Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561


Mục đích nghiên cứu của đề tài



tải về 1.01 Mb.
trang2/12
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.01 Mb.
#5756
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Vận dụng những kiến thức đã học nhằm hệ thống hoá cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh; phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU; chỉ đã những điểm mạnh, điểm yếu so với đối thủ cạnh tranh và nguyên nhân, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU.



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang EU.

  • Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam ở phạm vi thị trường EU, chủ yếu trong giai đoạn 2005-2011; dự báo, định hướng và đưa ra một số giải pháp cho giai đoạn đến năm 2020. Cà phê được nói đến trong đề tài là cà phê nhân, cà phê rang xay và cà phê hoà tan; không bao gồm các loại vỏ quả và vỏ lụa cà phê.

4. Phương pháp nghiên cứu

Khoá luận sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê và phân tích, phương pháp so sánh. Phương pháp tổng hợp để thu thập các số liệu, thông tin truyền thống; phương pháp thống kê, phân tích để làm rõ các vấn đề lý luận và thực trạng NLCT của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang EU; phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến để làm sáng tỏ hơn vị thế của Việt Nam, các kết luận trong từng hoàn cảnh cụ thể.



5. Kết cấu của luận văn

Nội dung khoá luận được kết cấu làm 3 chương:



  • Chương 1: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU.

  • Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU.

  • Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU.

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã dành nhiều thời gian, tâm huyết và nghiêm túc trong việc nghiên cứu. Tuy nhiên, do hạn chế của tác giả về mặt kiến thức, thời gian thực hiện và dung lượng của khoá luận, cũng như nguồn số liệu, thông tin…nên nội dung khoá luận khó có thể tránh được những thiếu sót. Do đó, tác giả hi vọng nhận được những ý kiến đóng góp của Quý thầy cô và các bạn đọc.

Nhân đây, tác giả xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học – cô Lưu Thị Bích Hạnh, cám ơn cô đã dành thời gian chỉ dẫn và giúp đỡ tác giả thực hiện bài khoá luận này. Tác giả cũng xin cám ơn sự hỗ trợ của toàn thể Quý thầy cô trường Đại học Ngoại Thương cơ sơ II tại thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn tất đề tài.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2012

Sinh viên thực hiện

Trần Thị Mỹ Hằng

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG CÀ PHÊ VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG EU


    1. Lý luận chung về năng lực cạnh tranh

      1. Khái niệm về cạnh tranh

Thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, thương mại, chính trị, quân sự, luật, thể thao… và được sự quan tâm của nhiều chủ thể, xem xét ở các góc độ khác nhau tùy thuộc vào hướng tiếp cận của từng chủ thể. Vì thế có rất nhiều khái niệm xoay quanh thuật ngữ “cạnh tranh”.

Với tư cách là hiện tượng xã hội, theo cuốn Từ điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992, cạnh tranh là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”(Lê Danh Vĩnh & Hoàng Xuân Bắc & Nguyễn Ngọc Sơn, 2010, tr.11).

Trong kinh tế chính trị học, theo quan điểm của K.Marx thì “cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2004, tr.48).

Nhà kinh tế học M.Porter của Mĩ thì cho rằng cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả của quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi (Văn Diệp, 2009).

Tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng hóa cụ thể nào đó nhằm giành giật khách hàng, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hóa và thu được lợi nhuận cao. Sự cạnh tranh diễn ra là tất yếu, nó là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế.

1.1.2 Năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh

Thuật ngữ “năng lực canh tranh” được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, nhưng đến nay các nhà chuyên môn và học giả vẫn chưa có một khái niệm chuẩn về thuật ngữ này. Tuy nhiên ta có thể hiểu: NLCT là khả năng tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn, biểu hiện dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng các sản phẩm cũng như khả năng khai thác các cơ hội trong thị trường hiện tại và làm nảy sinh cơ hội trong thị trường mới, giành được lợi thế cho mình và thu được lợi nhuận. NLCT thường được chia thành 4 cấp độ:



1.1.2.1 Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia

Đề cập đến phạm vi quốc gia, NLCT ở cấp độ này thường phụ thuộc vào năng suất sử dụng nguồn lực con người, tài nguyên và vốn của quốc gia đó, nó gắn liền với NLCT của tất cả các chủ thể bên trong nền kinh tế.

Tại Diễn đàn Liên hợp quốc, trong Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2003 thì NLCT của một quốc gia được định nghĩa là khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, xác định bằng mức độ thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội tính trên đầu người qua các năm.

Theo Uỷ ban cạnh tranh Công nghiệp của Mỹ thì đó là mức độ mà ở dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, quốc gia có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của người dân (Cẩm nang Doanh nhân trẻ, 2010).

Từ những quan điểm trên ta có thể hiểu NLCT quốc gia là khả năng tận dụng các nguồn lực, khả năng quản lý điều hành của Nhà nước nhằm tạo ra môi trường kinh tế, xã hội và thể chế pháp lý thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế hoạt động, thu hút đầu tư, đảm bảo ổn định và bền vững, đạt được mức tăng trưởng trưởng kinh tế cao, nâng cao mức sống của người dân.

1.1.2.2 Năng lực cạnh tranh cấp ngành

Là xét đến khả năng đem lại lợi nhuận của ngành đó dựa trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Tính hiệu quả, khả năng cạnh tranh của ngành được so sánh dựa trên mối tương quan với các ngành khác. Theo như M.Porter, cường độ cạnh tranh trong một ngành bất kì đều chịu tác động bởi 5 lực lượng, đó là (i) sức mạnh nhà cung cấp, (ii) nguy cơ thay thế, (iii) các rào cản gia nhập ngành, (iv) sức mạnh khách hàng và (v) mức độ cạnh tranh ngành. Một ngành có thị trường tăng trưởng, khả năng duy trì thị phần và cơ hội thu được lợi nhuận cao sẽ thu hút các hãng mới gia nhập, làm tăng mức độ cạnh tranh trong ngành, kể cả thị trường trong nước lẫn quốc tế. Vậy, NLCT cấp ngành là khả năng duy trì hay tăng trưởng lợi nhuận của các doanh nghiệp tham gia vào ngành trên thị trường trong nước và quốc tế.



1.1.2.3 Năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp

NLCT của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững (Nguyễn Minh Tuấn, 2010, tr.9). NLCT của doanh nghiệp gắn liền với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp tung ra thị trường, với thị phần sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

NLCT của doanh nghiệp chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm cả những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như thị trường, thể chế chính sách, kết cấu hạ tầng lẫn các yếu tố nội hàm bên trong bản thân doanh nghiệp như trình độ công nghệ, khả năng tổ chức quản lý, tài chính, nhân lực, uy tín...

1.1.2.4 Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm

Ông Lê Văn Được, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ Công nghiệp cho rằng “NLCT của một sản phẩm là sự thể hiện thông qua các lợi thế so sánh đối với sản phẩm cùng loại. Lợi thế so sánh của một sản phẩm do các yếu tố bên trong và bên ngoài tạo nên, như năng lực sản xuất, chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, dung lượng thị trường của sản phẩm...”(Tạp chí Công nghiệp, 2004). NLCT của sản phẩm có thể được đo bằng thị phần của sản phẩm đó trên thị trường.

Một sản phẩm có NLCT cao phải đảm bảo các yếu tố về chất lượng, giá cả, vệ sinh, dịch vụ đi kèm, kiểu dáng mẫu mã, tốc độ phục vụ… sản phẩm cần có tính mới lạ nhưng phù hợp với nhu cầu, mang lại giá trị sử dụng cao hơn so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường của đối thủ cạnh tranh.

Các cấp độ của NLCT có mối quan hệ phụ thuộc, gắn kết, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.



      1. Năng lực cạnh tranh xuất khẩu

Marilyn Whan-Kan cho rằng “NLCT xuất khẩu là khả năng của một quốc gia sản xuất ra những sản phẩm, dịch vụ và buôn bán trên thị trường nước ngoài với giá cả và chất lượng đảm bảo được khả năng tồn tại lâu dài, bền vững” (Marilyn Whan-Kan, n.d.).

Theo Báo cáo của Tổ chức Ngân hàng thế giới thì khả năng của một quốc gia vạch ra các chính sách nhằm làm tăng khả năng buôn bán các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất trong nước sang thị trường nước ngoài, đạt được tăng trưởng kinh tế nhờ xuất khẩu thì gọi là NLCT xuất khẩu. Trong tư duy này, xuất khẩu trở thành định hướng và mục tiêu cuối cùng của chính sách kinh tế (Christian Ketels, 2010).

NLCT của quốc gia ở một mặt hàng xuất khẩu là một khái niệm hoàn toàn khác với NLCT quốc gia. Nếu như NLCT quốc gia đề cập đến các yếu tố vĩ mô về Nhà nước thì NLCT của quốc gia ở một mặt hàng xuất khẩu lại chủ yếu thuộc phạm trù vi mô về doanh nghiệp, được giới hạn trong một mặt hàng cụ thể. Tuy nhiên, giữa 2 khái niệm này cũng có mối quan hệ với nhau. NLCT của quốc gia ở một mặt hàng chịu ảnh hưởng của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng đó. NLCT của các doanh nghiệp này lại chịu tác động bởi NLCT quốc gia. Nếu quốc gia có thể chế tốt, môi trường cạnh tranh minh bạch, bình đẳng… thì các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội phát huy năng lực, tạo ra nhiều giá trị tăng thêm cho sản phẩm của mình, từ đó cạnh tranh với các đối thủ từ những quốc gia khác.

1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê xuất khẩu theo Mô hình kim cương của M.Porter

Trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”, M.Porter đã đưa ra “mô hình kim cương”, đem lại một cái nhìn tổng quan có tính chất chi tiết về những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, đó là (i) điều kiện các yếu tố sản xuất, (ii) điều kiện nhu cầu trong nước, (iii) các ngành hỗ trợ và có liên quan, (iv) môi trường cạnh tranh và cơ cấu ngành. Toàn bộ 4 thành phần đó, cũng như mỗi thành phần, lại chịu tác động của 2 yếu tố bên ngoài là cơ hội và Nhà nước.



1.1.4.1 Điều kiện các yếu tố sản xuất

Các yếu tố sản xuất có thể được chia thành:



  • Nhóm yếu tố cơ bản: lợi thế vị trí, khí hậu, tài nguyên, nguồn nhân lực…

  • Nhóm yếu tố cao cấp: cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin, kỹ năng lao động, khoa học, công nghệ...

Những nền kinh tế nắm giữ được các yếu tố này với chi phí thấp sẽ chiếm được lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là nhóm yếu tố cao cấp, vì nhóm yếu tố này yêu cầu sự đầu tư dài hạn, tốn nhiều công sức, cần tập trung cả về vật lực lẫn nhân lực, giúp tạo ra những sản phẩm độc đáo, mang tính ưu thế, khó cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên các yếu tố đầu vào cơ bản cũng rất quan trọng, là cơ sở để xây dựng và phát triển các yếu tố đầu vào cao cấp.

+ Điều kiện tự nhiên: bao gồm các yếu tố như nhiệt độ, khí hậu, độ ẩm, độ màu mỡ của đất đai… Những yếu tố trên sẽ tác động đến chất lượng và hương vị tự nhiên của cây trồng nói chung và cà phê nói riêng. Ở mỗi vùng có điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng khác nhau nên cây cà phê cũng có hương vị đặc trưng riêng biệt. Cà phê thích hợp phát triển ở những vùng có đất bazan màu mỡ, diện tích rộng, khí hậu có tính chất cận xích đạo, độ cao địa hình thích hợp. Bên cạnh đó, còn phải xét đến hệ thống sông ngòi kênh rạch, độ chua của nước, nguồn nước ngầm…

+ Nguồn nhân lực: phải bảo đảm cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Số lượng là nói đến lượng lao động hoạt động trong ngành như người trồng trọt, số lượng công ty sản xuất, chế biến, kinh doanh, xuất nhập khẩu… Còn chất lượng là khả năng hiểu biết, trình độ, tay nghề… của lực lượng lao động. Ngoài ra còn tính đến chi phí nhân sự, quản lý, giờ làm việc, mức độ đầu tư vào nghiên cứu…

+ Nguồn vốn: được hình thành từ nhiều hình thức khác nhau thông qua các kênh huy động vốn trong nước hay nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, ngoài ra còn có quy mô vốn đầu tư cho sản xuất và kinh doanh xuất khẩu cà phê, mức độ huy động…

+ Cơ sở hạ tầng: thể hiện thông qua hệ thống đường xá, giao thông vận tải, công nghệ sinh học, cải thiện nhà máy sản xuất, chế biến, các công trình thủy lợi, hệ thống tưới tiêu… Áp dụng được nhiều công nghệ và khoa học kĩ thuật sẽ góp phần làm tăng năng suất sản xuất, chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê.

1.1.4.2 Điều kiện nhu cầu trong nước đối với mặt hàng cà phê

Nhu cầu về cà phê trong nước sẽ quyết định các doanh nghiệp sản xuất cái gì và như thế nào, ngoài ra còn tác động đến NLCT xuất khẩu. Bởi lẽ nhu cầu nội địa phát triển sẽ đưa ra chuẩn mực đặt áp lực lên các doanh nghiệp phải liên tục cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng, hạ giá thành để đáp ứng. Từ nhu cầu trong nước đó còn giúp dự báo được xu hướng nhu cầu của người mua ở các thị trường nước ngoài để có thể tạo ra những sản phẩm mới, đi trước đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp nên quan tâm đến chất lượng của nhu cầu hơn là số lượng của nhu cầu trong việc quyết định lợi thế cạnh tranh. M.Porter lập luận rằng, các doanh nghiệp của một nước giành được lợi thế cạnh tranh nếu những người tiêu dùng trong nước này có được sự sành sỏi và đòi hỏi cao. Việc khách hàng yêu cầu và đòi hỏi cao sẽ thúc đẩy doanh nghiệp phải đáp ứng các chuẩn mực cao về chất lượng sản phẩm, đặc tính và dịch vụ, từ đó cải tiến sản phẩm và tiến vào những thị trường mới, cao cấp hơn.



1.1.4.3 Các ngành hỗ trợ và có liên quan đến mặt hàng cà phê xuất khẩu

Theo mô hình đàn nhạn bay, ta có thể thấy rằng một ngành then chốt phát triển mạnh chắc chắn sẽ kéo theo sự phát triển đồng bộ của nhiều ngành hỗ trợ và có liên quan. Bên cạnh đó, các ngành hỗ trợ và có liên quan phát triển sẽ giúp ngành then chốt có lợi thế cạnh tranh, giúp giảm chi phí đầu vào, cải thiện chất lượng dịch vụ, hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất.

Ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan đến ngành cà phê như ngành sản xuất phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, vận tải chuyên chở, công nghệ chế biến, công nghệ sinh học… Ngành sản xuất phân bón phát triển sẽ giúp hạn chế việc phải nhập khẩu phân bón từ nước ngoài, giá phân bón thấp hơn, từ đó giúp người nông dân giảm chi phí đầu vào. Vận tải chuyên chở phát triển giúp quá trình chuyên chở hiệu quả, đảm bảo giao hàng đúng hạn, nâng cao uy tín và NLCT xuất khẩu. Công nghệ chế biến phát triển giúp tạo ra nhiều sản phẩm cà phê có giá trị gia tăng cao, chất lượng được cải thiện, từ đó từng bước xây dựng thương hiệu cho cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Như vậy ta thấy được, các ngành hỗ trợ và có liên quan có ảnh hưởng rất lớn đến NLCT của mặt hàng cà phê xuất khẩu.

1.1.4.4 Môi trường cạnh tranh và cơ cấu ngành

Mức cạnh tranh của ngành cà phê trên thị trường nội địa sẽ ảnh hưởng đến sự thành công của các doanh nghiệp trong nước trên thị trường quốc tế. Thành công của một doanh nghiệp trong nước sẽ thu hút các đối thủ mới gia nhập ngành và khiến cho các đối thủ hiện tại ra sức tìm kiếm các cách cải tiến hiệu quả sản xuất, làm gia tăng sức mạnh của doanh nghiệp. Mức độ cạnh tranh trong nước gia tăng sẽ tạo ra sức ép cho sự cải tiến, sáng tạo, nâng cao chất lượng, giảm chi phí và đầu tư vào việc nâng cấp các yếu tố tiên tiến, giúp các doanh nghiệp ngày càng có sức mạnh cạnh tranh hơn trên cả thị trường trong nước lẫn quốc tế.

Thế nhưng, môi trường cạnh tranh ngành cũng cần phải lành mạnh và cơ cấu ngành cần chặt chẽ, các chủ thể trong ngành cà phê cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, cụ thể là giữa nông dân, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu và Nhà nước. Các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng đối đầu với nhau, tranh mua tranh bán dẫn đến các bên đều thua thiệt, mà có thể hợp tác, các bên cùng có lợi, phân chia lợi nhuận. Như vậy, vừa có thể cùng phát triển, vừa có thể tạo ra sức mạnh, đối mặt với các đe doạ từ các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Còn cơ cấu ngành chặt chẽ sẽ giúp hoạt động trong ngành trở nên thông suốt, chẳng hạn, doanh nghiệp hỗ trợ vốn, kĩ thuật, có sự phối hợp với nông dân sẽ giúp nông dân cải thiện cây trồng, nâng cao năng suất và chất lượng, còn doanh nghiệp cũng an tâm hơn trong việc thu mua gom hàng, chất lượng cà phê đảm bảo giúp xây dựng uy tín cho doanh nghiệp.

1.1.4.5 Vai trò của Nhà nước và cơ hội

Nhà nước có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến NLCT của một mặt hàng xuất khẩu, trên thực tế, đa phần là tác động tích cực. Trợ cấp từ chính phủ, các chính sách giáo dục, kinh tế, các qui định trong thị trường vốn… đều ảnh hưởng đến điều kiện yếu tố sản xuất. Nhà nước tác động đến điều kiện nhu cầu trong nước thông qua việc thành lập các tiêu chuẩn và qui định về mặt hàng cà phê, ảnh hưởng đến cầu của ngừơi mua. Tác động đến các ngành hỗ trợ và có liên quan thông qua việc ban hành các quyết định về dịch vụ hỗ trợ. Nhà nước phát triển và hoàn thiện môi trường luật pháp sẽ tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp, giúp sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. Nhà nước ban hành các luật thuế, các chương trình xúc tiến thương mại tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu cà phê ra thị trường nước ngoài.

Một yếu tố khác cũng có tác động đến NLCT của mặt hàng xuất khẩu, đó là yếu tố cơ hội. Cơ hội đóng vai trò quan trọng, chúng có thể dẫn đến những thay đổi lớn trong vị thế cạnh tranh, vô hiệu hóa lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện tại và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thích ứng được với tình hình mới. Cơ hội có thể là sự ra đời của một công nghệ chế biến mới, những quyết định về chính trị của chính phủ nước ngoài, thay đổi tỉ giá hối đoái, tài chính, làn sóng nhu cầu...Do vậy, các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng nắm bắt cơ hội, kịp thời thích nghi với sự thay đổi, nâng cao NLCT cà phê xuất khẩu ra thị trường thế giới.

1.1.5 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm

1.1.5.1 Các chỉ tiêu định lượng


  • Hệ số lợi thế so sánh biểu hiện (Revealed Competitive Advantage)

Hệ số RCA do nhà kinh tế học Balassa đề xuất năm 1965 để đo lường lợi thế so sánh theo số liệu xuất khẩu, chỉ ra khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của một quốc gia về một sản phẩm trong mối tương quan với mức xuất khẩu về sản phẩm đó của thế giới.

RCA = (Xij / Xi) / (Wj / W)

Trong đó:


  • RCA: lợi thế so sánh biểu hiện mặt hàng xuất khẩu j của quốc gia i

  • Xij: kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của nước i

  • Xi: tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i

  • Wj: kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của thế giới

  • W: tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới

Kết quả tính toán:

  • RCA<1: sản phẩm xem xét không có khả năng cạnh tranh

  • 1

  • RCA>2,5: sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao

Khi so sánh hệ số RCA của cùng mặt hàng của hai nước thì nước nào có hệ số RCA lớn hơn sẽ có lợi thế xuất khẩu cao hơn.

  • Thị phần

Chỉ tiêu thị phần phản ánh vị trí của một quốc gia về một mặt hàng nào đó trên thị trường. Khi thị phần một mặt hàng của một quốc gia càng lớn thì mặt hàng đó càng có NLCT mạnh, khả năng cạnh tranh của mặt hàng này đối với thị trường càng cao. Thị phần càng vượt xa đối thủ của nước khác thì sản phẩm của chủ thể càng có lợi thế trong cuộc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Thị phần được tính theo công thức sau:

MS = (MA / M) x 100%

Trong đó:


    • MS: thị phần mặt hàng M của quốc gia A xuất khẩu vào thị trường X

    • MA: sản lượng xuất khẩu (hoặc kim ngạch xuất khẩu) mặt hàng M của quốc gia A vào thị trường X

    • M: tổng sản lượng xuất khẩu (hoặc tổng kim ngạch xuất khẩu) mặt hàng M của toàn thế giới vào thị trường X

  • Chi phí sản xuất

Chi phí sản xuất cao hay thấp cũng là một chỉ tiêu phản ánh NLCT xuất khẩu. Khi chi phí sản xuất của một quốc gia cao hơn so với các quốc gia khác thì lợi thế cạnh tranh sẽ bị giảm thiểu. Nó phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, các phụ phí, tiền lương, công nghệ được sử dụng, chi phí marketing, giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, vận tải...Một trong những chỉ số xác định chi phí sản xuất có thể kể đến là hệ số chi phí nguồn lực trong nước DRC (Domestic Resource Cost). DRC biểu thị tổng chi phí của các nguồn lực trong nước được sử dụng tương ứng với 1 đô la thu được từ sản phẩm xuất khẩu. Do đó, DRC nhỏ hơn 1 có nghĩa là sản phẩm có lợi thế so sánh và ngược lại. DRC càng nhỏ thì lợi thế so sánh càng cao.

Công thức tính như sau:

DRCj = DCj/ IVAj

Trong đó:



  • DCi là chi phí trong nước cho các nhân tố sản xuất theo chi phí cơ hội để sản xuất ra sản phẩm j

  • IVAj là giá trị gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới quy ra nội tệ

    • Giá xuất khẩu

Trong bất cứ quốc gia nào, doanh nghiệp cũng muốn xuất khẩu sản phẩm với một chi phí cá biệt nhất định và hàng hóa được xuất khẩu với giá cao nhất. Giá xuất khẩu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất, cung cầu trên thị trường, thuế quan, mức độ cạnh tranh...Có thể tính theo công thức sau:

Ci = hay Ci = ­

Trong đó:


  • Pi và Pf: giá cánh kéo của sản phẩm đầu ra i và của đầu vào trung gian f

  • P*i: giá cánh kéo quốc tế của sản phẩm đầu ra i

  • P*f: giá cánh kéo quốc tế của đầu vào trung gian f

  • W: tỉ lệ chi phí của đầu vào trung gian trong tổng giá trị sản phẩm đầu ra

  • E: tỉ giá hối đoái thực

  • T và M: hệ số bảo hộ danh nghĩa và hệ số chi phí thương mại

1.1.5.2 Các chỉ tiêu định tính

    • Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm

Chất lượng sản phẩm là mức độ các đặc tính của sản phẩm đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Đây là tiêu chí quan trọng nhất quyết định đến NLCT của mặt hàng cà phê xuất khẩu. Với một mặt hàng cùng loại có chất lượng tốt hơn, nước nhập khẩu sẽ sẵn sàng đưa ra mức giá cao hơn cho mặt hàng này, có được nhiều lợi thế cạnh tranh hơn.

Chất lượng cà phê là tổng hợp của các yếu tố: chủng loại thực vật, điều kiện địa hình, khí hậu, thời tiết, cách chăm sóc, thu hái, bảo quản, chuẩn bị xuất khẩu và vận chuyển. Chất lượng của cà phê được đánh giá thông qua tiêu chuẩn quốc tế ISO 10470:2004 và đã được Việt Nam soạn thảo ban hành sử dụng trong nước là TCVN 4193:2005. Bên cạnh đó, còn có các chỉ số tiêu chuẩn về độ ẩm, tỉ lệ vỡ, tạp chất...



Đề cập đến an toàn thực phẩm là đề cập đến lượng hóa chất tồn dư trong cà phê, các độc tố và nấm mốc, ngoài ra còn có các điều kiện tiêu chuẩn vệ sinh ở các cơ sở sản xuất, chế biến, quy trình áp dụng... Sản phẩm phải đảm bảo không có nguy cơ gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng, kể cả các nguy cơ tiềm ẩn.
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương