Cẩm nang giáo dục truyền thống lịch sử cho học sinh trung học Lưu hành nội bộ “HIỀn tài là nghuyên khí CỦa quốc gia”



tải về 4.26 Mb.
trang53/60
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích4.26 Mb.
#38011
1   ...   49   50   51   52   53   54   55   56   ...   60

Thương tiếc


Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc. Ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Nguyễn Tri Phương) trên gò Đống Đa với câu đối:

Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa

Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên

Dịch:


Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất

Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc tang[7].



Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối:

Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện

Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm

Dịch:


Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước

Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm

Cụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau:



Tay đã cầm bút lại cầm binh

Muôn dặm giang sơn nặng một minh

Thờ chúa, chúa lo, lo với chúa

Giữ thành, thành mất, mất theo thành

Suối vàng ắt hẳn mài gươm bạc

Lòng đỏ thôi đành gửi sử xanh

Di biểu nay còn sôi chính khí

Khiến người thêm trọng bút khoa danh.

Trích hai đoạn bút ký:



  • Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường:

Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư...

...Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng...Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân...[5]

  • Nhà văn Sơn Nam:

Đi thăm mộ Hoàng Diệu, (nghe) lúc làm quan, có lần ông gửi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gửi trả lại cho con, kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân.


ĐẶNG XUÂN BẢNG

(1828-1910)

Đặng Xuân Bảng và bộ Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu



Đặng Xuân Bảng (1828-1910) quê ở Xuân Trường - Nam Định, đỗ tiến sĩ năm 28 tuổi. Trong thời gian làm quan, ông đã nhiều lần can gián vua, song đáng tiếc nhiều ý kiến vượt trên thời đại của ông không được chú ý. Sau khi về hưu, ông dành gần 20 năm để viết bộ Việt sử cương mục tiết yếu được đánh giá là có nhiều nét đặc sắc so với các bộ lịch sử Việt Nam trước đó.

Mùa xuân năm Mậu Tý (1828) dưới triều Nguyễn Thái Tổ niên hiệu Minh Mạng năm thứ chín ở xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Vợ ông Tú tài Đặng Viết Hòe (vì bảy lần đi thi đều chỉ đỗ tú tài nên còn gọi là Mền Hòe) sinh được người con trai rất khôi ngô, tuấn tú. Ông Mền Hòe ngắm con trai mà lòng dạt dào vui sướng, ông đặt tên con trai là Xuân Bảng, hy vọng con ông lớn lên sẽ làm rạng danh cho dòng họ Đặng bằng con đường khoa bảng. "Nhất định con ta sẽ hơn ta, muốn vậy, ta phải dạy con ta ngay từ sau khi nó tập nói để nó được làm quen với chữ Thánh hiền". Nghĩ sao làm vậy, khi cậu Bảng tập nói, hàng xóm đã thấy cậu bi bô "nhân chi sơ, tính bản thiện..." nên có người cho là một thần đồng. Năm 12 tuổi cậu Bảng đã biết đối và họa thơ với bố rất đúng luật và sâu sắc. Năm 19, cậu Bảng tham gia thi hương khóa Đinh Mùi (1847) đã đỗ tú kép. Ba năm sau (1850) ở khóa thi hương Canh Tuất, Xuân Bảng cùng với bố đi thi, ông Mền Hòe thất vọng vì lại đỗ tú tài lần thứ bảy, thì Xuân Bảng đỗ cử nhân nên đã tự an ủi mình "con hơn cha là nhà có phúc". Tân cử nhân Đặng Xuân Bảng được nhận chức giáo thụ phủ Ninh Giang (Hải Dương). Vừa làm quan lại vừa tự học và quan sát ghi chép để có tài liệu về ngôn ngữ, phong tục, tập quán của các địa phương. Năm 1856, ông lặn lội vào Huế thi Đình khóa thi Bính Tuất đỗ Nhị giáp Tiến sĩ, đáng lẽ đỗ Tam giáp nếu bài thi của ông không có đôi điều can gián vua bỏ thú ham săn bắn để tập trung vào việc nước trước nguy cơ Pháp có thể xâm lược nước ta. Tài học cao hiểu rộng của Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng đã lọt đến tai vua Tự Đức nên năm 1857, vua đã triệu ông vào kinh đô Huế phong chức bí thư Văn phòng Nội các với nhiệm vụ nặng nề là duyệt bộ sách "Khâm định nhân sự kim giám". Ông làm công việc này ròng rã hai năm mới xong. Vua Tự Đức đọc những ý kiến đóng góp của ông rất hài lòng nên ban thưởng ngay cho ông chức tri phủ Thọ Xuân (Thanh Hóa) sau lại điều lên Tuyên Quang làm tri phủ Yên Bình là nơi núi rừng hiểm trở, bọn thổ phỉ thường xuyên quấy nhiễu. Sau một thời gian ông cai quản Yên Bình đã trở về đúng cái tên gọi của nó thì ông lại được vua gọi vào Huế trao cho chức Giám sát ngự sử (1862) chức quan có nhiệm vụ ngăn vua, giám sát và hạch tội các quan trong triều. Ngoài nhiệm vụ trọng đại trên ông được phép tham gia để bàn bạc các vấn đề về hành chính, tài chính, sử dụng quan lại. ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp có chất lượng cao, trong đó không ít ý kiến của ông đã vượt thời đại. Đó là: không nên cử Phan Thanh Giản đem vàng bạc, châu báu để chuộc lại sáu tỉnh Nam Kỳ. Việc này Tự Đức bác bỏ. Kết quả vàng bạc thì Pháp vui vẻ nhận nhưng đất đai của sáu tỉnh thì không trả. Thế là ta mất cả chì lẫn chài! Ông lại tâu với vua cho mở mang công thương nghiệp, khuyến khích dùng hàng nội, không dùng hàng ngoại để ban thưởng. Việc sử dụng quan lại: Mỗi khi cất nhắc hay tuyển chọn quan dù là dân chính hay binh chính đều phải dựa vào tiêu chuẩn và công trạng rõ ràng, không chỉ dựa vào việc tâu trình của quan đầu tỉnh hay của các bộ mà xem xét được.

Đặc biệt quan hệ với thực dân Pháp ông tâu:

- Theo thần, ta nên mở mang thông thương với nhiều nước, Pháp đã chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ thì thế nào chúng cũng nhòm ngó Bắc Kỳ. Nếu ta quan hệ với nhiều nước thì Pháp không có khả năng ép ta được. Trái lại, các nước sẽ cùng đua nhau đổ của vào làm lợi cho ta.

Tiếc thay, lời tâu chí lý này đã bị Tự Đức bác bỏ với lời phán lạnh lùng:

- Giao thiệp với một nước còn chưa xong, huống chi là nhiều nước.

Bên cạnh ta, nước Xiêm La (Thailand) đã mở cửa cho nhiều nước cùng vào nên họ không bị nước nào chèn ép, họ đã nhanh chóng tiếp thu các tiến bộ khoa học Âu-Mỹ nên đã hòa nhập được với thế giới văn minh mà dân tộc họ đã không bị hòa tan! Năm ất Sửu (1867) ở tỉnh Quảng Yên bọn hải tặc hoành hành khiến cho dân tình điêu đứng, quan lại thì bất lực. Ông lại được điều đến với chức Quan án sát để giúp dân dẹp giặc. Sau khi Quảng Yên yên vui, ông lại được điều về Hà Nội rồi lại đi Sơn Tây. Năm 1872, ở tuổi 44 ông Xuân Bảng được thăng chức Tuần phủ tỉnh Hưng Yên, sau lại làm Tuần phủ tỉnh Hải Dương. Năm 1874, Pháp mang quân xâm chiếm Hải Dương, quân ta thua trận, ông Xuân Bảng bị bãi chức Tuần phủ và triệu về kinh hậu xét. Năm 1876, ông bị giáng chức tuần phủ phái đi khai hoang ở Đồn Vàng, Hưng Hóa (Phú Thọ) và Bất Bạt (Sơn Tây) khi đi khai hoang ông cho gia nhân gánh theo mấy bồ sách và các tài liệu ông đã bỏ công ghi chép hàng ngày để nghiền ngẫm và bổ sung cho công việc viết sử sau này. Hai năm sau (1878), công việc vua giao cho đã hoàn tất, ông xin nghỉ hưu. Năm 1882, Tự Đức thấy việc bãi chức ông Đặng Xuân Bảng là vô lý nên lại phục chức cho ông. Nếu từ chối chức vụ cũ thì làm vua phật ý mà nhận lại chức thì không còn trí lực như xưa, nên ông Đặng Xuân Bảng xin nhà vua cho nhận chức Đốc học tỉnh Nam Định để hợp sức tuổi già và có điều kiện chăm sóc mẹ. Năm Mậu Tý (1888) khi vừa tròn 60 tuổi cụ Đặng Xuân Bảng xin nghỉ hưu lần thứ hai.


Mặc dù có thời gian và tài liệu đã được ghi chép và tích lũy ngót 40 năm nhưng cũng phải mất gần 20 năm Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng mới viết xong bộ "Việt sử cương mục tiết yếu" gồm tám quyển 1.200 trang.


"Đây là bộ thông sử duy nhất ở nước ta có ghi chú các sự kiện lịch sử từ thời Hùng Vương đến hết triều Tây Sơn (1802) có kèm theo các phần "án", chú, bình, khảo,... là những công trình khảo chứng lịch sử lớn nhỏ của tác giả và nhiều sử gia khác. Vì thế, nó có nhiều nét đặc sắc so với các bộ sử truyền thống khác. Tác giả đã tham khảo nhiều nguồn tư liệu trong và ngoài nước, phân tích, tổng hợp vấn đề, chú ý tìm nguyên nhân của những thiếu sót để tiến hành phê phán, nên những vấn đề khảo chứng có sức thuyết phục" (Luận án Tiến sĩ của Hoàng Văn Lâu - Viện nghiên cứu Hán Nôm), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 2-1997).


Sinh cùng thời với cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835-1909), cụ Nguyễn Khuyến từ quan để về câu cá, làm ruộng, làm thơ,... chỉ có "năm gian nhà cỏ thấp le te, ngõ tối đêm sâu đóm lập lòẹ.." đời sống đạm bạc "đầu trò tiếp khách trầu không có" thì cụ Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng hai lần về hưu với hai bàn tay trắng. "Cụ về xã Văn Lâm lập ấp, đặt tên là Tả Thành Thiện cụ nói với con cháu: "Bởi cả đời ta đi làm quan nên không có của cải để lại, may còn mảnh đất này của ông cha, các con lo cày cấy lấy cái ăn. Quê ta nhiều thế gia cự lộc quen sống xa hoa, đừng bắt chước họ, hãy lập nghề nông cho quen khó nhọc...".


Sau khi bộ sử gồm tám quyển với 1.200 trang viết tay, viết xong thì được người bạn chí cốt là Cao Xuân Dục tặng 20 lạng vàng để cụ Đặng Xuân Bảng thuê in ấn lưu lại cho muôn đời. [...]



TRẦN BÍCH

(1840-1877)

Khi Trần Bích San (1840 - 1877) đỗ đầu liền ba kỳ thi, cha ông không vui mà tỏ ý lo lắng con sớm đỗ cao mà sinh ra kiêu ngạo. Có thể nói, những thành công trên con đường học hành và làm quan của Tam nguyên Trần Bích San đều có dấu ấn của cha ông, một nhà giáo uy tín và đức độ.

Ngôi nhà số 7, phố Bến Ngự là Cổ Mai trang, nơi sinh thành vị Tam nguyên Trần Bích San (1840 - 1877), niềm tự hào của vùng Vị Xuyên, ba kỳ thi liền đều đỗ đầu bảng. Tên hiệu của ông là Mai Nham, tên tự là Vọng Nghi. Khi đỗ Tam nguyên, vua Tự Đức đổi tên cho ông là Hy Tăng, với hy vọng ông giống như Tể tướng Vương Tăng đời Tống bên Trung Quốc, cũng đỗ Tam nguyên.

Từ nhỏ, Trần Bích San nổi tiếng là người thông minh, nhanh nhẹn, có tư duy độc lập. Khi học Tam tự kinh, để thử trí đối đáp của con, ông Trần Doãn Đạt ra một vế đối ngắn. Người đọc: Thiên thượng. Nghĩa là: Trời ở trên. Tưởng con sẽ đối: Địa hạ. Nghĩa là: Đất ở dưới. Nhưng Trần Bích San lại ứng khẩu: Nhân trung. Nghĩa là: Người ở giữa. Về đối rất chỉnh và hay. Cậu nói: Nếu đối là: Địa hạ thì thường quá, trò nào cũng đối được. Để răn dạy con có đức tính tự trọng và có ý chí từ nhỏ, cha ông, một nhà giáo có uy tín và đức độ, đã uốn nắn Trần Bích San từng nét chữ, từng bước đi. Tại lớp học của ông có dán câu đối lớn:



Trí thân trực dục cao thiên nhận;

Xử thế tu đương hạ nhất tằng.

(Lập thân những muốn cao nghìn trượng;

Xử thế mình nên hạ một tầng.)

Đấy là phương châm tu thân, xử thế cho mình và cả cho con của ông. Trần Bích San có nhiều may mắn là được người cha trực tiếp dạy dỗ. Trong thời gian ông theo học lại đúng lúc đất nước bị thực dân Pháp xâm lăng. Triều đình nhà Nguyễn buộc phải nhượng một nửa Nam Kỳ cho Pháp. Trần Bích San hiểu thấu lời dạy của cha: "Yêu nước không chỉ có dũng, mà cần có mưu trí và sự hiểu biết uyên thâm". Từ đó, Trần Bích San kiên trì dùi mài kinh sử, và Trần Bích San đã đỗ luôn cả Hội nguyên và Đình nguyên, được ban tuyển vinh quy Liên trúng Tam nguyên. Thành tựu khoa cử của Trần Bích San làm nức lòng mọi người.


Tin Trần Bích San mới hai mươi sáu tuổi Liên trúng Tam nguyên, bà con láng giềng, thân thích kéo tới chúc mừng cụ Trần Doãn Đạt, nhưng vẻ mặt của cụ lại rầu rầu, không vui, như có điều gì lo lắng. Mãi sau, mọi người mới rõ: Cụ sợ con đỗ cao nảy sinh kiêu ngạo, liền gửi thư cho con, trong đó có hai câu răn:



Có kiến thức không khó, khó là phải hiểu biết đến nơi,

Không danh vọng không đáng lo, chỉ lo tiếng tăm phù phiếm.

Nhớ lời răn dạy đó, suốt những năm làm quan, Trần Bích San lúc nào cũng trau dồi kiến thức, sát dân, không háo danh, luôn luôn làm tròn bổn phận của người làm quan. Ông không ngần ngại vạch trần tình trạng tệ hại trong quan trường, mạnh dạn kiến nghị với triều đình coi trọng việc "lấy lòng thành đối với dân chúng làm căn bản", kiểm tra kỹ lưỡng hàng ngũ quan lại, biểu dương khuyến khích người tốt, bãi bỏ kẻ thiếu đức hạnh. Lập hệ thống Thái phỏng sứ (như thanh tra) để giữ vững kỷ cương trong hàng ngũ quan lại. Để có được nhiều hiền tài, ông kiến nghị ba giải pháp căn bản: Thứ nhất, coi trọng giáo chức, chọn lựa những người tài đức song toàn, cấp lương bổng thỏa đáng để họ khỏi có tâm lý bỏ nghề. Thứ hai, tuyển chọn người tài không nên chỉ đơn thuần dựa vào kết quả thi cử văn từ suông, mà phải kết hợp với việc thường xuyên tiến cử từ cơ sở lên theo tiêu chuẩn và cách thức thống nhất. Thứ nữa, định ra phép "thuyên tuyển" (giống như công tác tổ chức cán bộ hiện nay) và cử những người thật có phẩm cách và công tâm đảm nhiệm. Những ý kiến của Tam nguyên Trần Bích San được vua Tự Đức chấp thuận giao cho đình thần nghiên cứu, tham khảo thực hiện. Khi làm tri phủ ở Thăng Bình, Điện Bàn, Quảng Nam, ông thẳng tay bắt giữ hai tên cố đạo Tây vi phạm luật lệ của triều đình. Súy phủ Pháp ở Nam Kỳ can thiệp bắt vạ ông, Tự Đức buộc phải giáng ông hai cấp. Mùa thu năm 1877, ông được triệu về Huế thăng làm Tham tri bộ Lễ và dẫn đầu sứ bộ sang Pháp. Chuẩn bị lên đường thì đêm 8-11 (tức ngày 27-9 âm lịch), Trần Bích San đột ngột từ trần. Vua Tự Đức chỉ thị việc tang lễ, còn làm thơ viếng, làm văn tế ông. Trong đó có câu:



Danh tiếng Tam nguyên chỉ còn lưu trên giấy tàn,

Mưa gió một đêm rụng bông mai sớm.

LÊ NGÔ CÁT – NGƯỜI VIẾT SỬ BẰNG THƠ


Lê Ngô Cát là tác giả đầu tiên của cuốn Đại Nam quốc sử diễn ca (ĐNQSDC), cuốn lịch sử bằng thơ. Tuy chỉ là một bài vè minh họa cho các sự kiện lịch sử nhưng sự phóng khoáng của trí tưởng tượng, tài năng và mỹ cảm của người viết đã làm cho ĐNQSDC có sức hấp dẫn đặc biệt.

Cách đây đúng 125 năm, một viên quan cũ của nhà Nguyễn đã từ trần ở vùng biên cương (Cao Bằng) như một người làm vườn bình dị. Đó là Lê Ngô Cát, tác giả đầu tiên của cuốn Đại Nam quốc sử diễn ca (ĐNQSDC), một cuốn lịch sử bằng thơ.



Bài ca nồng nhiệt về lịch sử dân tộc

Trong các cuộc tìm kiếm sách cũ ở Bắc Kỳ thời Vua Tự Đức (1847-1883), một người học trò ở Bắc Ninh không rõ họ tên đã dâng nộp một cuốn sách cổ mà nội dung là diễn ca lịch sử dân tộc bằng chữ Nôm. Vua mới chọn một viên quan ở Quốc Sử Quán (QSQ) tên là Lê Ngô Cát biên soạn lại cuốn sách này và cuốn ĐNQSDC đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy.

So với Đại Việt sử ký toàn thư là pho sử lớn nhất của nước ta thì ĐNQSDC chỉ là một bài vè minh họa cho các sự kiện lịch sử đã được nhắc đến trong pho sử này. Nhưng sự phóng khoáng của trí tưởng tượng và sự lộng lẫy của hình ảnh trong lời văn làm ĐNQSDC vẫn có một sự hấp dẫn đặc biệt. ở đây lịch sử được kể lại một lần nữa qua tài năng và mỹ cảm của người viết, lúc rủ rỉ thiết tha như lời truyền dạy bên đống lửa, lúc ngân nga như câu hát đồng dao... Qua đó Lê Ngô Cát tiếp tục phủ thêm một mầu sắc huyền thoại vào lịch sử chính thống, nhưng đồng thời làm cho các nhân vật và các sự kiện từ thời Đinh - Lê trở về trước trở nên sáng tỏ và sống động:

Ngàn Tây nổi áng phong trần

ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên

Đó là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng

Và nữa:

Vú dài ba thước vắt lưng

Cưỡi voi lộng lẫy bên rừng trổ ra

Đó là hình ảnh Bà Triệu. Văn chương phóng khoáng khó ai bì kịp. Đến cảnh chị em Trưng Trắc thất trận hay Triệu Thị Trinh tuẫn tiết lời lẽ cảm động đau xót mà vẫn tỏ rõ khí phách:

Trưng Vương vắng mặt còn ai

Đi về thay đổi mặc người Hán Quan



Đằng sau khúc ca ấy...

Đọc ĐNQSDC thì được biết Lê Ngô Cát là người có nhiều tâm sự trước thời vận, lại biết ông có cốt cách phóng khoáng của một thi nhân hơn là chính kiến của một sử quan. Thế nhưng giai thoại lại kể về ông như một sử quan bị thất sủng có đầu óc khôi hài và hơi ngỗ nghịch. Ông người làng Hương Lang (huyện Chương Đức thuộc tỉnh Hà Nội cũ), chỉ đỗ đến cử nhân. Sách của họ Lê làm ra chưa hề được in ấn. Vả lại Vua Tự Đức lúc đó đang bận làm mấy quyển Việt sử nên không để mắt đến công trình này. Chuyện kể rằng Vua có xem sách của họ Lê dâng lên, đọc đến đoạn Triệu Thị cưỡi voi đánh giặc thì lấy làm mếch lòng mới phê rằng: "Như thế thì hèn cho đàn ông nước Nam lắm!". Họ Lê không dám nói gì. Đến câu: Vú dài ba thước vắt lưng thì Vua nổi giận thật sự, họ Lê sợ tội mới khéo chữa thành câu thơ vô vị này: Phất phơ dải yếm vắt lưng. Chuyện còn kể thêm rằng sau bấy nhiêu lỗi, họ Lê chỉ được Vua thưởng cho một tấm lụa và hai đồng bạc, ra đến cửa thành ông mới bỡn lại Vua bằng hai câu ca thế này:

Vua khen thằng Cát có tài

Ban cho cái khố với hai đồng tiền

Có lẽ ông buồn vì tinh thần của ĐNQSDC không được biết đến và trọng dụng để chấn hưng cho sự nghiệp nước nhà lúc ấy đang suy. Và cũng sau tiếng cười ra nước mắt ấy, họ Lê biến mất khỏi bầu trời văn học Việt Nam và hình như không còn để thêm một dấu ấn gì khác nữa. Và cũng từ đó cuốn ĐNQSDC chuyển vào tay Phạm Đình Toái - một viên quan mê thơ lục bát và càng về già càng tán dương thể loại này một cách nhiệt liệt. Và cũng nhờ đầu óc thực tế của ông quan này mà cuốn sách đã được in ra. Nhưng ĐNQSDC đã chịu sự sửa chữa của ông, chỉ còn lại 1.027 câu so với 1.887 câu lúc đầu. Tuy nhiên những cố gắng in ấn của họ Phạm đã gặp nhiều khó khăn. Năm 1886, trong một bức thư để lại, ông thở dài mà viết: "Nay bản khắc ấy (bản khắc cuốn ĐNQSDC) đã lọt vào tay một nhà buôn ở Nghệ An". Nhưng ông không biết rằng 16 năm trước đó (1875) nhờ học giả Trương Vĩnh Ký, ĐNQSDC đã được phổ biến rộng bằng bản in chữ quốc ngữ và đã được đón chào nồng nhiệt.

Suy nghĩ về một cách tiếp cận lịch sử

ĐNQSDC đã vượt qua giá trị của một bài vè dễ thuộc dễ nhớ để trở thành một cách tiếp cận và phổ biến lịch sử mà ngày nay chúng ta phải trân trọng giữ gìn và tiếp nối (tất nhiên cũng như các quyển sử cũ khác, những hạn chế về tư tưởng của nó là rất khó tránh khỏi). Bởi lịch sử dân tộc xét cho cùng là lịch sử con người của dân tộc đó, họ vừa là chủ nhân của sự kiện, vừa tồn tại như những con người cụ thể với một tâm hồn, một tính cách. Và những mẩu chuyện nhỏ hay những bài ca giản dị và hùng tráng về những con người ấy lập tức được mọi người đọc hiểu, thuộc lòng và hát lên trong cuộc sống cộng đồng.

Vì vậy ĐNQSDC sống mãi và trở thành ký ức của mọi người ngay từ thời ấu học. Đó chính là tình cảm của người Việt Nam với các thế hệ tổ tiên mình, với lịch sử dân tộc mình, và với cả tác giả của cuốn giảng sử độc đáo ấy: Lê Ngô Cát.
NGUYỄN KHUYẾN

(1835-1909)

Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến lúc nhỏ tên là Thắng, sinh năm Ất Mùi (1835) ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Thủa nhỏ chăm học. Năm 17 tuổi, ông đi thi cùng một khóa với cha, nhưng bị hỏng. Sau đó cha mất, nhà nghèo, Nguyễn Khuyến phải đi dạy học để kiếm sống và nuôi mẹ. Ông nghè Vũ Văn Lí, học trò cũ của ông bác Nguyễn Khuyến thương tình cảnh của Nguyễn Khuyến, đem về nuôi cho ăn học tiếp.


Năm 1864, Nguyễn Khuyến thi hương đậu giải nguyên (đậu đầu); năm sau thi hội bị hỏng, ông vào kinh theo học trường Quốc Tử Giám. Năm 1871, ông thi lại lần nữa và đỗ liền cả Hội nguyên và Đình nguyên. Nguyễn Khuyến đậu đầu cả ba kỳ nên người ta thường gọi ông là ông Tam nguyên hay Tam nguyên Yên Đỗ.


Ông Tam nguyên Yên Đỗ đã từng làm ở nội các Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, rồi Biện lí bộ Hộ,... Thời gian Nguyễn Khuyến ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và đang đánh ra miền Bắc.


Cuối năm 1883, Nguyễn Khuyến được cử làm quyền Tổng đốc Sơn Tây thay cho Tổng đốc Nguyễn Đình Nhuận đã bỏ Sơn Tây lên Hưng Hóa chống thực dân Pháp, nhưng Nguyễn Khuyến từ chốị Sau đó Hoàng Cao Khải Kinh lược sứ Bắc Kì mời ông đến nhà dạy học, rồi Lê Hoan - Tuần phủ Hưng Yên tổ chức thu vịnh Kiều cũng mời ông làm giám khảọ Hoàng Cao Khải, Lê Hoan là những kẻ cộng tác với thực dân Pháp. Từ chối lời mời của họ ông biết sẽ sinh chuyện lôi thôi nên đành miễn cưỡng nhận lờị


Nguyễn Khuyến làm quan tất cả hơn 10 năm, rồi từ quan về nhà. Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở thôn quệ Ông mất năm 1909, thọ 75 tuổị.


TRƯƠNG VĨNH KÝ

(1837-1898)

Trương Vĩnh Ký đọc và nói giỏi 15 ngôn ngữ phương Tây và 11 ngôn ngữ phương Đông, được giới học thuật xếp vào danh sách 18 nhà bác ...



Pétrus Trương Vĩnh Ký (張永記, 18371898), tên hồi nhỏ là Trương Chánh Ký, sau này đổi tên đệm thành Trương Vĩnh Ký, hiệu Sĩ Tải (士載); là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học, và khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam.

Ông có tri thức uyên bác, am tường và có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, nên được tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp, được ghi tên trong Bách khoa Tự điển Larousse, và đứng vào vị trí "toàn cầu bác học thập bát quân tử" tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới thế kỷ 19[cần dẫn nguồn]. Ngoài ra, vì biết và sử dụng thông thạo 27 ngoại ngữ, nên ông trở thành nhà bác học biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam, và đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới [1].

Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật, ... Riêng đối với nền báo chí Quốc ngữ Việt Nam, ông được coi là "ông tổ nghề báo Việt Nam", người đặt nền móng, bởi ông chính là người sáng lập, là Tổng biên tập tờ báo quốc ngữ đầu tiên: Gia Định báo



tải về 4.26 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   49   50   51   52   53   54   55   56   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương