GIÁo phận thành phố HỒ chí minh giáO Án lịch sử Giáo hội LỚp vàO ĐỜI 2 CẤP 2 ngành hiệp sĩ


Các cha Phanxico và Đaminh từ Manila



tải về 0.76 Mb.
trang9/10
Chuyển đổi dữ liệu06.11.2017
Kích0.76 Mb.
#34171
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

3. Các cha Phanxico và Đaminh từ Manila

a. Dòng Phanxico với nhà Mạc

Mạc Mậu Hợp ở Bắc Triều cũng gửi thư đến Macao (1578 và 1581). Vì thiếu nhân sự, đức cha Macao liền gửi thư xin dòng Phanxico ở Manila. Đoàn truyền giáo người Tây Ban Nha đến bến An Quảng (Quảng Yên) gồm tám vị. Các cha D. Oropesa, Bart. Ruiz, Fr. Montilla, ba thầy trợ sĩ và một thương gia Nhật Manuel de Santiago. Ông đã góp toàn bộ tài sản và xin khởi đầu năm tập trên thuyền. Vài tuần sau các vị cho thuyền ra cửa cấm để về Thăng Long thì bị bão giạt vào Hải Nam, bị dân Trung Hoa bắt về Quảng Châu. May nhờ cha Mateo Ricci can thiệp, các vị được thả về Macao (1583).

Năm sau cha Ruiz trở lại với một phụ nữ Việt đã được rửa tội ở Macao làm thông ngôn. Một linh mục bạn đi theo nhưng không ở lại. Cha Ruiz được Mạc Mậu Hợp tiếp đón nồng hậu và cho phép giảng. Cha dùng tranh ảnh để cắt nghĩa đạo. Dân chúng tỏ vẻ cảm phục nhưng không ai theo. Cha chỉ rửa tội được một em nhỏ gần chết. Năm 1586, do áp lực của các thương gia Bồ, Cha phải về Macao rồi đi giảng ở Nhật. Vùng đất nhà Mạc sau đó còn có hai cha Dos Anjos và Da Conceicão (Ofm, BĐNha) rời Bắc Hà trước 1605.

b/ Dòng Đaminh vùng Chân Lạp

Các vua quan Chân Lạp khi tìm cách liên kết với quân đội Tây Ban Nha ở Manila thường cũng mời các thừa sai. Nhờ đó dòng Đaminh ở Manila thực hiện được 4 chuyến truyền giáo (Tỉnh dòng Đaminh Mân Côi thành lập ở Manila năm 1587).

* Năm 1596, theo lời mời vua Chey-Chetta I, hai cha Jimenez, Aduarte và thầy Deza đã đến Châu Đốc. Nhưng đến nơi vua Chiêm đã bị vua Xiêm truất phế, phải trốn qua Lào. Phái đoàn vòng lên cửa Hàn (Hội An), được tổng trấn nhà Nguyễn hứa cho xây Thánh đường. Các vị có gặp và dự lễ tổ phụ hai cha dòng Augustin đang làm tuyên úy cho các tín hữu Bồ Đào Nha trên thuyền. Đoàn tàu Tây Ban Nha đụng độ với hải quân vua Lê nên rút về trước. Cha Jimenez bị kẹt lại. Trước khi trở về, Ngài rửa tội được hai tù nhân bị án tử hình.

* 1598, theo lời mời vua Ponthea Tan, hai cha Jimenez, và Aduarte trở lại Chân Lạp, nhưng bị bão giạt qua Macao. Trên một tàu khác, hai cha Maldonado, và Bastida đến vùng sông Cửu Long. Tiếc rằng Pontea Tan băng hà, tân vương lại ủng hộ đạo Hổi, các vị đành trở về tay không.

* 1603, ấu vương Srey Sauryeper lại mời. Ba cha Inigo, Bellen và Collar đến tận Kinh thành Lovea En, dựng được một nguyện đường. Khi Ấu vương đổi chính sách, các vị về Manila.

* 1629-31: Theo lời mời quan tòa quyền Chân-Lạp, cha Morales dẫn đầu phái đoàn năm người đến khu vực Cửu Long. Các vị dựng được một nhà nguyện dâng lễ. Dân địa phương hiếu kỳ đến xem khá đông nhưng chẳng ai theo đạo. Các cha chỉ rửa tội được một bé gái, con một tín hữu Nhật. Khi vua Chey Chetta II lên ngôi hạ lệnh cấm theo đạo, các vị được gọi về Manila hết.



4. Nhận định

Nói chung việc truyền giáo thế kỷ XVI ở Việt Nam chưa thành công lắm. Điều này cũng dễ hiểu. Các thừa sai Tây Ban Nha thì mới tiếp xúc với môi trường Á Châu. Các thừa sai Bồ Đào Nha, tuy đã bước qua giai đoạn hai với chủ trương thích nghi văn hóa (mở trường Thày giảng), nhưng vì nhân sự ít ỏi còn đang bận tâm với hai quốc gia lớn là Trung Hoa và Nhật bản. Vì thế thường các vị đến Việt Nam theo lời mời của nhà cầm quyền.

Vùng Chân Lạp: chỉ mới có những cuộc thăm dò của các cha Đaminh.Vùng nhà Mạc: Có các cha của Phanxico và bị Bồ Đào Nha cản trở. Riêng vùng vua Lê: đã lưu lại trong ký ức dân Việt những kỷ niệm đẹp về Mai Hoa và Nguyễn Hoàng, hứa hẹn một ngày mai tươi sáng.

Đặc biệt cần ghi nhận nhiệt tình của các thừa sai Bồ Đào Nha, đã xé rào “luật bảo trợ” để mời các thừa sai Tây Ban Nha. Tiếc rằng thời gian hoạt động quá ngắn ngủi, các vị thừa sai chưa kịp học tiếng và xây dựng những cộng đoàn lâu dài.



II. NỬA THẾ KỶ DÒNG TÊN ĐẶT NỀN MÓNG 1615-1664

1. Bối cảnh chung

Việt Nam đầu thế kỷ XVII thuộc hai thế lực Trịnh và Nguyễn. Trịnh Tùng tái chiếm Thăng Long (1592) đuổi nhà Mạc lên Cao Bằng rồi xưng vương (1599) và điều hành mọi việc trong nước. Còn tiên vương Nguyễn Hoàng đã vào Thuận Hóa (1558) cai quản Quảng Nam (1570) nay lập thêm tỉnh Phú Yên (1611). Năm 1653, Nguyễn Phúc Tần mở thêm tỉnh Diên Khánh (Khánh Hòa). Từ đầu thế kỷ XVII, dân Việt đã di cư lập nghiệp ở Thủy Chân Lạp, đông nhất là vùng Mỗi Xuy (Biên Hòa). Người Việt Nam mau chóng hòa mình với phong tục địa phương và chinh phục trong ôn hòa lãnh thỗ như hiện nay vào thế kỷ sau.

Năm 1627, Nguyễn Phúc Nguyên từ chối nộp thuế cho Trịnh Tráng, khởi đầu 45 năm Bắc Nam phân tranh. Bảy trận chiến lớn đã diễn ra ở vùng Nghệ Tĩnh, Quảng Bình (Các năm 1627; 1640; 1643; 1648; 1655; 1660 và 1672). Sông Gianh trở thành ranh giới Đàng Ngoài - Đàng Trong của Chúa Trịnh - Chúa Nguyễn. Bối cảnh này khiến các thừa sai gặp nhiều khó khăn. Các nhà chúa thường nỗi giận khi tàu Âu châu chậm đến hoặc giúp đỡ phía đối phương. Các thừa sai từ Nam ra Bắc phải tế nhị đi vòng qua tỉnh Macao.

Các thừa sai dòng Tên giai đoạn này đã đứng hẳn về lập trường thích nghi với văn hóa địa phương (cha Valignano ở Nhật, cha De Nobili ở Ấn, cha Ruggieri và M.Ricci ở Trung Hoa). Tiếng Hoa và Nhật lúc này đã được Latinh hóa. Tự điển Bồ-Hoa hoàn tất năm 1588, tự điển La-Bồ-Nhật in tại Amacusa 1595. Cuộc bách hại tại Nhật với chiếu chỉ Daifusanna 1614 trở thành vận may cho dân Việt, được tiếp xúc với những thừa sai đầy kinh nghiệm này (Các thừa sai thời này đa số là người Bồ, chúng ta chỉ ghi chú những vị khác quốc tịch).



2. 50 năm Giáo Hội Đàng Trong (1615-64)

Việc truyền giáo Đàng Trong có thể chia làm hai giai đoạn chính: thời bề trên F. Buzomi (+1639) và từ lúc cha Đắc Lộ trở lại miền Nam (sau 1640).

a/ Thời bề trên Buzomi

Nhằm giúp đỡ các tín hữu Nhật ở Hội An, cha Buzomi (Ý), cha Carvalho và hai tu sĩ Nhật đến đây ngày 18-01-1615. Các vị dựng một nhà nguyện, nhờ các thông ngôn Việt và Nhật để giảng đạo bằng tiếng Việt. Lễ phục sinh, cha Buzomi rửa tội được 10 người, trong số đó có cậu Augustin tình nguyện ở lại giúp các cha và trở thành thầy giảng đầu tiên ở xứ Nam (Việc thông ngôn lúc đầu cũng có những ngộ nhận. Cha Buzomi được xem vở trò “Con gnoc muon bau tlom lam Hoa laom chiam” nghĩa là: Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa lang chăng ? Cha phải cho sửa lại từ “hoa laom” thành “Christiam”). Năm sau, cha A. Fernadez đến thay cha Carvalho trở về Nhật (tử đạo 1624). Cha Buzomi lập cơ sở mới ở Quảng Nam rồi Nước Mặn (Qui Nhơn).

Năm 1617, hai cha Pina (Ý) và Baretto (Ý) đến, nhưng vài tháng sau cha Barento và cha Fernandez đi Cao Miên. Bù vào đó có thêm cha P. Marquez và cha Borri (Ý, 1618) rồi ba cha E.Fernandez, E. Borges, J. Leira (Ý) và thầy Romano Niti (1622). Năm 1624, cha Giám tỉnh G. Mattos đến cùng với bốn cha Anton Fontes, Gaspar Luis, Alexandre de Rhodes, (Đắc Lộ, Pháp), Giro-lamo Majorica (Ý) và thầy Ribero (Nhật) nâng tồng số thừa sai lên 15 người (11 linh mục).

Việc giảng đạo bằng tiếng Việt đem lại kết quả khả quan. Năm 1616, số tín hữu được 300. Ở Qui Nhơn năm 1621, cha Buzomi rửa tội 172 người, trong đó có hai ông bà Inhaxu-Ursula và gia đình. Ông Inhaxu là sứ thần nhà Nguyễn tại triều đình Chân Lạp. Ở Quảng Nam, cha Pina năm 1620 rửa tội được 275 người. Trong đó có nhiều người thuộc giới trí thức như các cụ nghè Giuse, Phêrô, Phaolo và sư cụ Manuel. Các cụ hỗ trợ cha nhiều trong việc học tiếng Việt. Riêng cụ Phaolô trở lại nhờ sách bổn tiếng Hán của cha M.Ricci.

Những cản trở giai đoạn đầu do các “ongsai” (ông sãi). Ngoài việc thầy Tư Bình ở Nước Mặn tổ chức tranh luận với cha Buzomi. Các ông phao tin thiên tai hạn hán là do thần Phật nổi giận; bịa chuyện người chết hiện về cảnh cáo; hoặc phá chùa miếu rồi vu cho các tín hữu. Giai đoạn sau giới cầm quyền kết tội bỏ thờ cúng tổ tiên; các cha cho đặt bàn thờ ông bà và cổ võ đọc kinh, làm phúc vào các ngày lễ giỗ kỵ, nhưng cấm cúng thực phẩm và vàng mã.

Năm 1625 cha Pina đi lên Thuận Hóa và rửa tội được cho bà Maria Minh Đức Vương Thái Phi (bà dì của Sãi vương). Theo cha Đắc Lộ “Bà là chỗ nương thân của Giáo hội mới chớm nở. Gương mẫu và thế lực của bà đã giúp nhiều cho việc truyền giáo và làm các người đã chịu phép rửa thêm vững tin”. Cuối năm đó, vì tàu Bồ ngưng tiếp tế võ khí, các thừa sai bị tập trung về Hội An... Độ vài tháng, có tàu từ Macao đến, các ngài lại được tự do.

Tháng 7-1626, hai cha Đắc Lộ và Marquez ra Bắc, hai cha Mattos và Leira đi Macao, cha Pina đã qua đời. Bù vào đó có thêm hai cha Nhật Mic. Machi và Mathias Machida, hai năm sau thêm cha Ben. Mattos và thầy A. Torres. Năm 1629, số tín hữu đã là 15.000 nhưng các thừa sai bắt đầu 10 năm thử thách cuối đời Sãi Vương (chỉ trừ năm 1634). Các vị phải trốn trong rừng hoang nước độc, nhưng số tín hữu vẫn gia tăng. Năm 1639, khi tất cả thừa sai bị trục xuất, giáo hữu miền Nam đã lên đến 40.000.

b/ Từ 1640 - 64

Trong vài năm (1640-45), nối tiếp công việc của cha Buzomi, cha Đắc Lộ ba lần bị trục xuất, ba lần cha trở lại. Chuyến đầu, cha mang quà cho chúa thượng ở Kim Long, rồi ở dinh bà Minh Đức, rửa tội 92 người. Chuyến hai, cha đi thăm các họ đạo ở Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Ran-ran, chỉ có 6 tháng, ngài rửa tội 1305 người. Cha Ben. Mattos thì giảng ở Thuận Hóa, Quảng Bình. Chuyến ba (1-1642 đến 9-1643) cha tổ chức lại hội Thầy Giảng như ngoài Bắc và nhận lời khấn 10 thày ngày 31-7-1643. Các thầy khấn độc thân, để tài sản chung và vâng lời thày bề trên. Các thày chia làm hai nhóm lo vùng Bắc và Nam. Trong chuyến bốn, từ tháng 7-1644 giáo đoàn xứ Nam bắt đầu có bách hại đổ máu. Thày giảng Anrê Phú Yên bị bắt ở nhà cha Đắc Lộ, trở thành vị tử đạo tiên khởi miền Nam ngày 26.7.1644. Khi bị chém, môi thày vẫn còn mấp máy thánh danh Chúa Giêsu.

Trong khi đó tại Qui Nhơn, 700 tín hữu ra trình diện, Quan Trấn chỉ chọn 35 người “đàn anh” để đánh đòn. Cha Đắc Lộ bị trục xuất, ngài đi nhưng bí mật trở lại, đến nhiều nơi an ủi giáo hữu. Cuối cùng ngài bị bắt với 9 thầy giảng. Ngày 3-7-1645 ngài vĩnh biệt Việt Nam. Ngày 26, thày Ignatio và thày Vinh Sơn bị trảm quyết, bảy thày kia bị chặt mỗi người một đốt ngón tay.

Năm sau, 1646, cha Metello Saccano đến thay thế. Cuối năm đó hai ông Augustin và Alêxi bị trảm quyết ở Quảng Bình, lệnh thiêu hủy sách đạo và ảnh tượng cũng được ban hành. Thế nhưng, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan cần khí giới của người Bồ Đào Nha, nên vẫn để cha Saccano và cha Rocca vừa mới đến ở lại Hội An. Các ngài dùng thày giảng làm trung gian để đến với giáo hữu. Năm 1655, hai cha Fr. Rivas và P. Marquez đến thay thế hai vị. Sau cái chết của ông Phêrô Văn Nết (1656) các cha được một thời hòa hoãn. Hiền Vương nhờ các cha môi giới liên lạc với người Bồ. Nhưng đến 1661, khi chúa Nguyễn mất bảy huyện phía nam sông Lam Giang, cuộc bách hại lại tiếp diễn. Số người làm chứng cho đức tin để lại danh tánh khoảng 12 vị. Tháng 7-1664, cha chính Chevreuil, đại diện đức cha Lambert de la Motte tới Hội An. Số tín hữu miền Nam lên đến 50.000.



3. 37 năm truyền giáo xứ Bắc (1626-63)

Trước những thành công của xứ Nam, năm 1626 Macao gởi đến xứ Bắc cha G. Baldinotti (Ý) và thày Julio Piano (Nhật). Các vị được Trịnh Tráng tiếp đón niềm nở, nhưng vì không thạo tiếng, nên gửi thư xin bề trên cử thừa sai trong Nam ra. Hai vị về Macao để đi Nhật, sau khi rửa tội bốn trẻ sắp chết.

Theo ý hướng đó, cha Đắc Lộ và Marquez từ miền Nam qua Macao đến cửa Bạng, Thanh Hóa ngày 19-3-1626 nhằm ngày lễ thánh Giuse. Cha Đắc Lộ liền chọn thánh Giuse làm quan thày xứ Bắc (Công Đồng Định Hiến 1670 xác nhận thánh Giuse là bổn mạng GHVN). Bài giảng về “Viên ngọc Nước Chúa” đã khiến hai người xin rửa tội; vài ngày sau được 32 người, trong đó có cụ Gioakim ở An Vực. Cụ xin được vinh dự ghi chép kinh sách theo chữ Nôm. Chỉ 2 tháng, họ An Vực được 200 người. Nhờ việc an táng trọng thể một lính vệ, hai vương phi phủ chúa xin rửa tội.

Với món quà “đồng hồ cát” và bản đồ thế giới ghi chữ Hán, hai vị linh mục được theo Chúa Trịnh về Kẻ Chợ (Thăng Long, Hà Nội) và được phép giảng đạo. Dân chúng đến nghe giảng rất đông. Căn nhà Chúa Trịnh cất cho các cha trở thành nhà thờ Kẻ Chợ. Mỗi ngày các cha phải dạy từ bốn đến sáu lớp, mỗi lớp năm ba chục người. Trong số người trở lại, cha Đắc Lộ có nói đến Công chúa Catarina: “Đặt thơ vãn lịch sử Đạo từ tạo thiên lập địa đến Chúa xuống thế...và lên trời, lại thêm chuyện chúng tôi đến Đông Kinh giảng đạo”. Còn thày sãi Antonio làng Vũ Xá, thỉnh thoảng đưa đến hai ba chục, có khi 80 người xin rửa tội. Số tín hữu: 1627 là 1200; 1628 là 2000 và 1629 trên 3500.

Trong thời gian này cha Đắc Lộ đã có nhiều sáng kiến mới, như đặt ca vãn lễ Giáng Sinh, Cổ võ ba ngày tết kính Chúa Ba Ngôi, thay cây nêu bằng cây Thánh giá, dùng lá dừa ngày lễ lá và đặc biệt là soạn 15 ngắm thương khó. Cha đúc kết kinh nghiệm dạy giáo lý trong cuốn “Phép giảng tám ngày”, sẽ được in tại Roma 1651. cha liên kết các thày giảng thành “hội” tình nguyện sống độc thân, để tài sản chung và vâng lời bề trên do các cha đặt. Các thày sẽ tuyên khấn tạm trước khi khấn trọn đời.

Do các cung nữ kêu ca về luật một vợ một chồng, do lời vu cáo các cha bắt hồn người chết (xức đầu) và vì chờ lâu không thấy tàu Bồ Đào Nha đến, Trịnh Tráng trục xuất hai cha vào tháng 3-1629. Nhưng nhờ cảm tình của viên thuyền trưởng, hai cha lén vào Nghệ An giảng đạo tám tháng, rửa tội gần 600 người, rồi theo một tàu Bồ Đào Nha trở lại Kẻ Chợ. Tháng 5-1630, cha nhận lời khấn ba thày giảng đầu tiên là Phanxicô (bề trên), Anrê và Ignatio. Các cha vĩnh biệt xứ Bắc trở về Macao. Số tín hữu đã lên đến 5000. Cũng năm 1630, xứ Bắc có vị tử đạo tiên khởi, là anh Phanxicô. Dù bị chủ là một ông hoàng cấm đoán, anh vẫn tiếp tục “chôn xác kẻ chết” nên bị giam, tra tấn và bị giết.

Ngày 1-3-1632, bề trên Gaspar d’Amaral và hai cha Ant. Fontes, Ant. Cardim đến Kẻ Chợ. Các ngài vui mừng vì thấy ba thày giảng đã rửa tội thêm 3340, lập 20 họ đạo và nhà thờ mới. các cha cho ba thày khấn vĩnh viễn. Đến tháng 10, có thêm hai cha Majorica và Reggio (cha Cardim qua Lào). Cha Majorica và cha Fontes lập thêm cơ sở ở Thanh Hóa và Nghệ An. Cha Majorica đã biên soạn nhiều sách bằng chữ Nôm như chuyện các thánh và sách thiêng liêng để các ông trùm đọc ngày chủ nhật... Năm 1635 vùng Thanh Nghệ bị bão tàn phá. Trịnh Tráng ra lệnh cấm đạo, các tín hữu phải lấy liếp ngăn nhà thờ thành nhiều gian mỗi khi quân lính tới.

Các thừa sai sau vẫn tiếp tục đến Việt nam: Ant. Barbosa, Felix Morelli (1637), Gio. Bonel (Ý), Ray. Govea, Mart. Coelho (năm 1638) rồi Bart. Caldeira và Giuse Mauro (Ý) năm 1639. Hai cha Bonel và Mauro mới hoạt động được vài tháng thì bị bệnh mất. Cũng năm 1639, hai cha Amaral và Barbosa bị bệnh phải trở về Macao. Vị trước hoàn tất tự điển Việt-Bồ, vị sau biên soạn tự điển Bồ-Việt, là những tác phẩm cha Đắc Lộ sẽ dùng để biên soạn từ điển Việt-Bồ-La (được in tại Roma 1651).

Năm 1640 cha Morelli làm bề trên, đón nhận cha Borges (Thụy Sĩ), và ba cha khác. Hai năm sau mỗi năm thêm một vị. Năm 1643, Chúa Trịnh cấm đạo độ 3 tháng, nhưng số tín hữu ngày càng gia tăng. Năm 1646 bốn thừa sai từ Macao đến, trong đó có cha Amaral bị chết đuối. Bù vào đó Macao gửi thêm 5 vị (3 Bồ Đào Nha; 2 Ý), cuối năm lại thêm cha Marini từ CaoMiên.

Năm 1649, Trịnh Tráng chờ lâu không có thuyền người Bồ, lại giận vì thua trận với chúa Nguyễn, nên nhân cơ hội một số tín hữu tổ chức rước sách ồn ào, ông ra lệnh cấm đạo năm 1649. Được vài tháng tàu Macao đến, lệnh cấm được giải tỏa.

Từ năm 1650, thời bề trên Majorica, giáo đoàn xứ Bắc tiến triển cách mau lẹ. Theo cha Marini số giáo dân lên đến 350.000 với 414 nhà thờ. Số thày giảng là 70, quán xuyến tất cả mọi việc không đòi chức linh mục. Năm 1656, cha Majorica qua đời, cha Borges lên thay. Năm sau Trịnh Tráng băng hà, Trịnh Tạc lên nối nghiệp khởi đầu cho một giai đoạn cấm cách mới. Tháng 6-1658, Trịnh Tạc trục xuất toàn bộ các thừa sai, chỉ còn cha Borges và Tissanier được ở lại. Mọi sinh hoạt phải nhờ các thày giảng và hoạt động Tông đồ giáo dân. Năm 1662, chúa Trịnh cho phép thêm cha Albier, nhưng ba vị không được ra ngoài khu Kẻ Chợ. Dầu vậy, mỗi năm Giáo hội vẫn thêm được 6, 7 ngàn tân tòng. Năm 1663, Macao bị nhà Thanh phong tỏa, ba vị cuối cùng bị trục xuất ngày 12-11. Sáu năm sau các cha dòng Tên trở lại xứ Bắc thì Việt Nam đã có Giám mục Đại diện Tông tòa rồi.

4. Nhận định

Thừa kế kinh nghiệm truyền giáo tại Ấn, Nhật và Trung Hoa, các cha dòng Tên đến Việt Nam đã chọn hẳn hướng thích nghi văn hóa. Từ việc học tiếng Việt, các cha đã nghiên cứu văn phạm, biên soạn chữ quốc ngữ. Việc xuất bản từ điển Việt-Bồ-La và “Phép giảng tám ngày” của cha Đắc Lộ tại Roma 1651, là điểm son trong lịch sử văn học Việt Nam. Các ngài còn Cổ võ sự đóng góp hết sức đặc biệt của những tín hữu tiên khởi. Chính nhờ họ, đạo đã đi vào dân Việt với những vần thơ phong phú, những cung điệu ngắm nguyện, dâng hoa đặc sắc và những tuồng vãn xúc tích cảm động. Những tín hữu tiên khởi này tỏ ra rất tích cực trong việc loan báo Tin Mừng mình mới đón nhận được.



Tổ chức thày giảng Việt Nam cũng được cả thế giới kính phục. Các thày rất đắc lực: dạy giáo lý, chủ sự giờ kinh, thăm viếng người bệnh khích lệ người khô khan, nhắc nhở các trùm trưởng, rửa tội người hấp hối và cả người khoẻ mạnh nếu vắng thừa sai. Các thày là chỗ dựa của giáo đoàn khi các thừa sai bị trục xuất, và nhà Đức Chúa Trời trở thành chủng viện đào tạo linh mục cho tương lai.

Hơn nữa, các cha dòng Tên còn xuất bản ở Âu Châu nhiều sách giá trị về sử địa đất Việt đầu thế kỷ XVII. Đáng kể nhất là các cuốn: “Lịch sử xứ Tonkin” của cha Đắc Lộ; “Delle Missioni de padri della Compagnia di Giesu” của cha Marini cũng như các tập “Relationes” của cha Borri và Tissanier đã giúp biết bao người hiểu biết nước Việt... Riêng cha Đắc Lộ còn có công lớn trong việc vận động ở Roma, xin đặt Giám mục cho Việt Nam năm 1658 và góp phần không nhỏ trong tài liệu “Những Chỉ Thị” của Thánh bộ truyền giáo vào năm sau.

Cuối cùng, một lý do quan trọng của những thành công này chính là lý do địa lợi nhân hòa. Các thừa sai đã gặp những người Việt Nam “thuần hậu tốt lành”, đã gặp một dân tộc rộng mở trước những gì ngay chính. Phật giáo và Khổng giáo đã chuẩn bị cho họ những ý niệm về Thượng Đế, về từ bi, về tam cương ngũ thường. Xin trích lời cha Đắc Lộ: “... Điều làm tôi cảm động hơn hết là thấy ở xứ đó, bao nhiêu người tín hữu là bấy nhiêu thiên thần, ơn phép rửa đã cho họ tinh thần mà ta thấy nơi các Tông đồ và tử đạo của Giáo hội tiên khởi ...”.

câu hỏi thảo luận

1- NÓI RẰNG: “NGAY TỪ ĐẦU NGƯỜI VIỆT NAM ĐÃ TIẾP NHẬN ĐỨC TIN KITÔ GIÁO HẾT LÒNG MÌNH” TẠI SAO LẠI CÓ NHỮNG CUỘC BÁCH HẠI DỮ DỘI VÀ KÉO DÀI GẦN 300 NĂM.

- Niềm tin Kitô giáo được các tín hữu Việt Nam nhiệt tình đón nhận và phát triển rộng rãi trong tất cả các giới. Lòng tin tưởng, yêu mến, trung thành của các tín hữu đối với Tin Mừng đã khiến các vua chúa quan lại ganh tỵ, lấy cớ là sợ tổn hại đến phong tục tập quán, hoặc ảnh hưởng đến việc điều hành chung, cộng thêm lời vu khống của các quan nịnh thần cho rằng các tín hữu làm tay sai cho thực dân cướp nước, nên các vua chúa ra chiếu chỉ cấm đạo: bắt bớ tàn sát những nhà truyền giáo bản xứ, người Tây phương, cả những tín hữu nhiệt thành.

- Các cuộc bách hại tùy thuộc vào cảm tính của các triều đại vua chúa, khi dồn dập gay cấn, lúc lắng dịu, bình yên trải dài suốt 300 năm.

- Cuộc bắt đạo kéo dài giúp củng cố lòng tin và sự chọn lựa của người tín hữu Việt Nam hãy còn non trẻ, các tín hữu kiên quyết anh dũng làm chứng tá cho Chúa Giêsu dù phải đón nhận cực hình, tước đoạt tài sản và cả sinh mạng.

- Tuy nhiên Giáo Hội tại Việt Nam vẫn không ngừng phát triển và được Đức Giáo Hoàng Pio XI gọi là: “Trưởng Nam của Giáo Hội Công giáo tại Á Châu”.

2- BẠN BIẾT GÌ VỀ ĐỨC CHA BÁ ĐA LỘC?

- Đức Cha Bá Đa Lộc tên thật là Pigneau de Behaine, sinh ngày 2.11.1741 tại làng Oriajny tỉnh Aisne miền Bắc nước Pháp.

- Thụ phong Linh Mục năm 1765 được 24 tuổi, sau đó lên đường truyền giáo.

- Tháng 3.1767 được bổ nhiệm làm giáo sư, rồi Giám Đốc chủng viện Hòn Đất gần Hà Tiên…

- Tháng 11.1769 chủng viện Hòn Đất bị Campuchia bách hại, cha Pignéau và cha Morvan cùng 43 chủng sinh chạy về Hà Tiên. Từ đây đi Ấn Độ.

- Năm 1770 được toà thánh sắc phong làm Giám Mục phó cho Đức Cha Piguel. Ngày 24.2.1774 Thụ phong Giám Mục với hiệu toà Adran tại ấn Độ

- Ngày 14.3.1776 trở lại Việt Nam, tại Hà Tiên.

- Năm 1777 Ngài trợ giúp Nguyễn Ánh lật đổ Tây Sơn khôi phục giang san.

- Năm 1784 Đức Cha đem Hoàng Tử Cảnh bốn tuổi, con trai Nguyễn Ánh sang Pháp cầu viện Vua Loui XVI. Từ Châu Âu trở về Ngài ra sức giúp Nguyễn Ánh trong nhiều lãnh vực.

- Ngày 09.10.1799 Đức Cha Pigneau qua đời. Hưởng dương 58 tuổi. Ngày 16.10.1799 Thi hài Đức Cha được an táng trọng thể ở Lăng Cha Cả (Lê Văn Sỹ)

- Để tỏ lòng trọng kính và biết ơn cha, Vua Gia Long phong cho Ngài tước hiệu “Bá Đa Lộc Thượng Sư”. Căn cứ tước hiệu này sách vở hay dân gian thường gọi Ngài là Đức Cha Bá Đa Lộc hay Cha Cả.

3- BẠN BIẾT GÌ VỀ KHẨU HIỆU BÌNH TÂY, SÁT TÀ.

Tây: Tây Dương (Pháp)

Tà : Tà đạo, các quan lại gọi đạo Thiên Chúa là tà đạo vì họ cho rằng đạo Thiên Chúa là đạo của Tây, được các nhà truyền giáo Pháp truyền sang Việt Nam, dạy dân sao lãng những phong tục, tập quán của mình “Bình Tây, Sát Tà” là “Đánh đuổi Tây dương và tiêu diêt đạo Công Giáo.

- Từ năm 1859-1885, Pháp tham chiến ở Việt Nam, chiến tranh bùng nổ, những cuộc kháng chiến nổi lên khắp nơi, phong trào kháng chiến không thành công, người ta quay lại tàn sát người công giáo mà họ ghép cho là phản Quốc theo Tây.

Bài 19.

Giáo hội Công giáo tại Việt Nam
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

Dựa vào bản chỉ thị 1659 của bộ truyền giáo, qua hai công đồng Juthia 1664 và Định Hiến 1670 đức cha Lambert đã giúp Giáo hội Việt Nam đi vào ổn định: các giáo xứ, giáo họ được phân ranh giới và đi vào sinh hoạt đều hòa. Các linh mục Việt Nam có phần đóng góp hết sức đặc biệt vì các ngài không gặp khó khăn về ngôn ngữ, văn hóa và dễ dàng hoạt động hơn các thừa sai khi có bách hại. Việc thiếu quan tâm đào tạo của đức cha Pérez và Alexandris, dù được bổ sung khá nhiều thừa sai, giải thích việc chậm phát triển Giáo hội Đàng Trong so với đàng Ngoài giai đoạn này. Tuy nhiên, do những hạn chế lịch sử, các linh mục Việt Nam được đào tạo vội vàng, lại quá bận rộn với mục vụ bí tích, nên sinh hoạt tôn giáo thời này, phát triển mạnh hơn khuynh hướng bình dân và đạo đức tình cảm.

Một số sử liệu đáng ghi nhớ:

1659: thành lập hai địa phận Đàng Trong và Đàng Ngoài

1668: Bốn Linh mục Việt Nam tiên khởi

1679: Đàng Ngoài được chia thành hai địa phận (Đông và Tây Đàng Ngoài).

1670: thành lập Dòng Mến Thánh Giá.

Ngoài các thừa sai Paris, hoạt động tại Việt Nam giai đoạn này còn có Dòng Tên, Barnabit, Augustin. Dòng Phanxicô đã gởi đến khoảng 30 vị (1719-1834) và là những người đầu tiên tổ chức các giáo đoàn tại Saigon, Mỹ Tho, Hà Tiên. Dòng Đa Minh trở lại Việt Nam từ 1676, tại địa phận Đông Đàng Ngoài. Khu vực này được trao hẳn cho Dòng từ 1757. Tuy có một số xung đột giữa các đoàn truyền giáo nhưng cuối cùng Thánh bộ đã giải quyết cách ổn thỏa.



GIÁO HỘI VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI (1800-1933)

Trong danh sách 117 thánh Tử đạo Việt Nam, 111 vị đã làm chứng cho đức tin trong khoảng 1833-1862. Năm 1862 là thời điểm vua Tự Đức tuyên bố ngưng việc bách hại. Năm 1933 là thời điểm Việt Nam có giám mục tiên khởi, đức cha J.B. Nguyễn Bá Tòng.



I. GHVN LỚN LÊN TRONG THỬ THÁCH

1. Giáo hội dưới cái nhìn của Triều đình

Dưới thời Gia Long (1802-20) tuy không có chiếu chỉ cấm đạo nhưng nhà vua nhận định về đạo năm 1804 như sau: “Đạo Giatô đặt ra thuyết thiên đường địa ngục khiến ngu phu ngu phụ chạy vạy như điên, tiêm nhiễm thành quen, mê mà không biết”. Vua hạ lệnh cấm tu bổ và xây dựng thánh đường.Vua Minh Mạng (1820-40) chỉ thực sự cấm đạo từ 1833. Nhưng trong chiếu chỉ 1825, ông phê phán các giáo sĩ mê hoặc lòng dân và làm bại hoại phong tục. Các thừa sai ở miền Nam là Tabert Từ, Gagelin Kính, Odoricô Phương (Ofm) bị triệu về kinh đô dịch sách, đến 1828 mới được tự do nhờ sự can thiệp của Tổng trấn Lê Văn Duyệt (1832).

  Chiếu chỉ 6-1-1833 viết “Dân ngu bị mê hoặc mà không biết... Chúng lập nhà riêng nhà giảng, tụ tập nhiều người cám dỗ dâm ô phụ nữ, lừa gạt lấy mắt người ốm... ai trót theo đạo muốn hối thì hãy từ bỏ đạo, bước qua cây thập tự (quá khóa) được miễn tội” (Đại Nam Thực Lục - ĐNTL XI, tr 235). Vua cũng ra lệnh triệt hạ các nhà thờ. Chiếu chỉ 1836, vua hạ lệnh khám các tàu bè: “Nếu là đạo trưởng Tây dương, chiếu theo luật trinh sát, ngoại quốc lén vào trong nước mà khép tội chém”... “Trấn thủ dung túng hoặc không nghiêm cấm cũng phải tội như phạm nhân” (ĐNTL XVII, tr 245)

Dân chúng khu vực miền Bắc, lòng vốn còn hướng về vua Lê, nên không tuân hành lệnh cấm đạo. Giữa năm 1837, linh mục Đặng Đình Viên bị bắt cùng một số thư gửi các thừa sai. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đem thư về triều đình. Ông bị khiển trách về tội dung túng và bị giáng cấp. Từ đó bão tố bách hại mới nổi lên ở Nam Định. Các thừa sai có tên trên thư bị bắt hết, chỉ sót lại danh Trùm Vọng (Giám mục Hermosilla Liêm, OP), khiến vua phải ra chỉ dụ 1839, treo giải thưởng 10.000 quan tiền cho ai bắt được (ĐNTL XX, tr.119).

Vua Thiệu Trị (1841-47) không chủ trương bắt giết. Ông muốn kiên nhẫn giáo dục tín hữu bỏ đạo tà, nhà vua khá nhân nhượng thả nhiều thừa sai bị bắt cho về nước, nhưng khi xảy ra cuộc thủy chiến với Pháp ở Đà Nẵng, vua ra hai chiếu chỉ cấm đạo (1847). Vua so sánh thuốc phiện và đạo Giatô là hai mối hại và lấy lại các biện pháp của Minh Mạng.

Riêng vua Tự Đức (1847-84) ra đến bảy chiếu chỉ cấm đạo. Ông vẫn nghĩ về đạo “móc mắt người chết để làm thứ thuốc mê hoặc dân chúng” (1848), ông sàng lọc các quan Công giáo (1855): “Nếu nhận tội thì được tha, bằng không, sẽ bị cách chức xuống làm bạch đinh và bị trừng phạt theo pháp luật”... “Đạo đồ dù hay chữ đến đâu, cũng không được dự các kỳ thi hay nhận chức vụ trong làng trong tổng”. Chiếu chỉ 1857, vua hứa thưởng cho những ai tố cáo các đạo trưởng, truyền các lý trưởng ép các đạo đồ thờ cúng Tổ tiên và các thần của làng. Vua không cho giết hại, chỉ dặn khắc chữ tả đạo trên má, và ra hạn một năm để bỏ đạo, sau đó, “đàn ông sẽ nghiêm trị, đàn bà sẽ đưa về làm tôi tớ các quan” (Louvet , Sđd, II, 248-250).

Hai chỉ dụ 1859 sau biến cố Pháp đánh vào Đà Nẵng và miền Nam nước Việt, vua kiểm tra lại tất cả các quan lại và buộc họ bỏ đạo, vua cũng buộc các binh sĩ bước qua thập giá trước khi đánh bọn “bạch quỉ”. Năm sau vua truyền lệnh lùng bắt các trinh nữ (nữ tu) chuyên dấu diếm đồ thờ và liên lạc thư từ. Cuối cùng ngày 5-8-1861 vua ra chiếu chỉ “phân tháp”, phá bình địa các làng Kitô giáo, tịch thu tài sản, khắc trên má tên làng và chữ “Giatô tả đạo”, phân tán các tín đồ, giao cho lương dân cứ năm người canh một người (Louvet , Sđd, II, 294-296).

Tháng 7-1862 vua Tự Đức nhân ngày sinh nhật tuyên bố trả tự do và tài sản cho các tín hữu: “vì chúng đã cải quá phần nào, nên trẫm thương chúng”.


Каталог: contents haiauresort -> uploads -> file

tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương