá là họ hàng của tôi (Như Lai); nói thêm rằng chúng đọc là manca, và tôi ở Túc sanh truyện, và sau đó nói: "hãy trả tự do cho tôi và họ hàng của tôi"

425 đối chiếu Tương ưng bộ kinh I. 100 ở bản sự kinh, ở bản chú giải Hạnh Tạng, Túc sanh truyện I. 332 người ta nói rằng trời mưa khắp xứ Kasala.

426 Katvà, thực hiện, đã thực hiện, dùng với viriyam uttamam ở bản chú giải Hạnh Tạng 240.

427 Túc sanh truyện kanhadìpàyana số 444.

428 Bản chú giải Hạnh Tạng 241 giải thích rằng tên của Bồ-tát sau đó là Dìpàyana, nhưng thân thể của ngài hóa thành màu đen khi ngài nằm ở dưới thân thể của người bạn ngài, Mandabya bị cắm trên cọc nhọn, máu đang nhỏ xuống, người được mọi người biết với cái tên Dìpayana người M.

429 Anabhirati, đối chiếu BD (Book of Discipline) của I. B. Horner. 1, 114, 192.

430 Bản Hạnh Tạng La tinh viết là pi, bản chú giải Hạnh Tạng 242. Các bản Hạnh Tạng in ở Colombo, Rangoon là hi.

431 Bản Hạnh Tạng viết aratimme ratimànase. Tôi theo Hạnh Tạng in ở Colombo, Rangoon là arit me carait mànase, và những từ giải thích ở bản chú giải Hạnh Tạng mama mànase citte arati pavattati.

432 Trong một tiền kiếp ngài đã dùng một miếng gỗ mun đâm chết con ruồi.

433 Àpucchati thường dùng để xin phép để thúc đẩy ai ban một lợi lộc. Ở đây Mandabya đã xây dựng những cốc cho Dìpayana và các đạo sĩ khổ hạnh khác.

434 Chơi một trò chơi gọi là genduka, bản chú giải Hạnh Tạng 246.

435 Quả bóng lăn vào tổ kiến và đụng nhằm con rắn nằm phía trong, ở trên đầu.

436 Bản Hạnh Tạng La tinh viết là ativìsena, bản chú giải Hạnh Tạng 246, bản Hạnh Tạng ở Colombo, Rangoon viết àsì.

437 Bản chú giải Hạnh Tạng cũng vậy.

438 Vàhasi, "nó liên quan đến sự thương xót của tôi cũng như thân thể của tôi", cùng trong sách.

439 Câu kệ 11, 12 ở Túc sanh truyện IV. 31.

440 Hạnh Tạng La tinh, Hạnh Tạng ở Colombo viết mama yidam, Hạnh Tạng Rangoon mamedam.

441 Cùng một dòng ở Trường bộ ii, 151. Ở DAT. II. 236 samàdhikàni, "và thêm nữa" được giải thích bằng ekena vassena, mà tổng cộng là 51 năm. Bản chú giải Hạnh Tạng là im lặng.

442 Etena saccena suvatthi hotu, đối chiếu dấu hiệu an toàn của angulimàla ở Mi Tiên vấn đáp ii. 103, tena saccena sotthi hotu.

443 Tên của người thanh niên.

444 Túc sanh truyện Mahàsutasoma số 537, Túc sanh truyện Màlà số 31.

445 Bản Hạnh Tạng La tinh viết Sankara, bản chú giải Hạnh Tạng 251, các bản Hạnh Tạng ở Colombo, Rangoon, Túc sanh truyện V. 481 viết Sangara.

446 Bản chú giải Hạnh Tạng nói rằng ông ta dùng một sợi dây thừng xỏ xâu qua các bàn tay của họ để treo họ trên một cái cây.

447 Sampamilàpetvà, bản chú giải Hạnh Tạng pamilàpetvà, héo khô, visosetvà, bị làm khô héo, khedàpetvà, tra tấn. Hoặc có phải nó ở từ gốc mil, và không phải mlà, như được gợi ý bởi bản chú giải Hạnh Tạng và được từ điển Pàli Anh chấp nhận? Nhưng đối chiếu pamilàta ở Mi Tiên vấn đáp 303, hiển nhiên có ý nghĩa làm cho khô héo.

448 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng 254 viết là nissajjam, các bản Hạnh Tạng ở Colombo, Rangoon viết là nissajam, nghĩa là từ bàn tay của kẻ ăn thịt người.

449 Tôi không thấy lời kệ này ở Túc sanh truyện số 537, cũng không thấy sự khác biệt như nó được mô tả ở Túc sanh truyện I. 46, bản chú giải Phật Tông. Bản chú giải Apàdana 51 để minh họa sự cao cả của độ chân thật, paramatthapàramì, nhưng bản chú giải Phật Tông 60 đọc là esà me saccapàramì.

450 Túc sanh truyện Sàma số 540, đối chiếu Phật bản hạnh tập kinh ii 209, và Jàtakastava, câu chuyện 44, Sàma được đề cập ở Mi Tiên vấn đáp 123, 198.

451 Bản chú giải Hạnh Tạng 258 Sàmapanditacariyam.

452 Nghĩa là tạo ra do lời khuyên của ông ta.

453 Bản Hạnh Tạng La tinh viết dìpehi, các bản Hạnh Tạng in ở Colombo, Rangoon viết dìpìhi.

454 Bản Hạnh Tạng La tinh viết uttassati, bản chú giải Hạnh Tạng 260. Các bản Hạnh Tạng ở Rangoon, Colombo viết là uttassi.

455 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản Hạnh Tạng Rangoon viết là napi, bản Hạnh Tạng Colombo viết napi'ham.

456 Bản chú giải Hạnh Tạng 260, súc sinh, ngạ quỉ, phi nhân, con người là những thợ săn.

457 Lời kệ này được trích dẫn ở Túc sanh truyện I, 47. Bản chú giải Phật Tông 61 mô tả sự cao cả của độ từ bi, được qui cho ở đó đối với Túc sanh truyện Ekaraja; cũng được trích dẫn ở bản chú giải Apàdàna 51, cũng như Túc sanh truyện Sàma, với Túc sanh truyện Ekaràja. Xem phẩm III. 14. n. 1.

458 Túc sanh truyện Ekaràja số 303 ở DPPN, Túc sanh truyện i. 47. Bản chú giải Phật Tông 61, được đưa ra như một ví dụ của một kiếp ở đó Bồ-tát thực hành tâm từ đi đến hạnh cao quí nhất. Tuy nhiên lời kệ được trích dẫn là câu kệ cuối cùng ở trong câu chuyện Hạnh Tạng trước đó (phẩm III. 13) không phải là một câu chuyện liên quan đến độ này (hạnh này) ở mức độ cao nhất của nó. Ở bản chú giải Apàdàna 51 thì nó cao quí được mô tả với Túc sanh truyện Sàma.

459 Như được đặt tên ở câu kệ tiếp.

460 Bản chú giải Hạnh Tạng 264 giải thích pasàsàmi như là anusàsàmi. Như Lai cai quản, và rajjam kàremi, Như Lai cai trị, trị vì đặc biệt toàn vương quốc kàsi.

461 Như ở phẩm I. 3, 1; phẩm II. 8, 2.

462 Xem phẩm II. 9. 2.n.

463 vua Kosala.

464 Bàrànasi, cũng gọi là Kàsi

465 Hạnh Tạng La tinh viết nikkhani, bản chú giải Hạnh Tạng 266 viết nikhanì, bản ở Colombo viết nikhani, bản ở Rangoon nikhanì.

466 Kàsu được giải thích bằng àvàta ở bản chú giải Hạnh Tạng bổ sung thêm "cao đến cổ" -Kàsu cùng ở phẩm II. I. 30.

467 Antepura là nội ô, nghĩa là hoàng cung, chắc hẳn sẽ có cung phi mỹ nữ của nhà vua con cái và quản gia.

468 Sự giống nhau của sự cao quí này (cariya) với Túc sanh truyện Lomahamsa số 94 mở ra một sự nghi ngờ. Xem phần giới thiệu trang VIII

469 Ở Túc sanh truyện i.47. Bản chú giải Phật Tông 61. Bản chú giải Apadàna 51 lời kệ này được trích dẫn để mô tả sự cao cả của xả độ, tất cả ba đoạn nói rằng ý nghĩa trọn vẹn có thể đạt được từ cariyàpitaka ở Trung bộ kinh i.79 ở kinh Mahàsihanàda, số 12 tình tiết của bài kệ này được gọi là "tuân giữ tâm xả". Ở cuối bài kinh người ta ghi chép lại việc đức Phật khuyên Nàgasamàla rằng bởi vì tóc của vị này dựng đứng khi nghe bài kinh vị nàyphải ghi nhớ đến nó như là "tóc dựng đứng" (hoặc sự sửng sốt). Sự tường thuật Lomahanisanapariya. Xem phần giới thiệu trang VIII, cũng là 10 Túc sanh truyện của Horner, London, 1957. Lời giới thiệu trang XXI.

470 Bản Hạnh Tạng La tinh viết là nidhàya, hai bản Hạnh Tạng ở Rangoon và Colombo, bản chú giải Phật Tông 61, bản chú giải Apadàna 51 viết là upanidhàya; bản chú giải Hạnh Tạng 269 tạo nên một khúc xương cái gối của Như Lai; 276, Trung bộ kinh I, 79 (bằng văn xuôi). Túc sanh truyện I, 47 viết là upadhàya.

471 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản ở Rangoon viết gamandala; bảng Hạnh Tạng Colombo, bản chú giải Hạnh Tạng, Trung bộ kinh I, Túc sanh truyện I, bản chú giải Phật Tông, bản chú giải Apadàna (tất cả đều ở nơi trích dẫn) những "nông dân"

472 bản Hạnh Tạng La tinh, bản Hạnh Tạng Colombo viết gandhan ca màlan ca, bản Hạnh Tạng Rangoon viết gandhamàlan ca.

473 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản Hạnh Tạng Colombo, viết upadahanti, bản chú giải Hạnh Tạng 270, bản Hạnh Tạng Rangoon viết upaharanti.

474 bản Hạnh Tạng La tinh viết dayakopo, bản chú giải Hạnh Tạng, hai bản Hạnh Tạng ở Colombo, Rangoon viết dayàkopo.

475 Yasesu ayasesu được giải thích bằng kittìsu nindàsu ở bản chú giải Hạnh Tạng 270.

476 Bản Hạnh Tạng ở Colombo upekkhàpàramì niddeso nitthito, bản Hạnh Tạng Rangoon upekkhavaggo tatiyo.

477 Ở sự đánh số của 10 câu kệ cuối cùng này, xem phần giới thiệu trang I. Lời kệ 4- (10).

478 Bhisena, được giải thích ở bản chú giải Hạnh Tạng 271 là phẩm hạnh của Bồ-tát Mahàkancana, tựa đề của nó dành cho sự cao quí này, phẩm III, 4.

479 Bhavàbhave, bản chú giải Hạnh Tạng 272, trong những kiếp sống nhỏ bé hoặc to lớn, hoặc ở sự phát triển hoặc tàn lụi, cũng xem bản chú giải Hạnh Tạng 20.

480 Dàtabbakani, lời kệ (8)-(14) cũng ở Apadàna trang 5-6 lời kệ 69-75 với một ít lời thơ M.

481 Chỉ về trí tuệ độ, bản chú giải Hạnh Tạng 274. Chẳng có phần nào trong ba độ (hạnh) của lời kệ này có một sự cao quí tương quan ở Hạnh Tạng.

482 Yasàyase, xem phẩm III. 15. 4.

483 Ðọc Sammà- với bản chú giải Hạnh Tạng 275, hai bản Hạnh Tạng ở Colombo và Rangoon đối với bản Hạnh Tạng La tinh samà-

484 đọc Samako với trong sách, đối với bản La tinh viết là samàno.

485 Bản Hạnh Tạng La tinh, bản Hạnh Tạng in ở Rangoon, bản chú giải Hạnh Tạng 333 về câu kệ 6 viết là buddhànusàsanì, bản Hạnh Tạng ở Colombo, bản chú giải Hạnh Tạng 333, 335 câu kệ 7, 8 viết là -àna-.

486 Bản chú giải Hạnh Tạng 333 đề cập đến sáu vấn đề gây ra vivàda, sự tranh giành, cải cọ, xem ví dụ Luật tạng ii 89, Trung bộ iii 246, Trung bộ ii 245; Apadàna iii 334.

487 Bản chú giải Hạnh Tạng, đây là sự tu dưỡng tâm từ bi hoặc cũng là 6 điều cần ghi nhớ (Sàrànìyadhama ví dụ ở Trung bộ kinh 245 Trung bộ kinh I. 332. Apadàna iii 288) làm cho đi sự tranh giành.

488 Bản Hạnh Tạng La tinh akhilà, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng ở Colombo, Rangoon viết là sakhilà, được giải thích ở bản chú giải Hạnh Tạng là muduhadayà.

489 Bản Hạnh Tạng La tinh viết là bhave atthan-, bản chú giải Hạnh Tạng 334, bản Hạnh Tạng ở Colombo và Rangoon, Apadàna trang 6 câu kệ 75 viết là bhàveth'atthan-

490 ittham sudam, bản chú giải Hạnh Tạng 335 nói rằng sudam chỉ là một phân từ và ittham có nghĩa là"một trăm ngàn đại kiếp và 4 a tăng kỳ" xen bản chú giải Hạnh Tạng 2, lời kệ 16; đây là những điều cần thiết để mang lại sự giác ngộ đến chín chắn.

491 Budhàpadàniya, được trình bày như là một tựa đề khác cho Hạnh Tạng ở bản chú giải Hạnh Tạng, được thực hiện dưới cái tên những vị Phật (khác) và khó khăn để thực hiện, được kể lại như là việc liên quan đến Bồ-tát, adhikiccappavattattà (từ này cũng dùng ở Thanh Tịnh đạo 450) nghĩa là đối với đức Phật Gotama. Những câu chuyện được kết tập trong Hạnh Tạng mô tả phẩm hạnh tiền kiếp của Bồ-tát nhằm để thuật lại những hành động đã được thực hiện chỉ ở kiếp Bhadda này (Hiện kiếp) (xem phẩm I. 2 và bản chú giải Hạnh Tạng 20) xem phần giới thiệu trang Vif. X.


tải về 492.56 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương