Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561



tải về 1.01 Mb.
trang6/12
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.01 Mb.
#5756
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

2.2.2 Các chỉ tiêu định tính

2.2.2.1 Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm

Hiện tại, cà phê của Việt Nam đang bị đánh giá là kém chất lượng rất nhiều so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường EU. Tổng số lỗi trong mẫu 300g cà phê nhân trung bình của toàn tỉnh Đak Lak là 375 lỗi niên vụ 2008/2009, cao gấp 2,35 lần so với niên vụ 2007/2008 (Công Luận, 2009). Có 3 hãng cà phê hàng đầu trên thị trường EU phải kể đến lần lượt đó là Kraft, Nestlé và Sarah. Thế nhưng 3 hãng cà phê này hầu như đều không hài lòng về chất lượng cà phê của Việt Nam, cà phê xuất khẩu cho tập đoàn Nestlé đạt chuẩn chỉ có 53%.

Vào tháng 5/2004, ICO đã triển khai Chương trình cải thiện chất lượng sản phẩm cà phê (CQP- Coffee Quality Improvement Programme) và thông qua Nghị quyết 420. Nghị quyết này yêu cầu tất cả các nước xuất khẩu thành viên ICO, trong đó có Việt Nam phải khai báo các thông tin về chất lượng sản phẩm bao gồm số lỗi và độ ẩm lên C/O khi xuất khẩu. Trong số 25 nước đã thực hiện yêu cầu đó thì không có Việt Nam, vì bản tiêu chuẩn Nhà nước TCVN 4193:2005 được coi là văn bản chuẩn để phân loại cà phê chưa được áp dụng rộng rãi.

Niên vụ 2005/2006, ở tất cả 10 cảng của EU gồm Amsterdam, Antwerp, Barcelora, Bremen, Genoa, Hamburg, Le Havre, London, Rotterdam, Triest, tổng số cà phê bị loại là 1.485.750 bao 60 kg, trong đó Việt Nam chiếm 1.074.500 bao, tỉ lệ là 72,32%. Theo thống kê qua sàn giao dịch LIFFE ở Luân Đôn, niên vụ 2006/2007, tỉ lệ cà phê Việt Nam bị thải loại tiếp tục tăng (Đoàn Triệu Nhạn, 2007). Cụ thể trong số 708.300 bao bị thải loại thì Việt Nam chiếm tới 88%, gần 37.400 tấn. Niên vụ 2007/2008 có 2,4 triệu bao cà phê dưới chuẩn CQP, trong đó Việt Nam chiếm đến 61,53% khối lượng cà phê bị đánh giá là cà phê kém, xấu bị thải loại ở các cảng (ICO, 2009 B). Nguyên nhân do Việt Nam chủ yếu bán cà phê ở dạng nhân xô, phân loại theo tiêu chuẩn cũ TCVN 4193-93, bản tiêu chuẩn này chỉ đánh giá cà phê xuất khẩu rất đơn giản theo 3 tiêu chí về phần trăm lượng ẩm, hạt đen vỡ và tạp chất mà không xếp hạng theo số lỗi của cà phê. Đứng thứ 2 là cà phê của Indonesia, chiếm 11,39% niên vụ 2007/2008, chỉ gần bằng 1/5 lần cà phê kém xấu của Việt Nam. Qua đó, một thực tế phải nhìn nhận là cà phê nước ta xuất khẩu vào EU có khối lượng nhiều, đồng thời cũng bị thải loại nhiều nhất trên thị trường này.

Đánh giá chất lượng của các quốc gia khác, ta thấy như bảng 2.8 sau, chất lượng cà phê của các quốc gia hàng đầu khác xuất khẩu vào EU như Braxin, Honduras, Ecuador rất cao, đến 100% lượng cà phê là đảm bảo chất lượng, Colombia là 90,48%, ngay cả đến Ấn Độ, quốc gia thuộc khu vực Châu Á như Việt Nam, tỉ lệ đạt chuẩn cũng lên tới 97,73% .

Bảng 2.8: Khối lượng cà phê xuất khẩu phân loại theo Nghị Quyết 420 của ICO, niên vụ 2009/2010

Quốc gia

Tổng

(bao 60kg)



Tuân thủ tiêu chuẩn lỗi và độ ẩm (%)

Không tuân thủ tiêu chuẩn lỗi (%)

Không tuân thủ tiêu chuẩn độ ẩm (%)

Không tuân thủ cả 2 tiêu chuẩn (%)

Không xác định (%)

Braxin

19.909.756

100

0

0

0

0

Colombia

4.966.508

90,48

0

0

0

9,52

Ecuador

220.319

100

0

0

0

0

Honduras

2.811.249

100

0

0

0

0

Ấn Độ

1.460.247

97,73

2,27

0

0

0

Guatemala

2.721.076

100

0

0

0

0

Nguồn: ICO, 2010 B

Một chỉ tiêu đi đôi với chất lượng cần nói tới đó là vệ sinh an toàn thực phẩm. Vệ sinh an toàn thực phẩm xác định dựa trên các vấn đề liên quan đến vi sinh vật có khả năng gây bệnh, chất gây ô nhiễm công nghiệp, chất gây dị ứng, kim loại nặng, chất cặn thuốc trừ sâu, vật thể lạ và phụ gia thực phẩm… Ngành cà phê của Việt Nam vẫn chưa đảm bảo được những vấn đề trên. Việc sản xuất nhỏ lẻ, các hộ gia đình thiếu sân phơi, phải phơi sân đất; không có máy sấy, phải phụ thuộc vào thời tiết; công nghệ sản xuất lạc hậu; sử dụng lao động thủ công là chủ yếu... làm cho phần nhiều sản phẩm cà phê Việt Nam vẫn chưa đạt chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong khi đó các nước như Braxin, Colombia, Peru sử dụng quy trình sản xuất cà phê tiên tiến, tạo ra những sản phẩm cà phê sạch, đạt yêu cầu về vệ sinh thực phẩm. Các nước này trong quá trình trồng trọt đến sản xuất đều đảm bảo tuân thủ hàm lượng chất hóa học, phân bón, cà phê được phơi, sấy ở những cơ sở tiêu chuẩn, sử dụng phổ biến các công cụ máy móc hiện đại trong công nghệ chế biến, hạn chế lao động thủ công do con người thực hiện để sản phẩm cà phê được vệ sinh. Đặc biệt, Liên đoàn những người trồng cà phê Colombia (FNC) còn có một trung tâm nghiên cứu và phát triển những kĩ thuật trồng cà phê thân thiện với môi trường như kĩ thuật kiểm soát sâu bệnh an toàn, kĩ thuật phân bón hữu cơ, quá trình chế biến ướt sử dụng ít nước… Vì thế, vệ sinh an toàn thực phẩm là một bất lợi của Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh khi xuất khẩu cà phê vào EU.



2.2.2.2 Cơ cấu chủng loại sản phẩm

Cơ cấu cà phê xuất khẩu vào thị trường EU chủ yếu vẫn là mặt hàng cà phê nhân, hơn 99% là cà phê nhân chưa rang chưa tách cafein. Các nước xuất khẩu hàng đầu đều có tỉ trọng xuất khẩu cà phê nhân vượt trên 97%, trong đó tỉ trọng của Việt Nam chiếm đến 99,98%.



Bảng 2.9: Tỷ trọng cơ cấu cà phê xuất khẩu của một số quốc gia vào thị trường EU, giai đoạn 2005-2011

Quốc gia

Việt Nam

Peru

Indonesia

Braxin

Cà phê nhân (%)

99,98

99,91

99,88

98,37

Rang xay và hoà tan (%)

0,02

0,09

0,12

1,63

Quốc gia

Colombia

Côte d’Ivoire

Ecuador

Thuỵ Sỹ

Cà phê nhân (%)

97,34

84,45

16,15

3,42

Rang xay và hoà tan (%)

2,66

15,55

83,85

96,58

Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn Europa

Xét về trong chủng loại cà phê nhân là Arabica và Robusta thì Việt Nam xuất khẩu chủ yếu cà phê Robusta, là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất vào thị trường này. Trong khi đó, năm 2010, EU nhập khẩu khoảng 65,8% lượng cà phê Arabica, 34% lượng cà phê Robusta, còn lại chỉ 0,2% loại cà phê khác, cho thấy thị trường EU ưa chuộng loại cà phê Arabica hơn. Các nước xuất khẩu Arabica hàng đầu vào EU là Braxin, Colombia và Honduras. Như vậy có thể thấy lợi thế cạnh tranh của Việt Nam là tương đối thấp hơn so với các quốc gia xuất khẩu cà phê nhân hàng đầu khác về mặt chủng loại.

Về mặt hàng cà phê rang xay và hoà tan thì chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng số cà phê xuất khẩu vào EU. Nước xuất khẩu nhiều nhất loại cà phê chế biến này là Thụy Sỹ, tỉ trọng chiếm tới 96,58% tổng sản lượng quốc gia này xuất vào EU, tỉ trọng của Việt Nam chỉ có 0,02%, một con số không đáng kể. Thêm vào đó, các sản phẩm cà phê chế biến của Việt Nam hầu như chỉ là những sản phẩm hòa tan, đóng gói đơn giản. Có thể nói Việt Nam gần như không có năng lực cạnh tranh về mặt hàng cà phê chế biến này trên thị trường EU.

Đối với sản phẩm cà phê sạch, cà phê đạt chứng nhận thì Việt Nam sản xuất được rất ít để xuất sang EU. Năm 2009, CIB ước tính cà phê sạch chiếm khoảng 2% trong tổng sản lượng tiêu thụ cà phê của EU. Tổng lượng cà phê sạch và cà phê đạt chứng nhận Fai-trade chiếm 2,6%, những thị trường lớn nhất cho các sản phẩm cà phê này ở EU là Đức, Pháp, Anh. Các nước xuất khẩu cà phê Fair-trade lớn nhất vào EU là Peru, Colombia, Mexico, Guatemala. Khả năng cạnh tranh của Việt Nam về các sản phẩm cà phê này có thể nói là con số 0.



2.2.2.3 Kênh phân phối

Cà phê Việt Nam chủ yếu thâm nhập vào EU gián tiếp qua các đầu mối trung gian hoặc đại lý là các doanh nghiệp nước ngoài. Sau đó, các trung gian hoặc đại lý này mới phân phối đến nhà nhập khẩu hay các công ty rang xay cà phê ở EU. Phần lớn cà phê Việt Nam chưa tiếp cận được với các nhà nhập khẩu, nếu có cũng là những doanh nghiệp lớn, chưa kể đến tiếp cận trực tiếp với các nhà bán lẻ và hệ thống siêu thị ở EU là con số hiếm. Việt Nam vẫn chưa đủ khả năng xây dựng kênh phân phối riêng trên thị trường EU, điều này khiến cho các doanh nghiệp ít thu được thông tin thị trường và phản hồi về sản phẩm cà phê để đổi mới cho hợp lý. Như vậy, các doanh nghiệp trung gian vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong kênh phân phối của cà phê Việt Nam xuất khẩu sang EU. (tham khảo sơ đồ trong phần phụ lục)

Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh khác như Braxin, Colombia... thì hoạt động hiệu quả hơn. Braxin có Tổ chức các nhà xuất khẩu, đóng vai trò trong việc tìm kiếm và thỏa thuận trực tiếp với các nhà nhập khẩu, cà phê Braxin được sản xuất, xuất khẩu trực tiếp chứ ít qua trung gian, vì vậy vừa có lợi thế về giá, vừa tạo được uy tín, khách hàng tin dùng. Bên cạnh đó, Braxin còn thâm nhập vào hệ thống siêu thị, tổ chức các chương trình thưởng thức cà phê miễn phí cho khách hàng, những người mua sắm nhằm giới thiệu trực tiếp sản phẩm cà phê đến người tiêu dùng. Còn Colombia thì có FNC đóng vai trò thu mua cà phê trong nước và kết nối thẳng với doanh nghiệp rang xay tại EU, liên kết thị trường trong nước và nhà nhập khẩu EU, phân phối cà phê trực tiếp, không phải qua nhiều trung gian.

2.2.2.4 Thương hiệu cà phê Việt Nam

Trong một thị trường có thu nhập cao như EU, điều mà người tiêu dùng quan tâm nhất không hẳn là giá cả mà là chất lượng sản phẩm và sự nổi tiếng của thương hiệu. Trong các năm qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành xúc tiến thương mại và tìm kiếm đối tác thông qua việc tham gia các hội chợ triển lãm, quảng bá thương hiệu. Tuần lễ văn hoá cà phê nhằm quảng bá cà phê Buôn Ma Thuột nói riêng và cà phê Việt Nam nói chung được tổ chức cũng đã thu hút nhiều sự quan tâm của thế giới, trong đó có đại diện các nhà phân phối và rang xay cà phê lớn của EU. Điều này cho thấy nỗ lực của ta trong việc giới thiệu hình ảnh, thương hiệu cà phê Việt. Mặc dù vậy, vẫn phải thừa nhận rằng, tuy là nước xuất khẩu lớn thứ 2 vào EU nhưng người dân EU vẫn ít biết đến thương hiệu cà phê của Việt Nam.

Mặt hàng cà phê của Việt Nam xuất chủ yếu thông qua trung gian bằng các nhãn hiệu hàng hóa nước ngoài, trên 90% cà phê nhân Việt Nam đều được chế biến và đóng gói dưới nhãn hiệu của nước khác, nên thực tế thương hiệu cà phê của Việt Nam vẫn chưa được khẳng định. Thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp cũng đã ý thức được tầm quan trọng của thương hiệu nên đã tiến hành đăng kí bảo hộ thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê. Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp có đăng kí tại nước ngoài còn quá ít. Thậm chí, có thương hiệu như cà phê Buôn Ma Thuột và Đak Lak đã bị doanh nghiệp Trung Quốc và Pháp chiếm dụng, đăng kí nhãn hiệu độc quyền trên một số thị trường nước ngoài. Việt Nam cũng có một số sản phẩm cà phê khá nổi tiếng, thế nhưng chỉ mới có 1 chỉ dẫn địa lý cho cà phê của Việt Nam “Buôn Ma Thuột” là nổi tiếng trên EU. Trong khi đó, các nước khác thì rất chú trọng vấn đề này và đã đăng kí chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm của mình, cả trong nước lẫn ngoài nước, gắn liền với hình ảnh quốc gia.

Bảng 2.10: Các chỉ dẫn địa lý nổi tiếng trên thế giới của một số quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu vào EU

Quốc gia

Chỉ dẫn địa lý

Braxin

Bahia, Bourbon Santos (Santos), Cerrado

Indonesia

Ankola, Celebes Toraja, Gayo Mountain, Java, Kopi Luwak, Mandheling Lintong, Sulawesi Toraja

Colombia

Armenia, Bogota, Bucaramanga, Cucuta, Manizales, Medellin, MAM

Peru

Chanchamayo Valley/Chanchamayo

Ấn Độ

Mysore

Nguồn: Peter Baskerville, n.d.

Về sản phẩm cà phê hòa tan thì Việt Nam chỉ có thương hiệu cà phê Trung Nguyên là đã được chào bán, đánh giá và xây dựng được hình ảnh trên thị trường EU. Các nước khác thì đã xây dựng được nhiều thương hiệu đại diện cho nước mình như Braxin có Café Brazil, DoPonto, Melitta, Pllao, Caboclo; Colombia có Café Madrid, Juan Valdez, BluenDia, họ đã có những hoạt động xúc tiến quảng bá thương hiệu cho quốc gia mình. Chẳng hạn như Colombia, FNC đã xây dựng chiến lược quảng cáo để người tiêu dùng nhận biết điểm ưu việt của cà phê Colombia so với các quốc gia khác thông qua mạng lưới kênh đại chúng, truyền bá hình ảnh những người nông dân Colombia đang thu hoạch cà phê một cách cẩn thận trên khắp thế giới, gây ấn tượng với người tiêu dùng. Ngoài ra Colombia còn có các hoạt động quảng cáo tại các sự kiện thể thao như đặt panô quảng cáo tại các giải trựơt tuyết Cúp thế giới Alpine, giải trượt tuyết vô địch thế giới và Châu Âu, giúp cho thương hiệu cà phê Colombia được nhiều người nhận biết. Braxin thì có chương trình “Cà phê và sức khỏe” với nội dung hướng dẫn và giáo dục cộng đồng về lợi ích của việc sử dụng cà phê điều độ, thường xuyên đối với sức khỏe con người.

Qua những đánh giá trên thì ta thấy NLCT của cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU còn tương đối thấp so với các đối thủ cạnh tranh khác, đặc biệt là các nước đến từ khu vực Mỹ Latin. Việt Nam có lợi thế về mặt sản lượng xuất khẩu, chỉ sau Braxin, nhưng lại kém các nước về các khía cạnh như chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh, cơ cấu chủng loại, kênh phân phối, thương hiệu… Vì thế, việc nâng cao NLCT là rất cần thiết cho ngành hàng cà phê Việt Nam hiện nay.

2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU theo mô hình kim cương của M.Porter

2.3.1 Điều kiện các yếu tố sản xuất


  • Điều kiện tự nhiên

Việt Nam có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi thích hợp cho việc trồng trọt và phát triển của cây cà phê.Với 2 loại cà phê chính là Arabica và Robusta, khí hậu Việt Nam chia thành 2 miền rõ rệt thích ứng với từng loại cà phê trên. Cà phê Arabica thích hợp với miền phía Bắc, khí hậu cao, mùa đông lạnh, có mưa nhiều, độ cao trên 1000m so với mặt nước biển. Còn cà phê Robusta thích hợp với miền phía Nam, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, cà phê Robusa được trồng nhiều nhất ở Tây Nguyên chiếm đến 72% diện tích cả nước. Bên cạnh đó, điều kiện đất đai của Việt Nam cũng rất thuận lợi. Tính đến năm 2010, tổng diện tích trồng cà phê của Việt Nam đạt xấp xỉ 540.000 ha, đứng thứ 4 thế giới. Đất đai có thổ nhưỡng đạt giá trị kinh tế cao như đất đỏ bazan trải dài từ cao nguyên Trung Bộ đến vùng Đông Nam Bộ. Chính những điều kiện tự nhiên như thế đã giúp cà phê Việt Nam đạt năng suất sản lượng cao trên thế giới và có được những hương vị tự nhiên đặc trưng.

Thế nhưng, thời gian gần đây, nhiều hộ gia đình tự ý chặt phá rừng nguyên sinh, đặc biệt ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, để lấy đất trồng cà phê đã khiến cho mực nước ngầm tụt sâu 10-20 m so với trước đây khi còn là rừng nguyên sinh, ảnh hưởng đến lượng nước tưới cho cây cà phê. Đất trồng cà phê đang dần trở nên cằn cỗi do phần lớn diện tích trồng không đúng qui cách, chăm sóc không đúng kĩ thuật.



  • Nguồn nhân lực

Việt Nam với dân số cả nước gần 86 triệu người năm 2009, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực, cung cấp một nguồn nhân lực dồi dào và giá rẻ. Trong đó số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh và chiếm một tỉ lệ cao khoảng 67% dân số cả nước (Trung tâm hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực, 2010). Tổng lực lượng lao động trong ngành cà phê chiếm khoảng 2% lực lượng lao động nước ta, đây là một lợi thế cho ngành cà phê của Việt Nam.

Hiện tại, ngành cà phê Việt Nam có gần 200 doanh nghiệp chế biến cà phê, trên 140 doanh nghiệp xuất khẩu, với 4 doanh nghiệp hàng đầu là Tổng công ty Cà phê Việt Nam, Cà phê 2/9, Xuất nhập khẩu Intimex, Tập đoàn Thái Hòa, nhưng các doanh nghiệp có kinh nghiệm trên thị trường thế giới là không nhiều. Chất lượng, kĩ năng trình độ của lao động trong ngành vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Những người nông dân trồng cà phê chủ yếu là tự phát, không có nhiều kiến thức về cây trồng, cách chăm sóc và thu hái. Chính vì những hạn hẹp về trình độ trên mà chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam không cao, làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng.

Tuy nhiên, gần đây trình độ phát triển nguồn nhân lực đã được từng bước chú trọng hơn. Theo Bộ NN&PTNT, hiện nay nước ta có khoảng 13 trường đại học, cao đẳng có ngành đào tạo về nông lâm nghiệp, nổi lên là 2 trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội và Đại học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh. Về phía cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, các trung tâm thì có khoảng 60% trường có dạy nghề nông lâm. Ngoài ra còn có 28 viện và trung tâm nghiên cứu trực thuộc Bộ NN&PTNT. Hiệp hội VICOFA và các cơ quan có liên quan cũng đã tích cực phổ biến các kiến thức, kĩ thuật canh tác cà phê cho các hộ nông dân thông qua các chương trình khuyến nông, các buổi tọa đàm, hội thảo nông nghiệp.


  • Nguồn vốn

Sản xuất cà phê chủ yếu tập trung ở các hộ gia đình nhỏ lẻ, vốn đầu tư cho vườn nhà là rất hạn chế, đa số phải vay từ các ngân hàng, chủ yếu là Ngân hàng NN&PTNT. Ngân hàng này tiến hành cả cho vay theo vụ và cho vay trồng mới nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi cà phê Arabica. Những người trồng cà phê Robusta vẫn có thể vay vốn từ ngân hàng với những điều kiện cụ thể nhưng nguồn tín dụng cho những người này rất hạn chế. Đối với cà phê, thời gian cho vay không dài, thường là 1 năm, cho vay làm 3 lần, nên nhiều khi người nông dân phải bán cà phê trong giai đọan giá thấp để trả nợ và để có thể vay cho vụ tiếp theo, làm lợi nhuận thu được ít, thậm chí là lỗ vốn. Một mặt khác, người nông dân không có vốn phải đi ứng trước hoặc mua chịu vật tư, phân bón của các đại lý, đến kì thu hoạch thường phải bán non để có tiền trả nợ nên hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao.

Về phía các doanh nghiệp thì doanh nghiệp có vốn lớn không nhiều, đặc biệt mỏng so với các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động cùng lĩnh vực. Các doanh nghiệp cần tiền cho việc thu mua, sản xuất, dự trữ và xuất khẩu, tuy nhiên, do hạn chế về vốn nên chỉ đáp ứng 1 phần, còn lại phải huy động vốn vay từ ngân hàng. Thế nhưng do lãi suất cao và thời gian vay ngắn nên hoạt động gặp nhiều khó khăn.



  • Cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng cho ngành cà phê nhìn chung còn kém. Ngoài một số các doanh nghiệp có hệ thống trồng trọt, chế biến, hệ thống sân phơi thích hợp thì hầu hết các hộ gia đình đều sử dụng diện tích quanh nhà làm sân phơi, chưa có điều kiện xây sân xi măng nên phải phơi sân đất, không có đủ diện tích nên phơi cà phê với mật độ dày, thiếu nắng làm ảnh hưởng chất lượng cà phê. Hệ thống đường xá, hồ đập thủy lợi, điện nước… chưa phát triển. Cảng biển thì tập trung ở những thành phố lớn, xa vùng nguyên liệu cà phê nên gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Các nhà máy chế biến chưa thật sự phát triển, trình độ công nghệ khá lạc hậu.

2.3.2 Điều kiện nhu cầu trong nước

Nhu cầu tiêu thụ cà phê nội địa nước ta được đánh giá là thấp nhưng đang có xu hướng gia tăng. Sản xuất cà phê Việt Nam dành cho xuất khẩu đến 90%, lượng tiệu thụ trong nước bình quân chỉ 0,6kg/người/năm, trong khi đó nước Braxin là 5-6kg/người/năm, các nước Bắc Âu là 10kg/người/năm, chênh lệch rất nhiều (Ngọc Hồi, n.d.).Việc tiêu thụ quá ít như vậy sẽ không đủ động lực để khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh cà phê bỏ vốn vào đầu tư nghiên cứu thị hiếu và nhu cầu của thị trường trong nước, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của chính doanh nghiệp ở nước ngoài. Tuy nhiên gần đây, tiêu thụ cà phê ở Việt Nam đang tăng lên rất nhiều, đạt mức tăng trưởng cao nhất thế giới. Theo số liệu của ICO, tiêu thụ cà phê của Việt Nam tăng trưởng 31% trong năm 2010, từ 1,208 triệu bao năm 2009 lên 1,583 triệu bao năm 2010 (Nguyễn Hằng, 2011). Kinh tế phát triển đã đẩy mạnh quá trình đô thị hóa ở nhiều nước trồng cà phê, trong đó có Việt Nam, và tạo ra những chuyển biến đáng kể đối với nhu cầu nội địa, cà phê ngày càng được tiêu thụ nhiều hơn ở thị trường bản địa. Đây là một điều đáng mừng cho ngành cà phê của Việt Nam.



2.3.3 Các ngành hỗ trợ và có liên quan đến mặt hàng cà phê xuất khẩu

  • Công nghệ sản xuất phân bón và thuốc bảo vệ thực vật

Là quốc gia nông nghiệp, Việt Nam tiêu thụ một lượng phân bón không nhỏ hàng năm. Thế nhưng thị trường phân bón Việt Nam hiện nay vẫn chưa phát triển mạnh, chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu. Công nghệ sản xuất phân bón nội địa Việt Nam mới chỉ đáp ứng được 50-60% nhu cầu về urê; các loại phân bón như SA, kali… phải nhập khẩu 100%. Về thuốc BVTV, nguồn cung chính cũng vẫn là từ nhập khẩu. Do ngành sản xuất các loại hoá chất tổng hợp dùng cho BVTV trong nước chưa phát triển nên các doanh nghiệp trong ngành sản xuất thuốc BVTV vẫn phải nhập khẩu khá nhiều nguyên liệu, làm chi phí gia tăng. Không những thế, một vấn nạn nữa là không ít nông dân mua phải phân bón, thuốc BVTV dỏm, những sản phẩm bất hợp pháp này gây ra tác hại khôn lường đối với hệ sinh vật, phá hủy đất canh tác, làm cho chất lượng cà phê không đảm bảo, ảnh hưởng đến NLCT.

  • Vận tải và chuyên chở

Việc vận tải và chuyên chở từ nơi trồng trọt đến nơi sản xuất, chế biến được thực hiện gần như bằng đường bộ. 85% cà phê được trồng trọt ở các hộ gia đình nhỏ lẻ, các hộ này hầu như đều có những phương tiện chuyên chở thô sơ như xe ba gác, xe máy xới... Các doanh nghiệp thu mua cà phê với số lượng lớn thì có thể chuyên chở thông qua các công ty vận chuyển. Còn việc chuyên chở hàng hóa xuất khẩu sang nước ngoài được thực hiện chủ yếu bằng vận tải biển, gần đây có phát triển thêm vận tải đường hàng không. Thời gian gần đây, ngành vận tải biển và kho bãi đã có nhiều bước phát triển mới, đáp ứng được nhu cầu. Tuy nhiên, các cảng biển lớn thường tập trung ở những thành phố như Sài Gòn, Hải Phòng, Quảng Ninh… nên việc chuyên chở từ các vùng nông thôn trồng trọt, sản xuất gặp nhiều khó khăn, tốn chi phí. Bên cạnh đó, việc giá xăng dầu tăng cao làm giá cước vận tải biển tăng 15-20% trong năm 2010 cũng có tác động đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam.

  • Cơ quan kiểm tra và giám định

Việc kiểm tra, giám định chất lượng cà phê ở thị trường trong nước vẫn chưa được chú trọng. Cà phê Việt Nam xuất khẩu chủ yếu ở dạng nhân xô, phân loại theo tiêu chuẩn cũ 4193-93 là không phù hợp với cách đánh giá phân loại chất lượng trên thế giới, thế nhưng hiện Việt Nam vẫn chưa có cơ quan cụ thể nào chịu trách nhiệm kiểm tra chất lượng theo tiêu chuẩn mới TCVN 4193:2005 khiến cho tỉ lệ cà phê Việt Nam bị thải loại cao nhất thế giới. Hiện Việt Nam cũng đã có nhiều công ty về kiểm tra, giám định chất lượng, nhưng việc giám định vẫn rất đơn giản, khâu nếm thử chỉ thực hiện khi có yêu cầu, trong khi quốc tế là bắt buộc. Dù cà phê đã được công ty ở Việt Nam giám định và thông qua thì vẫn không đạt được lòng tin của nhà nhập khẩu EU, nhiều trường hợp phải tổ chức giám định lại ở nơi nhập khẩu.

Каталог: file -> downloadfile6 -> 214
214 -> CHƯƠng 1: CƠ SỞ LÝ luận của hoạT ĐỘng xuất khẩu lao đỘng 3 chưƠng 2: TỔng quan tình hình xuất khẩu lao đỘng việt nam 13 chưƠng 3: MỘt số biện pháP ĐẨy mạnh và NÂng cao hiệu quả xuất khẩu lao đỘng trong những năm tớI 30
downloadfile6 -> Với kinh nghiệm lâu năm trong ngành hôm nay công ty chúng tôi Lập trình tong dai dien thoai
downloadfile6 -> NHÀ ĐẦu tư thông minh "Cuốn sách hay nhất về đầu tư từng được viết cho đến nay"
downloadfile6 -> Thế giới an ninh- thiết lập hệ thống camera quan sát với card ghi hình Hệ thống Demo bao gồm
downloadfile6 -> 1 Giới thiệu adc 0809
downloadfile6 -> BÀi giảng quản trị ngân hàng 2
downloadfile6 -> HUỲnh duy khánh các công thức tính thể TÍCH
downloadfile6 -> Dạng 1: Tính các đại lượng cơ bản (công thoát A, v0max, P, ibh, Uh, H…)
downloadfile6 -> Ách đỌc tên latinh đỗ Xuân Cẩm Giảng viên Đh huế
downloadfile6 -> I. TỔng quan về vqg tràm chim vị trí địa lý

tải về 1.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương