Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561


Môi trường cạnh tranh và cơ cấu ngành



tải về 1.01 Mb.
trang7/12
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.01 Mb.
#5756
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

2.3.4 Môi trường cạnh tranh và cơ cấu ngành

Về môi trường cạnh tranh ngành, Việt Nam có gần 200 doanh nghiệp chế biến cà phê, trên 140 doanh nghiệp xuất khẩu, nhưng hầu hết đều ở quy mô vừa và nhỏ, thiếu vốn, kinh nghiệm, tình trạng tranh mua tranh bán xảy ra ngay trên thị trường trong nước làm ảnh hưởng đến NLCT. Phần lớn các doanh nghiệp đều tập trung vào mặt hàng cà phê nhân, mặt hàng cà phê rang xay và hòa tan thì ít doanh nghiệp hơn, vì nó đòi hỏi phải đầu tư một nguồn vốn lớn và chi phí công nghệ khá cao. Thị trường cà phê rang xay và hòa tan, ngoài Vinacafe và G7 là nhãn hiệu cà phê có uy tín của Việt Nam, còn lại hầu hết đều là của doanh nghiệp nước ngoài nhập vào như Expresso Colombie, Expresso Ethiopia, Lavazza… Bên cạnh đó, thị trường cà phê hòa tan trong nước có thể nói là đã nằm trong tay những doanh nghiệp có nhãn hiệu nổi tiếng như Vinacafe, Nescafe của Nestle, cà phê G7 của Trung Nguyên. Những doanh nghiệp này ra sức nghiên cứu những sản phẩm mới, tìm kiếm cải tiến hiệu quả sản xuất, làm gia tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.



Tính liên kết trong cơ cấu ngành chưa chặt chẽ, mối liên kết giữa thu mua-xuất khẩu chưa được đảm bảo, năng lực quản lý xuất khẩu còn yếu. Nhiều doanh nghiệp thực hiện việc kí kết hợp đồng xuất khẩu trong khi vẫn chưa có dự trữ sẵn nguồn cà phê, chỉ tiến hành thu mua khi có đơn đặt hàng, vì vậy mà các doanh nghiệp này thường phải tốn mất một khoảng thời gian để thu gom hàng, không thể chủ động về giá. Rộng hơn trong tổng quan ngành thì các doanh nghiệp chưa chủ động được trong việc tận dụng những hỗ trợ từ các cơ quan, hiệp hội cũng như kết nối với bên người nông dân, cơ sở cung ứng. Người nông dân thì trồng trọt nhưng vẫn lo lắng về đầu ra, sản xuất nhỏ lẻ, thiếu thông tin thị trường. Đây là do việc điều phối hoạt động dọc chuỗi ngành hàng cà phê chưa hiệu quả, sự liên kết giữa người trồng trọt, doang nghiệp với Nhà nước còn lỏng lẻo.

2.3.5 Vai trò của Nhà nước

  • Chính sách đất đai

Vào năm 2003, Luật Đất đai được thay đổi cho phép quyền sử dụng đất được chuyển nhượng, được thừa kế và sử dụng làm tài sản thế chấp, đã tạo nhiều thuận lợi cho người nông dân nói chung và người trồng cà phê nói riêng, đặc biệt là trong việc sử dụng làm tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Có một vấn đề cụ thể phát sinh trong ngành cà phê trước đây là, đất trước đây được coi là đất rừng thì không được dùng vào mục đích nông nghiệp, khiến cho nhóm người dân di cư không chính thức, phát rừng trồng cà phê không thể đăng kí đất. Tình trạng này ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn vốn vay trên mức tối thiểu của nông dân vì họ cần phải có quyền sử dụng đất hợp lệ. Tuy nhiên Luật Đất đai 2003 đã cho phép chuyển đất rừng đang sử dụng vào sản xuất và đất không sử dụng thành đất nông nghiệp, miễn sao nông dân có đăng kí việc chuyển đổi này với phòng nhà đất của chính quyền.

  • Chính sách tín dụng

Nhà nước đã ban hành những chính sách cho vay tạo điều kiện cho các đối tượng hoạt động trong ngành cà phê có thể tiếp cận nguồn vốn nhanh và hiệu quả. Chẳng hạn như cho phép dư nợ tín dụng cho vay nông nghiệp được gia tăng, mức vay tối đa được tăng lên, mức cho vay tối đa không đảm bảo bằng tài sản sẽ là 50 triệu đồng đối với hộ sản xuất, 200 triệu đồng đối với các nông trại, HTX. Bên cạnh đó, hình thức cho vay không thế chấp cũng được khiển khai để hỗ trợ nông dân nghèo. Một số trường hợp khách hàng chưa trả nợ đúng hạn do nguyên nhân khách quan thì được xem xét gia hạn thời gian trả nợ. Để hỗ trợ tín dụng cho việc thu hoạch, tăng chất lượng sản phẩm, Nhà nước đã ban hành Quyết định 63/2010/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ngày 25/10/2010, theo đó các tổ chức, cá nhân có thể được vay ưu đãi qua hệ thống Ngân hàng NN&PTNT để mua máy móc, thiết bị sản xuất trong nước nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch. Nhà nước hỗ trợ tài chính để trồng thay thế vườn cà phê già cỗi theo chỉ đạo tại Công văn số 4450/VPCP-KTN, việc vay vốn đầu tư cho trồng tái canh thực hiện theo các quy định hiện hành về tín dụng đầu tư của Nhà nước và vay vốn từ chương trình kích cầu của Chính phủ.

  • Công tác định hướng, quy hoạch

Nhà nước đã đưa ra một số định hướng nhằm hỗ trợ ngành cà phê phát triển bền vững trong tương lai, chẳng hạn như Quyết định 150/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, theo đó diện tích ổn định từ 450.000-500.000 ha, sản lượng khoảng 1 triệu tấn/ năm. Tiến hành thâm canh cao 200.000 ha cà phê theo Quyết định số 3988/QĐ-BNN-TT của Bộ NN&PTNT. Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam và Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây nguyên đã triển khai ký kết thoả thuận hỗ trợ 4 tấn giống hạt cà phê lai và trên 360.000 cây giống lai không thu tiền cho các Sở NN& PTNT các tỉnh Đak Lak, Đak Nông, Lâm Đồng, Gia Lai và Kon Tum để cải tạo cây trồng. Đưa ra những chính sách để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng diện tích đất trồng cà phê Arabica.

Ngoài những chính sách trên, vai trò của Nhà nước còn thể hiện qua những hoạt động như xúc tiến thương mại, các dịch vụ khuyến nông, quy định về thuế...



2.3.6 Vai trò của cơ hội

Năm 2006, Việt Nam gia nhập tổ chức WTO đã mở ra một cơ hội lớn cho cà phê Việt Nam thập nhập vào nhiều thị trường, tìm kiếm mở rộng hợp tác kinh doanh, trong đó có thị trường EU. Nhiều cơ hội mở rộng hơn vào một thị trường tiềm năng như vậy giúp cho ngành cà phê Việt Nam học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, được tiếp thu các công nghệ chế biến cà phê tiên tiến trên thế giới từ nhiều nước như Thụy Sỹ, Braxin, Ecuador... Ngoài ra, đây còn là bước để Việt Nam thu hút những nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, có cơ hội mới thì cũng có những thách thức, đó là những áp lực đòi hỏi Việt Nam phải đẩy mạnh hơn nữa NLCT xuất khẩu về mặt hàng cà phê, từng bước cải thiện chất lượng, xây dựng hình ảnh thương hiệu cà phê của quốc gia...



2.4 Nhận xét chung về năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU

2.4.1 Điểm mạnh

Việt Nam có lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên, khí hậu và đất đai rất thích hợp cho việc trồng trọt cà phê, đảm bảo cho cây cà phê sinh trưởng tốt, đạt năng suất cao, có hương vị thơm ngon riêng biệt. Diện tích đất trồng lớn, màu mỡ, giàu dinh dưỡng giúp Việt Nam thu được sản lượng cà phê lớn, đảm bảo nguồn cung dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường, trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng.

Bên cạnh đó, Việt Nam còn có một lực lượng lao động dồi dào và giá rẻ, tỉ lệ dân số trẻ cao, có đức tính cần cù, chịu khó, hăng say lao động. Nguồn nhân lực dồi dào sẽ giúp cho việc trồng trọt, thu hoạch cũng như sản xuất được đẩy mạnh, đảm bảo đúng tiến độ cần thiết trong mùa vụ.

Mặt khác, Việt Nam còn có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cà phê khá cao, duy trì được thị phần ổn định trên thị trường EU về mặt hàng cà phê nhân. Từ đó, tạo ra cơ hội để Việt Nam có thể thu hút được nguồn vốn ưu đãi, tài trợ cũng như công nghệ từ nước ngoài đầu tư vào ngành cà phê Việt Nam.

Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của quốc gia nên luôn dành được sự quan tâm của cơ quan các cấp và chính phủ như các chính sách đầu tư, khuyến khích, hỗ trợ người nông dân và doanh nghiệp kinh doanh cà phê.

Một điểm nữa, tuy không cao nhưng cũng đáng khích lệ là thương hiệu cà phê Trung Nguyên của Việt Nam đã xâm nhập vào, được đánh giá và bước đầu xây dựng thương hiệu trên thị trường EU. Đây sẽ là một khởi đầu, bước kích thích giúp các doanh nghiệp Việt Nam khác mạnh dạn hơn trong việc xây dựng thương hiệu trên EU cũng như tạo điều kiện phát triển hơn nữa cho mặt hàng cà phê hòa tan.



2.4.2 Điểm yếu và nguyên nhân.

Bên cạnh một số điểm mạnh thì còn nhiều điểm yếu hơn so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU mà Việt Nam cần phải khắc phục.



2.4.2.1 Chất lượng cà phê còn thấp

Qua đánh giá NLCT, ta nhận thấy rằng chất lượng cà phê Việt Nam hiện còn rất thấp, số lượng cà phê bị thải loại, không đạt tiêu chuẩn chiếm tỉ lệ cao nhất thế giới, do vậy mà ảnh hưởng rất lớn đến giá và kim ngạch xuất khẩu cà phê của nước ta. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng cà phê Việt Nam như:



  • Cây giống và chất lượng vườn cà phê không đảm bảo

Giống cây trồng có vai trò rất quan trọng không những tác động đến sản lượng mà còn quyết định chất lượng hạt cà phê, những giống cà phê tốt phải là giống đầu dòng, giống ghép, lai tạo. Thế nhưng, trong 3 tỉnh có diện cà phê lớn nhất nước ta, Đak Lak và Đak Nông mới chỉ có từ 25-35% diện tích được trồng bằng giống chọn lọc, Lâm Đồng chỉ khoảng 4-5% (Tập đoàn Thái Hoà, 2010). Theo số liệu thống kê của Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên thì cà phê nước ta có đến 98,3% là giống thực sinh; trong đó chiếm tỷ lệ 85,2% là giống do nông dân tự sản xuất, không đảm bảo tiêu chuẩn; mới chỉ có khoảng 1,7% là giống ghép. Do đó, chất lượng cà phê của Việt Nam luôn thấp hơn so với sản phẩm cà phê cùng loại của các nước khác (Nguyễn Công Luân, 2011). Bên cạnh đó, có nhiều diện tích vườn cà phê đã già cỗi, tỷ lệ vườn cà phê Việt Nam có tuổi từ 20-25 năm trở lên đang chiếm tới 22%, trong khi đó tỷ lệ vườn cà phê dưới 12 năm tuổi chỉ chiếm 50%. Điều này khiến cây cà phê sinh trưởng kém, hạt cà phê bị nhỏ, dễ sâu bệnh.

  • Chăm sóc không đúng cách

Hiện nay, kiến thức chăm sóc cây cà phê của người nông dân còn hạn chế, chủ yếu chỉ theo kinh nghiệm. Do muốn chạy theo số lượng nên người dân bón phân nhiều để tăng nhanh năng suất, chi phí đầu tư phân bón cao hơn qui trình khuyến cáo từ 10-23%, bón phân hóa học cho cà phê chưa cân đối. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng còn nhiều hạn chế, không chú trọng trồng cây che bóng cho cà phê nên khi gặp điều kiện thời tiết không thuận lợi thì cà phê nhanh chóng suy kiệt, giảm chất lượng. Bên cạnh đó, hầu hết bà con nông dân sử dụng một lượng nước tưới rất cao so với yêu cầu của cây cà phê. Điều này, không những gây lãng phí nước mà còn làm suy giảm độ phì nhiêu của đất, do nhiều chất dinh dưỡng trong đất bị mang đi theo cùng với lượng nước dư thừa, cây cà phê không hấp thu được nhiều dinh dưỡng, dễ bị già cỗi, sâu bệnh mà ảnh hưởng đến chất lượng.

  • Thu hoạch và bảo quản chưa đúng yêu cầu

Do yếu tố an ninh xã hội trong thời gian thu hoạch, nhất là vào những thời điểm giá cà phê cao, sợ bị mất trộm nên nhiều nông dân đã thu hái cả quả xanh lẫn quả chín. Việc thu hái cả khi quả còn xanh như vậy sẽ dẫn đến cà phê non hạt đen nhiều, tác động trực tiếp đến chất lượng cà phê. Mặt khác còn dẫn đến hậu quả lâu dài là kéo dần thời vụ thu hoạch vào cuối mùa mưa gây nhiều bất lợi cho chế biến, đồng thời, làm tăng thêm nhu cầu tưới nước trong mùa khô. Ngoài ra, tập quán thu hái tuốt tất cả quả từ quả xanh non đến quả chín còn tiềm ẩn một nguy cơ lây nhiễm nấm mốc. Việc lưu trữ cà phê tươi sau khi hái mà chưa phơi ngay cũng rất phổ biến. Nguyên nhân do chủ yếu người nông dân chỉ có thể tận dụng đất trống quanh nhà, diện tích phơi không đủ, phơi với mật độ dày làm hạt cà phê bị đen, nhiễm mốc.

  • Công nghệ sơ chế, chế biến lạc hậu

Hiện nay, đến 80% việc trồng trọt, sản xuất cà phê tập trung ở các hộ gia đình nhỏ lẻ, tự phát, chỉ gần 20% là ở các công ty, nông trại lớn có điều kiện đầu tư quy trình kĩ thuật tiên tiến. Thế nhưng, trong 80% sản lượng chế biến tại các hộ nhỏ lẻ đó, tới 50% hộ thiếu sân phơi, không có sân xi măng nên phải phơi sân đất làm cà phê không vệ sinh, bị mất mùi, lẫn tạp chất, không đảm bảo chất lượng. Mặt khác 80% hộ không có máy sấy, phải phụ thuộc vào thời tiết, những hộ có máy sấy thậm chí công nghệ là từ hồi còn Pháp thuộc, máy nhập khẩu thì số lượng rất ít do giá thành lớn. So với yêu về chất lượng xuất khẩu thì năng lực sơ chế này chỉ đạt 20%, khâu tinh chế đạt 40%, công nghệ sấy chất lượng cao chỉ đạt 20%. Bên cạnh đó, cà phê Việt Nam hầu hết được chế biến theo phương pháp khô, chỉ một số ít chế biến theo phương pháp ướt hoặc nửa ướt do phương pháp này đòi hỏi nguồn nước, hệ thống xử lý chất thải cũng như máy móc tốn kém, quả cà phê phải thu hoạch được ít nhất 80% quả chín mới có thể đưa vào chế biến ướt, cùng với các vấn đề liên quan đến tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên chế biến ướt mới là phương pháp chế biến cho ra sản phẩm cà phê nhân đảm bảo chất lượng hơn cả. Việc lấy chế biến khô làm phương pháp chế biến chủ yếu như vậy là còn lạc hậu, chưa phù hợp.

  • Quy mô sản xuất nhỏ lẻ

Do quy mô sản xuất quá nhỏ lẻ với trên 85% số hộ trồng cà phê có diện tích dưới 2 ha làm hạn chế khả năng mở rộng sản xuất, giảm hiệu quả đầu tư và áp dụng khoa học công nghệ đồng bộ… dẫn đến chất lượng cà phê Việt Nam không đồng đều. Ngoài ra, việc qui mô nhỏ lẻ như vậy sẽ gây khó khăn trong việc tuyên truyền, tư vấn kĩ thuật từ phía nhà chuyên môn, nâng cao kiến thức trồng trọt, cũng như việc xúc tiến các chương trình cải thiện chất lượng cà phê gặp nhiều bất cập.

  • Cải tiến quy chuẩn chất lượng cà phê diễn ra chậm

Hiên nay, nỗ lực đưa tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam TCVN 4193: 2005 ngang bằng với tiêu chuẩn quốc tế chưa được các doanh nghiệp đón nhận. Các doanh nghiệp và nhà rang xay Việt Nam vẫn chủ yếu sử dụng tiêu chuẩn cũ TCVN 4193-93. Hầu hết doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chưa áp dụng TCVN mới cho kiểm tra chất lượng mà dựa trên sự thỏa thuận giữa bên mua và bên bán bằng cách áp dụng phân loại chất lượng theo tỷ lệ hạt đen, hạt vỡ, tạp chất. Đây là cách phân loại đơn giản và lạc hậu không phù hợp với việc mua bán trên thương trường quốc tế, chưa phản ánh đầy đủ bản chất của chất lượng sản phẩm. TCVN 4193:2005 mới mang tính hướng dẫn, chưa có tính pháp lý mạnh mẽ, các doanh nghiệp có thể thực hiện hoặc không nên cà phê xuất ra nước ngoài gặp rất nhiều lỗi. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn chưa có một cơ quan nào chịu trách nhiệm chính thức trong việc kiểm tra chất lượng theo tiêu chuẩn mới, công tác quản lý yếu kém.

2.4.2.2 Vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được đảm bảo

Việc trồng trọt, sản xuất cà phê chủ yếu ở các hộ gia đình, trình độ còn thấp, người nông dân chưa có nhiều kiến thức cũng như ý thức về tầm quan trọng của vệ sinh thực phẩm, không tuân thủ đúng yêu cầu ở các khâu chẳng hạn như bón quá nhiều phân hoá học, sử dụng nhiều thuốc trừ sâu, công đoạn phơi sấy, chế biến ở các cơ sở vệ sinh kém, lạc hậu, lẫn nhiều tạp chất. Bên cạnh đó cũng do nguồn vốn còn hạn chế, chưa được đầu tư đầy đủ để có thể quản lý, kiểm tra độ vệ sinh của sản phẩm nên vệ sinh thực phẩm là một điểm tồn tại của ngành cà phê Việt Nam.



2.4.2.3 Cơ cấu chủng loại chưa phù hợp

Cà phê Việt Nam xuất sang EU chủ yếu là loại cà phê Robusta, vốn không được thị trường này ưa chuộng bằng loại cà phê Arabica. Nguyên nhân là do cà phê Arabica phù hợp với khí hậu miền Bắc, ở các tỉnh như Sơn La, Yên Bái, Lai Châu…, các tỉnh này trong quá khứ chủ yếu là vùng quân sự, mới được mở rộng thời gian gần đây, tốc độ mở rộng khu vực này chậm hơn so với sự phát triển của cà phê Robusta. Bên cạnh đó, giá thành để sản xuất cà phê Arabica khá cao hơn so với Robusta, với phần lớn sự khác biệt là do lực lượng lao động cần thêm để hái cà phê trong mùa thu hoạch. Sơ chế cà phê Arabica cũng khó khăn hơn, việc sơ chế rất tốn kém và khó quản lí nếu không có kĩ năng hay cơ sở cần thiết. Mặt khác, nhiều vùng trồng cà phê không theo quy hoạch đặt ra, tăng thêm diện tích trồng cà phê, mà trong đó chủ yếu là Robusta, đây là một yếu kém trong việc quản lý. Xu hướng tiêu thụ cà phê Arabica sẽ tiếp tục tăng ở EU, còn cà phê Robusta thường dùng làm chất độn trong chế biến cà phê, nếu không nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm thì Việt Nam dù đang đứng ở vị trí thứ 2 về sản xuất cà phê, cũng vẫn sẽ bị coi là nhóm dưới của ngành cà phê thế giới.

Bên cạnh đó, các mặt hàng cà phê đạt chứng nhận như cà phê sạch, cà phê đạt chứng nhận Fair-trade, cà phê đạt chứng nhận UTZ, cà phê RFA… đang có tiềm năng phát triển lớn tại EU thì chỉ chiếm một tỉ lệ thấp trong khối lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang EU.

2.4.2.4 Việt Nam chưa có nhiều sản phẩm cà phê có giá trị cao

Khả năng của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu Việt Nam hiện chỉ dừng ở việc xuất khẩu chủ yếu mặt hàng cà phê nhân, chiếm đến 99% sản lượng xuất khẩu sang EU. Đa phần các doanh nghiệp sản xuất, chế biến chủ yếu tập trung ở một số công đoạn như sơ chế đánh bóng cà phê xuất khẩu, rang xay sản xuất cà phê bột với quy mô nhỏ lẻ, manh mún... dẫn đến hiệu quả và giá trị kinh tế mang lại không cao. Các mặt hàng cà phê rang xay và hoà tan, đòi hỏi chế biến sâu, thì Việt Nam hiện chưa đáp ứng được nhu cầu. Nguyên nhân là do ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, công nghệ kĩ thuật máy móc hiện đại. Trong khi đó, quy mô vốn đầu tư nhà xưởng, trang thiết bị công nghệ chế biến cà phê vẫn còn ở mức thấp, năng lực tài chính của các doanh nghiệp còn hạn chế, không đủ vốn, vay vốn ở ngân hàng thì lãi suất cao, chu kì quay vòng vốn ngắn, chỉ 3 tháng. Ngoài ra, nguyên nhân nữa là do tình hình tiêu thụ cà phê trong nước vẫn còn khá ít so với thế giới cũng như so với thị trường EU nên chưa làm phát sinh được nhu cầu để các doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm mới, tăng cường đầu tư nghiên cứu mở rộng sản xuất đáp ứng thị trường trong nước và xuất sang EU.



2.4.2.5 Tổ chức điều phối hoạt động dọc chuỗi ngành hàng còn lỏng lẻo

Như đã tìm hiểu ở phần tình hình môi trường cạnh tranh và cơ cấu ngành, ta có thể thấy, việc liên kết trong cả chuỗi ngành hàng từ nông dân, nhà máy chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu với Nhà nước còn lỏng lẻo. Trên lý thuyết, ngành cà phê hiện có hội nông dân các cấp, VICOFA…, nhưng trên thực tế cả chuỗi ngành hàng cà phê hầu như không có liên kết, tổ hợp tác, HTX, hiệp hội công thương liên kết người sản xuất, chế biến và thương mại ở các vùng sản xuất cà phê với nhau còn ít. Điều này dẫn tới khâu tiếp thị, thông tin thị trường kém, nông dân thì thiếu vốn, nhà máy chế biến hay nhà xuất khẩu thì sản xuất cà phê có giá trị gia tăng thấp. Cụ thể hơn, về phía người nông dân, người nông dân hoạt động với qui mô nhỏ lẻ, phơi cà phê trên sân đất nhà mình, không biết vay vốn ở đâu, thu hoạch rồi bán cho ai, lo lắng về đầu ra nên chưa thể an tâm sản xuất. Hệ thống đại lý thu mua cà phê hình thành tự phát, chủ yếu là tư nhân. Về phía các doanh nghiệp, nhiều trường hợp kí kết hợp đồng rồi mới bắt đầu tìm nguồn cung, khi cần nguồn hàng lớn thì phải tốn nhiều thời gian thu gom từ các đại lý, các đại lý còn phải đi thu gom từ các hộ sản xuất, và có thể trong lúc gấp gáp mà không quan tâm đến chất lượng cà phê. Doanh nghiệp xuất khẩu thì không có tổ chức hỗ trợ trong việc đàm phán thương mại với nước ngoài, thường bị nhà đầu cơ quốc tế ép giá, thao túng do chưa thiết lập được hệ thống chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu chuyên nghiệp. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu với người trồng cà phê còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán ngay trên thị trường trong nước, vô hình chung đã tự làm giảm giá cà phê Việt Nam trên chính sân nhà, chứ chưa nói đến xuất khẩu. Nguyên nhân của những vấn đề trên chủ yếu nằm ở công tác tổ chức ngành hàng của Nhà nước.



2.4.2.6 Chưa xây dựng được hệ thống phân phối

Cà phê Việt Nam xuất khẩu chủ yếu gián tiếp qua các doanh nghiệp trung gian nước ngoài, sau đó không còn liên quan đến mạng lưới phân phối tiếp trong nội bộ thị trường EU nữa. Kênh phân phối trực tiếp đến các các doanh nghiệp rang xay chế biến, hệ thống siêu thị, cửa hàng bán lẻ tại EU hầu như chưa được thiết lập, số lượng tiếp cận được với nhà nhập khẩu cũng ít, không đủ khả năng xây dựng kênh phân phối riêng. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là quy mô vừa và nhỏ, nguồn vốn hạn hẹp, mỏng hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp nước ngoài cùng lĩnh vực, mối quan hệ bạn hàng không nhiều. Sự liên kết yếu kém giữa các doanh nghiệp trong ngành, trong hoạt động điều phối dọc ngành hàng cũng là nguyên nhân không tạo điều kiện cho việc xâm nhập hệ thống phân phối tại EU. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, trình độ chưa cao và cà phê Việt Nam còn chưa khẳng định được thương hiệu.



2.4.2.7 Cà phê Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu

Ngoại trừ cà phê Trung Nguyên đã bước đầu xây dựng được hình ảnh thương hiệu thì thương hiệu cà phê Việt Nam hầu hết đều chưa được người tiêu dùng EU biết đến. Do các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia vào thị trường quốc tế, chỉ chú trọng mua bán xuất khẩu mà chưa có nhận thức nhiều về tầm quan trọng của việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu; xuất khẩu chủ yếu qua trung gian bằng các nhãn hiệu hàng hoá nước ngoài. Các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, marketing quốc tế còn hạn chế, chưa được quan tâm thích đáng, thiếu chiều sâu. Chính việc chưa xây dựng thương hiệu này làm giá cà phê Việt Nam thấp hơn đối thủ, cũng như khó thâm nhập vào hệ thống phân phối ở EU.


TIỀU KẾT CHƯƠNG 2

Trong chương này, đề tài đã tìm hiểu tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường EU; đánh giá NLCT của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU chủ yếu trong giai đoạn 2005-2011 qua các chỉ tiêu định lượng như RCA, thị phần, chi phí sản xuất, giá xuất khẩu, qua các chỉ tiêu định tính như chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, cơ cấu chủng loại, kênh phân phối, thương hiệu. Bên cạnh đó, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến NLCT của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU dựa trên mô hình kim cương của M.Porter. Trên cơ sở phân tích và đánh giá trên, so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường EU, đề tài đã đưa ra những điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân trong NLCT của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU. Đây sẽ là cơ sở cho việc đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao NLCT của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU giai đoạn đến năm 2020.



CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG CÀ PHÊ VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG EU

3.1 Dự báo nhu cầu nhập khẩu cà phê của EU; những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường EU qua ma trận SWOT

3.1.1 Dự báo nhu cầu nhập khẩu cà phê của EU

Thị trường EU là một thị trường đầy tiềm năng về mặt hàng cà phê, là nơi nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới và cũng là nơi tiêu thụ cà phê lớn nhất thế giới với tỉ lệ 31% lượng tiêu thụ cà phê của thế giới năm 2008. Theo dự báo của Bộ NN&PTNT, trong các năm tới, nhu cầu tiêu thụ cà phê toàn cầu sẽ tăng bình quân 2%/năm. Tại EU, với mức tăng khoảng 0,6%/năm giai đoạn 2000-2010, thì dự báo thời gian tới mức tăng tiêu thụ cà phê ở EU vẫn sẽ duy trì ở tốc độ trên, thấp hơn so với thế giới. Trong đó, chủng loại cà phê Arabica chất lượng cao được ưa chuộng nhiều ở EU để sản xuất cà phê rang xay, chiếm khoảng 66% lượng nhập khẩu, nên dự báo nhu cầu tiêu thụ cà phê Arabica sẽ vẫn tương đối ổn định với tốc độ tăng trưởng 0,7%/năm. Thị trường cà phê hoà tan hứa hẹn nhiều triển vọng khi người tiêu dùng ngày càng đánh giá cao sự tiện lợi của dòng sản phẩm này. Trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng, cà phê hoà tan được tiêu thụ nhiều nhất ở Anh, dự kiến nhu cầu về mặt hàng cà phê hoà tan này sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Do có mức sống cao nên nhu cầu thưởng thức cà phê của người dân EU cũng rất đa dạng về chủng loại và đòi hỏi khắt khe. Người dân EU ngày càng quan tâm đến những sản phẩm cà phê sạch, đạt chứng chỉ và chứng nhận quốc tế như cà phê đạt chứng nhận Fair-trade, chứng nhận UTZ, RFA... cũng như sự gia tăng của những cửa hàng cà phê tập trung vào phân khúc này, và điều này đã kích thích sự phát triển của thị trường cà phê đặc biệt. Qua đó có thể thấy triển vọng của thị trường những sản phẩm cà phê này là rất lớn trong thời gian tới, dự báo tiêu thụ cà phê đạt chứng nhận tại EU năm 2015 là 20-25% tổng khối lượng cà phê đạt chứng nhận giao dịch trên thế giới (CBI, 2009).

3.1.2 Những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường EU qua ma trận SWOT

Điểm mạnh (Strengths)

Điểm yếu (Weaks)

1. Việt Nam có lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên, khí hậu và đất đai.

2. Lực lượng lao động dồi dào và giá rẻ, tỉ lệ dân số trẻ cao, có đức tính cần cù, chịu khó, hăng say lao động.

3. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cà phê khá cao, duy trì được thị phần ổn định trên thị trường EU về mặt hàng cà phê nhân.


1. Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm còn thấp.

2. Cơ cấu chủng loại chưa phù hợp.

3. Việt Nam chưa có nhiều sản phẩm cà phê có giá trị cao.

4. Tổ chức điều phối hoạt động dọc chuỗi ngành hàng còn lỏng lẻo.

5. Chưa xây dựng được hệ thống phân phối.

6. Cà phê Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu.



Cơ hội ( Oppotunities)

Thách thức (Threats)

1.Việt Nam gia nhập tổ chức WTO giúp ta hưởng những ưu đãi tương ứng với các quốc gia đối thủ khác xuất khẩu cà phê vào EU. Có cơ hội tiếp cận với những nguồn vốn đầu tư, tận dụng các nguồn hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, tiếp thu khoa học kĩ thuật.

2. Quan hệ thương mại Việt Nam-EU ngày càng được mở rộng và đẩy mạnh tạo sự thông thoáng cho doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập vào EU.

3. EU có nhu cầu cao và ổn định.

4. Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của quốc gia nên dành được sự quan tâm của cơ quan các cấp và Chính phủ .



1. Hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới khiến Việt Nam chịu tác động nhiều hơn từ các cuộc khủng hoảng toàn cầu.

2. Mức độ cạnh tranh trên thị trường EU ngày càng gia tăng.

3. Hệ thống pháp luật của EU tương đối phức tạp, với nhiều quy định chặt chẽ.

4. Người tiêu dùng EU ngày càng đòi hỏi khắt khe về chất lượng và các dòng sản phẩm cà phê mới.

5. Chênh lệch trình độ giữa hai nước tạo ra những khó khăn đối với doanh nghiệp xuất khẩu nước ta.


Каталог: file -> downloadfile6 -> 214
214 -> CHƯƠng 1: CƠ SỞ LÝ luận của hoạT ĐỘng xuất khẩu lao đỘng 3 chưƠng 2: TỔng quan tình hình xuất khẩu lao đỘng việt nam 13 chưƠng 3: MỘt số biện pháP ĐẨy mạnh và NÂng cao hiệu quả xuất khẩu lao đỘng trong những năm tớI 30
downloadfile6 -> Với kinh nghiệm lâu năm trong ngành hôm nay công ty chúng tôi Lập trình tong dai dien thoai
downloadfile6 -> NHÀ ĐẦu tư thông minh "Cuốn sách hay nhất về đầu tư từng được viết cho đến nay"
downloadfile6 -> Thế giới an ninh- thiết lập hệ thống camera quan sát với card ghi hình Hệ thống Demo bao gồm
downloadfile6 -> 1 Giới thiệu adc 0809
downloadfile6 -> BÀi giảng quản trị ngân hàng 2
downloadfile6 -> HUỲnh duy khánh các công thức tính thể TÍCH
downloadfile6 -> Dạng 1: Tính các đại lượng cơ bản (công thoát A, v0max, P, ibh, Uh, H…)
downloadfile6 -> Ách đỌc tên latinh đỗ Xuân Cẩm Giảng viên Đh huế
downloadfile6 -> I. TỔng quan về vqg tràm chim vị trí địa lý

tải về 1.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương