GIÁo phận thành phố HỒ chí minh giáO Án lịch sử Giáo hội LỚp vàO ĐỜI 2 CẤP 2 ngành hiệp sĩ


Nhận định việc cấm đạo của nhà Nguyễn



tải về 0.76 Mb.
trang10/10
Chuyển đổi dữ liệu06.11.2017
Kích0.76 Mb.
#34171
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

2. Nhận định việc cấm đạo của nhà Nguyễn

Nhà Nguyễn tuy thống nhất được đất nước, nhưng không đủ khả năng để an dân, khắp nơi xảy ra nhiều cuộc nổi loạn, giặc giã. Việc xây thành, đào hào, việc hạn chế cách xây nhà, ăn mặc, việc loại bỏ chữ Nôm, độc tôn Tống Nho, nhất là chủ trương tứ bất: không lấy Trạng Nguyên, không tuyên hoàng hậu, không phong thái tử, không cử tể tướng, chứng tỏ ngai vàng các ông thiếu vững chắc và phải củng cố về quyền hành.

Các nhận định của triều đình về đạo Giatô nói chung khá phũ phàng và thiếu hiểu biết. Giả thuyết nhẹ nhàng nhất là nói các ông hiểu lầm, ảnh hưởng những dư luận xấu. Bằng không, phải nói các ông muốn hướng dẫn dư luận để triệt hạ “tà đạo”. Và ở đây ta thấy nguyên nhân sâu xa của việc cấm đạo là tội “khi quân”. Bởi vì vua là Thiên tử, là con trời, nên không thể sai lầm khi ra lệnh cấm. Hay nói theo Trần Trọng Kim: “Cấm mà không được thì tất là phải giết, mà khi cấm và giết như vậy vẫn tưởng mình làm bổn phận làm vua”.

Dầu sao các vua nhà Nguyễn không giống với Nêron bạo chúa, không có thứ “sadisme” vui thích trong việc hành hạ người khác. Các ông giống hoàng đế Trajan hơn (chính sách 112) muốn tha thứ không muốn giết chết. Vua không cho các quan giết tín hữu, trên nguyên tắc mọi bản án phải gởi về kinh đô xin phê chuẩn, và thường nhà vua chần chừ khi ký bản án, đôi khi thêm hai chữ “giam hậu”, nghĩa là khoan xử, để phạm nhân suy nghĩ lại mà bỏ đạo sẽ được ân xá.

Về sau thái độ hung hãn và xâm lấn của Pháp quả có thêm lý do để triều đình nghi ngờ các tín hữu. Thế nhưng vì các tín hữu chỉ cần bước qua thập giá thì được tha, ta thấy rõ lý do tôn giáo trong các bản án tử đạo. Ngay các tín hữu tình nguyện đi đánh Pháp, Tự Đức cũng giết nếu không “quá khóa”.

Tóm lược thái độ trên, chúng ta có thể đọc lá thư tâm tình của Tự Đức tháng 7-1864, xin trích vài câu: “Ngạn ngữ có câu: vua có lỗi, thần dân cũng không được buồn, cha xử không tốt cũng không phải là duyên cớ để con bất hiếu. Điều ấy lại càng đúng khi người cha không có ác ý.... Vì thế, các ngươi, tín đồ Giatô, tình thế các ngươi chắc chắn là khó xử, nhưng các ngươi vẫn kiên gan theo đạo của mình trong lúc vẫn giữ đúng luật nước, về việc này Ta chỉ biết mừng cho các ngươi. Ta sẽ luôn ghi nhớ. Đó lại càng là lý do để ta đối xử với người Kitô và lương như nhau, sau khi tỏ lòng nhân từ cho các tín hữu Giatô và trả tự do cho họ”.

Theo những phân tích của sử gia Nhật Tsuboi: Các thừa sai giữa thế kỷ XIX, chịu ảnh hưởng của thời đại, bắt đầu dùng những từ ngữ trong thư từ: “Tôn giáo và Tổ quốc”, “Đồng bào chúng ta”... Các linh mục như Huc, Chamaison, giám mục Pellerin dù không ý thức trước hậu quả việc thúc dục Napoléon III đem quân sang Việt Nam, dù chỉ muốn chấm dứt việc bách hại, dù ước mong có một vua Việt Nam theo đạo... thì các vị vẫn đáng chịu sự phê phán của các tài liệu lịch sử, vì đã góp phần cho thực dân Pháp thực hiện ý đồ của họ sớm hơn. Sau này các vị sẽ phải kêu lên ? “Những việc tồi bại của quân đội Âu châu trong một ngày, thì phải có 20 thừa sai giảng trong một năm mới sửa chữa được những tai hại của nó” (Louvet Sđd II 223)

3. Tình hình Giáo hội Việt Nam thế kỉ XIX

Ngay giữa bối cảnh bách hại, số tín hữa Việt Nam vẫn gia tăng được 31,2%, nghĩa là từ 320.000 năm 1800 (Đông Đàng Ngoài: 140.000, Tây Đàng Ngoài 120.000, Đàng Trong 60.000) số tín hữu tăng thành 426.000 năm 1855 (Đông Đàng Ngoài 200.000, Tây Đàng Ngoài 140.000, Đàng Trong 86.000). Số giáo phận từ 3 nâng lên thành 8 giáo phận.

a. Khu vực hội thừa sai Paris

Vì chủng viện Hội thừa sai bị hoàng đế Napoléon đóng cửa (1809-1815) nên sinh hoạt thời gian đầu chỉ dựa vào số 11 thừa sai cũ và 80 linh mục Việt Nam (Tây Đàng Ngoài 6 + 65, Đàng Trong 5 + 15).



- Giáo phận Tây Đàng Ngoài: đức cha Longer Gia (+1829) chọn hai giám mục phụ tá đều sớm qua đời là đức cha La Mothe (1816-19) và Guérard (1822). Kế vị ngài là đức cha Havard Du (1829-38), vị này bị lưu lạc và chết đói trong rừng. Đức cha Borie Cao được chọn kế vị, nhưng lại tử đạo trước khi thụ phong. Sau đó, đức cha Retord Liêu (1840-58) phải qua Manila để thụ phong. Năm 1846, Tòa thánh tách giáo phận Tây để lập giáo phận Vinh (Nam Đàng Ngoài) trao cho đức cha Gauthier Hậu (1846-77).

- Giáo phận Đàng Trong: Đức cha Labartette (+1822) tấn phong hai giám mục phó đều sớm từ trần là đức cha Doussain (1808-09) và Audemar (1818-21). Nên sau đó giáo phận thuộc quyền cha chính Thomassin (+1824) và cha Tabert Từ. Năm 1827, cha Tabert Từ được cử làm giám mục đang khi bị giam lỏng ở Huế nên năm 1830 ngài mới thụ phong. Nói chung, do ảnh hưởng Tả quân Lê Văn Duyệt, Giáo hội miền Nam hoàn toàn bình an trước 1833. Sau đó, nhiều thừa sai phải theo đức cha Tabert và 15 chủng sinh di tản qua Thái Lan. Tại đây, vua Thái ép đức cha phải hô hào các tín hữu Việt Nam chống lại Minh Mạng. Đức cha không chịu và trốn đi Singapour rồi đến Calcutta, Ấn Độ. Nhờ sự hỗ trợ của linh mục Phan Văn Minh, đức cha biên soạn từ điển Việt-La, La-Việt (Nên tìm đọc Phi-năng thi tập gồm bài thơ về Tin Mừng có những bài xướng và họa, do linh mục Philiphê Minh chủ xướng).

Đức cha tấn phong giám mục phó Cuénot Thể (1835-61) cử về Gò Thị, Bình Định. Ngay năm 1835, đức cha Thể truyền chức cho 10 tân linh mục Việt, gửi thư khích lệ các giáo đoàn, nhận thêm được 6 thừa sai, mở lại hai chủng viện Quảng Trị và Lái Thiêu. Ngài cũng tập trung được 250 nữ tu Mến Thánh Giá trong 18 tu viện.

Kế vị đức cha Tabert năm 1840, đức cha Cuénot Thể tận dụng giai đoạn bình yên thời Thiệu Trị, ngài mở Công đồng Gò Thị (1841) quyết định gửi lại chủng sinh du học Pénang, nhưng về nước mới thụ phong. Ngài cử nhiều thừa sai và Thày giảng đi truyền giáo ở Kontum (Làng Hổ), Ban-Mê-Thuột, nổi bật là thày Sáu Do. Trong giáo phận, ngài tổ chức học hỏi cho các linh mục hàng năm, thi đua truyền giáo giữa các xứ đạo. Với người đã chối đạo, ngài yêu cầu họ mời gọi một tân tòng khác. Số tín hữu gia tăng nhanh.

Năm 1844, tòa thánh tách giáo phận thành hai: Tây Đàng Trong (Saigon) giao cho đức cha Lefèbvre Nghĩa (1844-64) và Đông Đàng Trong (Qui Nhơn) vẫn được đức cha Cuénot Thể phụ trách. Năm 1850 toà thánh chia Đàng Trong thành 4 giáo phận

- Bắc Đàng Trong (Huế), Đc Pellerin Phan (+1862)

- Đông Đàng Trong (Qui Nhơn) Đc. Cuénot Thể.

- Tây Đàng Trong (Saigon) Đc Lefèbvre Nghĩa

- Nam Đàng Trong (Nam Vang) Đc Miche Mịch (+1873)

b/ Khu vực Dòng Đaminh

Đức cha Delgado Y (+1838) cùng với đức cha phó Henares Minh (1803-38) đã tận dụng bối cảnh bình an để tổ chức giáo phận. Đây là thời hoàng kim của dòng Đaminh Việt Nam giai đoạn I, vì trong 38 năm dòng có thêm 66 linh mục (chưa kể 16 vị thế kỷ trước). Cùng với các linh mục triều, giáo phận thường xuyên có trên 50 linh mục để phục vụ. Thế nhưng, Trịnh Quang Khanh chỉ trong ba năm (1838-40), đã phá hủy nhiều công trình, ngoài nhân sự, ba chủng viện và trên 1.000 nhà thờ bị triệt hạ.

Đức cha Hermosilla Liêm (1841-61) được tấn phong cách khá hy hữu tại Vĩnh Trị do đức cha Retord. Ngay sau đó đức cha Liêm tấn phong đức cha Jimeno Lâm làm phụ tá (vị này về Manila năm 1845), ngài họp các linh mục giáo phận, tu sửa các nhà thờ, tu viện; mở trường Latinh Nam Am và trường thần học ở Mỹ Động (Hải Dương). Lễ đại triều kính thánh phụ Đaminh ngài Tổ chức đầu tháng 8-1844 sau sẽ trở thành tập tục “Lễ đầu Dòng” trong giáo phận (vị thủ lãnh dòng ?). Năm 1845 ngài tấn phong đức cha phó Marti Gia (+1852). Năm 1848, Tòa thánh chia khu vực dòng thành hai giáo phận: đức cha Liêm coi giáo phận Đông cùng đức cha phụ tá mới Alcazar Hy (1849-70). giáo phận Trung (Bùi Chu, Thái Bình) do đức cha Marti Gia và đức cha phó kế vị Sanjurjo An (1849-57), rồi đến đức cha Sampedro Xuyên (1855-58) và đức cha Berrio Ochoa Vinh (1858-61) vị giám mục gậy tre mũ giấy (Các giám mục miền truyền giáo Đaminh giai đoạn này đều là Đaminh).

Trước tình hình bách hại ngày càng gay gắt, năm 1858 các thừa sai Đaminh họp lại và chia một nửa lánh tạm qua Macao, những vị này sẽ trở lại Việt Nam ngay khi Tự Đức cho tự do tôn giáo.

Từ 1833 đến 1862, các nhà vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ban hành trên mười chiếu chỉ cấm đạo. Tuy nhiên, số tín hữu vẫn gia tăng từ 320.000 năm 1800 lên 426.000 năm 1855. Vì thế Giáo hội đã tách thành tám giáo phận: Đông-Tây-Trung-Nam “Đàng Ngoài”, Đông-Tây-Nam-Bắc “Đàng Trong”.

Nhiều người đã làm chứng cho Tin Mừng, trong đó Giáo hội đã suy tôn 117 hiển thánh Tử đạo ngày 19-6-1988 do đức Gioan Phaolô II. Thành phần các vị gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 14 thày giảng, 1 chủng sinh và 44 tín hữu.

Sau 1862, các tín hữu tự do hơn, đã chứng tỏ lòng yêu nước của mình. Tiêu biểu có Nguyễn Trường Tộ, Đội Vũ, Mai Lão Bạng, Trương Văn Lĩnh...

Nếu giai đoạn đầu, người Pháp thời Napoléon III có yểm trợ về tài chánh một phần, thì từ năm 1881, Giáo hội Việt Nam nhờ sự hỗ trợ của các cơ quan tôn giáo nước ngoài và nhất là sự quảng đại của các tín hữu đã xây dựng nhiều Thánh đường, trường học, và cơ sở bác ái.

Trên con đường tiến đến trưởng thành của Giáo Hội Việt Nam, tòa Khâm sứ Đông dương được thiết lập từ 1925. Năm 1933, số tín hữu Việt Nam đã lên đến gần 1,3 triệu với 13 giáo phận và 1 Phủ Doãn. Cũng năm 1933, Việt Nam có giám mục tiên khởi là đức cha GB. Nguyễn Bá Tòng.

câu hỏi thảo luận

1- CHỮ QUỐC NGỮ XUẤT HIỆN TỪ BAO GIỜ? AI LÀ NGƯỜI CÓ CÔNG LỚN NHẤT TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHỮ QUỐC NGỮ.

- Chữ Quốc Ngữ ngày nay được Cha Alexandre de Rhodes (Cha Đắc Lộ) cùng một số linh mục dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Việt Nam hoàn thiện, với sự cộng tác âm thầm của một số Thầy giảng Việt Nam vào thế kỷ XVII sáng tạo ra.

- Các ngài dùng mẫu tự La Tinh, rồi đưa vào phần nào chữ Bồ Đào Nha, Ý và mẫu đầu Hy Lạp để làm thành chữ Quốc Ngữ. Trong tập thể các tác giả đó, Cha Đắc Lộ là người có công nhiều nhất, người đã nghiên cứu, sắp đặt lại cho hoàn chỉnh tất cả những thành tựu của những người đi trước và phổ biến rộng rãi các tác phẩm đó.

- Năm 1651 cha hoàn thành cuốn tự điển Việt Bồ La với hai mục đích:

+ Giúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt và để có thể truyền giáo.

+ Cha Đắc Lộ đã làm theo ý muốn của một số Hồng Y ở La Mã thêm chữ La Tinh vào để người Việt Nam có thể học thêm La Ngữ.

- Ban đầu chữ Quốc ngữ được dùng cho tiện trong công việc truyền giáo nhưng lịch sử sui khiến mẫu chữ ấy nay trở thành văn tự chung cho cả dân tộc Việt Nam. Tuy còn một vài khuyết điểm nhưng phải nhận rằng trên hoàn cầu này, không có mẫu chữ nào dễ học biết bằng mẫu chữ ấy.

2- GIÁO HỘI VIỆT NAM CÓ NHỮNG MỐC ĐIỂM LỊCH SỬ QUAN TRỌNG NÀO?

- Thế kỷ XVI Tin mừng đến Việt Nam, một thừa sai tên Inikhu đến giảng đạo tại làng Ninh Cường và Trà lũ thuộc tỉnh Nam Định ngày nay.

- Thế kỷ XVII Các Thừa sai dòng Tên sang truyền giáo. Giáo Hội Việt Nam mở rộng với hơn 100.000 tín hữu.

- 1651 Chữ Quốc ngữ hình thành với sự đóng góp tích cực của các Thừa sai dòng Tên và cha Đắc Lộ (Alexand de Rhodes).

- 09.9.1659 Toà Thánh thiết lập hai Giáo Phận đầu tiên:

+ Đàng trong: Đức Giám Mục Lambert de La Motte.

+ Đàng ngoài: Đức Giám Mục Francois Pallu.

- Tháng 2.1670 Công đồng đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam tổ chức tại Phố Hiến để:

* Phân chia giáo xứ.

* Chọn Thánh Giuse làm bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.

* Đào tạo Chủng sinh.

- Năm 1933 Giáo Hội Việt Nam có vị Giám Mục tiên khởi là Đức Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng.

- Ngày 24.11.1960. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII Thiết lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam.

- Đức Giáo Hoàng Pio XI gọi: Giáo Hôi Việt Nam là Trưởng Nam của Giáo Hội Công Giáo tại Á Đông.

- Ngày 19.6.1988. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II suy tôn Hiển Thánh cho 117 Vị trong số hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam.
Bài 20.

Hiện tình Giáo hội Công giáo
tại Việt Nam

Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay theo thống kê năm 2005 có khoảng hơn 2767 Linh mục, hơn 13.254 nam nữ Tu sĩ, hơn 1.000 chủng sinh, với 6.000.000 Giáo dân trên tổng số hơn 83.000.000 dân, được chia thành 3 giáo tỉnh.

- Giáo tỉnh Hà Nội gồm 10 giáo phận: Tổng giáo phận Hà Nội, giáo phận Hải Phòng, Vinh, Bùi Chu, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Phát Diệm, Thanh Hóa, Thái Bình.

- Giáo tỉnh Huế gồm 6 giáo phận: Tổng giáo phận Huế, giáo phận Quy Nhơn, Kontum, Nha Trang, Đà Nẵng và Buôn Ma Thuột.

- Giáo tỉnh Sàigòn gồm 10 giáo phận: Tổng giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh, giáo phận Vĩnh Long, Cần Thơ, Đà Lạt, Mỹ Tho, Long Xuyên, Phú Cường, Xuân Lộc, Phan Thiết và Bà Rịa.

Các Dòng tu cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển cộng đoàn dân Chúa tại Việt Nam: ngoài các Dòng đến truyền giáo vào giai đoạn đầu tiên như Dòng Tên, Dòng Đaminh, Dòng Phanxico, Hội Thừa sai Balê. Dòng tu đầu tiên ở Việt Nam là Hội Thầy giảng và Dòng nữ Mến Thánh Giá được thành lập năm 1670 ở miền Bắc và năm 1671 ở miền Nam, do Đức Cha Lambert de la Motte.

Các Dòng nam hiện có mặt ở Việt Nam: Dòng Lasan, Dòng Biển Đức, Dòng Xitô, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Salesien Don Bosco, Dòng Tiểu đệ, Dòng Thánh Thể... và một số tu hội.

Các Dòng nữ: Dòng Đaminh, Dòng Thánh Phaolo thành Chartes, Đan viện Cát Minh, Dòng Nữ tử bác ái Thánh Vinh Sơn, Dòng Phan Sinh thừa sai Đức Mẹ, Đan viện Thánh Clara, Dòng Đức Bà, Dòng nữ tu Chúa quan phòng, Dòng Con Đức Mẹ phù hộ... và một số tu hội đời.



III. Hội nhập văn hóa:

Văn hóa Việt Nam như là kết quả của một quá trình lịch sử đặc biệt của cả một chuỗi quá trình phân tán và hội tụ, giao lưu, tiếp biến văn hóa. Văn hóa dân tộc Việt Nam ngày nay là một phức thể văn hóa đa dạng cực kỳ phong phú; Nó vừa có những yếu tố lớn của nền văn hóa truyền thống của các dân tộc Đông Nam Á, vừa có nhiều yếu tố của văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc, đồng thời cũng có những yếu tố văn hóa Tây Phương, nhất là văn hóa Pháp.

Các Cha thừa sai đem Tin Mừng của Chúa Kitô đến Việt Nam đó là niềm vui, nhưng một dân tộc tự hào với “4000 năm văn hiến” việc hội nhập Tin Mừng vào văn hóa Việt Nam không phải đơn giản. Lịch sử Giáo hội Việt Nam là quá trình gặp gỡ và đấu tranh của cuộc hội nhập này.

Thánh Phaolô nêu lên nguyên tắc truyền giáo: “Tôi là người tự do, không lệ thuộc vào ai nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người... Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó để được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (Cr 9,19-23).

. Công đồng Vaticano II dạy: “Để có thể làm chứng về Chúa Kitô một cách hữu hiệu, chính các Kitô hữu phải lấy lòng kính trọng và tình bác ái mà liên kết với những người ấy, phải biết mình là thành phần của nhóm người mình chung sống và tham gia đời sống văn hóa, xã hội qua những giao tiếp và hoạt động khác nhau trong đời sống nhân loại, lại phải làm quen với những truyền thống dân tộc và tôn giáo của những người ấy; phải lấy làm sung sướng và kính cẩn mà khám phá ra những hạt giống lời Chúa đang tiềm ẩn trong họ”.

. Giáo hội căn dặn các nhà truyền giáo: “Giáo hội cấm ngặt không ai được ép buộc hay dùng những mánh lới bất xứng để dụ dỗ hay lôi cuốn người ta theo đạo, cũng như Giáo hội cương quyết đòi cho con người quyền không bị hăm dọa để bỏ đạo vì những bách hại bất công”.



. Các Đức giám mục Việt Nam trong thơ chung 1980 đã chọn "Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc" để đem nhiều người về cho Chúa.

Câu hỏi thảo luận

1. Hội đồng giám mục Việt Nam hiện nay gồm những vị nào?

2. Hãy vẽ sơ đồ tổ chức giáo hội Công giáo Việt Nam?
Каталог: contents haiauresort -> uploads -> file

tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương