Biểu đồ 1. Tỉ lệ chết ở các thí nghiệm
(A.Thí nghiệm 1; B. Thí nghiệm 2; C. Thí nghiệm 3. LT: Tiêm CY liên tục; KLT: tiêm CY không liên tục)
Mô hình suy tuỷ tối ưu
Từ kết quả và từ các phân tích trên, nghiên cứu này xác định chế độ tiêm không liên tục tối ưu hơn chế độ tiêm liên tục.
Để tiến hành xác định mô hình suy tủy tối ưu, cần phải so sánh 3 liều tiêm 200, 250 và 300 mg/kg CY ở cùng chế độ tiêm không liên tục.
Về đặc điểm sinh lí, hình thái: liều CY 250 mg/kg gây biến đổi rõ rệt hơn liều CY 200 mg/kg, nhưng không gây mù. Về trọng lượng, cả ba liều đều gây biến đổi, nhưng rõ rệt nhất ở liều 300 mg/kg. Đối với bạch cầu tổng, cả ba liều đều gây biến thiên mạnh.
Biểu đồ 2. Tỉ lệ chết khi gây suy tủy bằng 40 mg/kg BU kết hợp với một trong ba liều 200, 250, 300 CY
tiêm không liên tục
Tỉ lệ chết ở cả ba liều 200, 250, 300 mg/kg CY ở chế độ tiêm không liên tục, nhìn chung tương đương nhau (67% vào ngày N14). Liều 250 mg/kg chuột có tỉ lệ chết trong khoảng 5 ngày sau khi kết thúc liều gây suy tủy là thấp nhất (17%), so với liều 200 mg/kg (67%) và liều 300 (50%). Chuột chết sớm hơn khoảng 6 - 14 ngày được xem là chết không do suy tủy. [5]
Vậy liều 250 mg/kg với chế độ tiêm không liên tục cho hiệu quả gây suy tuỷ cao nhất vì ít gây chết mạnh trong khoảng 5 ngày sau khi xử lí thuốc.
3.2. Ghép tủy
Kết quả quan sát sinh lí, hình thái: sau khi ghép, lô ghép tủy giảm rụng lông, tăng cân, linh hoạt hơn so với lô suy tủy không ghép, tuy nhiên vẫn có một số bất thường như co giật và u gan (lô 5x10
6 tế bào/con).
Kết quả theo dõi trọng lượng: lô 5x10
6 tế bào/con hồi phục rõ rệt hơn lô 1x10
6 tế bào/con.
Kết quả xác định bạch cầu tổng: hai lô chuột sau khi ghép đều tăng bạch cầu tổng hơn trước khi ghép và tăng so với đối chứng không ghép.
Biểu đồ 3. So sánh tỉ lệ sống sau ghép tủy 15 và 30 ngày ở các lô
Kết quả tỉ lệ sống: Tỉ lệ sống tính đến ngày 15 ở liều ghép 5 x 10
6 tế bào/con (88%) thấp hơn liều ghép 1 x 10
6 tế bào/con (100%). Tỉ lệ sống tính tới ngày 30, liều ghép 5 x 10
6 tế bào/con là 62%. Tỉ lệ sống ở liều ghép 1 x 10
6 tế bào/con giảm còn 88%. Tóm lại liều 1 x 10
6 tế bào/con hiệu quả hơn. Hơn nữa, đối với liều 1 x 10
6 tế bào/con, không ghi nhận được trường hợp chuột chết nào trong khoảng N6 – N14, điều này cho thấy liều ghép này đã cải thiện tình trạng suy tủy cấp hiệu quả (liều ghép 5 x 10
6 tế bào/con có 1 chuột chết vào ngày N9).
Ngoài ra, theo tác giả Milar JL thì tỉ lệ sống của chuột suy tủy đến ngày 30 là 0%, trong nghiên cứu của chúng tôi khi ghép tủy xương tỉ lệ sống đạt từ 62 % (lô 5 x 106 tế bào/con) đến 88% (lô 1 x 106 tế bào/con) đến ngày 30. Như vậy việc ghép tế bào tủy xương giúp phục hồi tình trạng suy tủy trên chuột. Theo Alain Chapel và cs (The Journal of Gene Medicine, 2003), trong cấy ghép tủy xương, vì phân đoạn tế bào đơn nhân được sử dụng cho cấy ghép, nên việc cấy ghép tế bào bao gồm cả 2 phân đoạn: tế bào gốc tạo máu (HSC) và tế bào gốc trung mô (MSC); bên cạnh quần thể tế bào bạch cầu trưởng thành. Vì vậy, tế bào gốc tạo máu trong cơ thể được phục hồi trực tiếp (do sự bổ sung tế bào gốc tạo máu ngoại vi) và gián tiếp (sự điều hòa phát triển của MSC). Dựa vào điểm này, chúng tôi bước đầu kết luận rằng việc ghép tế bào từ tủy xương đã cải thiện được tình trạng suy tủy của chuột và giúp chuột sống sót, trong đó hiệu quả cao nhất là ở lô ghép liều 1 x 106 tế bào/con. Tỉ lệ sống của chuột suy tủy được cải thiện từ 33% lên 88%.
4. KẾT LUẬN
Liều 40 mg/kg BU kết hợp với 250 mg/kg CY ở chế độ tiêm không liên tục là tối ưu nhất để tạo mô hình chuột nhắt suy tủy (tỉ lệ chết 67% và lượng bạch cầu giảm mạnh).
Xét về mặt hồi phục các chỉ tiêu sinh lí, cân nặng, bạch cầu tổng và tỉ lệ sống sau khi ghép, việc ghép tủy xương cải thiện tỉ lệ sống cho chuột suy tủy từ 33 % lên 88%.
Liều ghép tủy 1106 tế bào/con hiệu quả hơn liều ghép tủy 5106 tế bào/con trong giới hạn của nghiên cứu này.