Cẩm nang giáo dục truyền thống lịch sử cho học sinh trung học Lưu hành nội bộ “HIỀn tài là nghuyên khí CỦa quốc gia”


Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên) (còn gọi là Cao Nỗ



tải về 4.26 Mb.
trang2/60
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích4.26 Mb.
#38011
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   60

CAO LỖ


Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên) (còn gọi là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ[1], Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.

Cao Lỗ là một anh hùng sáng tạo văn hóa, là biểu tượng của trí tuệ, sức mạnh Việt Nam ngay từ buổi đầu dựng nước, dựng đô.

Tại kì họp ngày 5 tháng 8 năm 2005, Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định lấy tên ông để đặt tên cho một con đường ở trung tâm huyện Đông Anh[2]

Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ liên châu (nỏ thần): bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.

Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn (góc đông bắc ngoài thành nội).

Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ.

Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc, chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy nội và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.



Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương VươngMỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi tìm nơi ở ẩn.

Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.



  • Có thuyết[3] cho rằng cái tên Cao Lỗ không phải là họ Cao, mà do gắn với đá thạch, núi đá, rằng Cao Lỗ là một vị thần địa phương - thần Đá - đã được thu phục trong quá trình tiến xuống miền đồng bằng của An Dương Vương, và trở thành một vị tướng của nhà vua. Khi chết, ông trở thành thần bảo hộ cho vùng Việt Trì, Bạch Hạc.

Nhà Trần đã sắc phong cho ông là “Quả nghị Cương chính Uy huệ Chính thần Đại vương”.

  • Theo GS. Cao Thế Dung [4],

"họ Cao ở Nghệ An, theo thể phả, thủy tổ là ông Cao Lỗ, gốc Ngòi Sảo, Bắc Ninh, người đã chế tạo ra nỏ liễn mà Triệu Đà gọi là nỏ thần. Họ Cao di ra Thăng Long rồi từ Thăng Long vào Nghệ An, sau một hệ trở ra Sơn Nam (Nam Định) định cư tại đây.

"Thám Hoa Cao Quýnh đậu Tiến sĩ (cập đệ, đệ tam danh) triều Lê Thánh Tông là hậu duệ của Thủy tổ Cao Lỗ"



  • Theo dân gian, khi bị thương nặng ở cổ, tướng quân Cao Lỗ đã buộc lại và thúc ngựa chạy tới Ái Mộ (xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm) nghỉ một lát rồi lại chạy tiếp về vùng Bình Than, Lục Đầu được ít lâu sau thì mất.

  • Tại Ái Mộ (xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, tại xã Quảng An (huyện Từ Liêm, Hà Nội), Bắc Ninh, Bình Than, Nghệ An và nhiều vùng khác đều có đền thờ tướng quân Cao Lỗ. Tại thành phố Hồ Chí Minh cũng có đền thờ Cao Lỗ ở trong chùa Giác Hạnh tại địa chỉ số nhà 51 đường Ông Ích Khiêm Thuộc quận 11.



TRƯNG NỮ VƯƠNG - HAI BÀ TRƯNG

Năm Giáp Ngọ (34) là năm Kiến Võ thứ 10, vua Quang Vũ sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược, thường sử dụng những thủ đoạn chính trị tàn ác, nên bị người Giao Chỉ rất oán giận.


Hai Bà Trưng là con gái của một lạc tướng huyện Mê Linh(làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên), một trong 12 huyện của quận Giao Chỉ. Hai Bà thuộc giòng giõi Vua Hùng, mẹ Hai Bà là bà Man Thiện Trần Thị Ðoan. Chồng bà Man Thiện mất sớm, bà ở vậy trồng dâu nuôi tằm, chăm lo nuôi dạy hai con gái và cho con học võ nghệ với ông Ðỗ Năng Tế (khi Hai Bà phất cờ khởi nghĩa, ông thầy dạy võ nầy trở thành vị tướng đắc lực của Hai Bà).

Dưới thời Ðông Hán, chánh sách đồng hóa vô cùng khốc liệt xuyên vào các đơn vị làng kẻ của người Việt. Chính quyền cho mở các trường dạy chữ Hán để dùng người địa phương làm tay sai. Từng lớp trí thức và một số người Việt đã bắt đầu tiếp thu văn hóa Hán và học đòi lễ nghi, cung cách ứng xử của người Hán. Nhưng cũng có các trí thức yêu nước nhân cơ hội nầy mở các lớp học bên ngoài dạy chữ Hán nhưng bên trong truyền bá lòng yêu nước trong giới trẻ. Bà Man Thiện hết lòng khuyến khích con gái nhân dịp nầy cố gắng giao thiệp rộng, tiếp xúc với các lạc hầu, lạc tướng chung quanh vùng hầu chuẩn bị cho việc khởi nghĩa sau nầy.

Năm 19 tuổi Bà Trưng Trắc về làm vợ ông Thi Sách, một lạc tướng huyện Chu Diên (phủ Vĩnh Tường, trước thuộc về Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên). Sự kết hôn giữa hai gia đình danh giá của hai huyện Mê Linh và Chu Diên tạo ra uy danh lớn trong quận Giao Chỉ. Ông Thi Sách và Bà Trưng Trắc đã hiệp lực vạch ra sách lược khởi nghĩa chống quân cai trị nhà Hán giành lại độc lập và bảo vệ nòi giống Việt.


Ông bà đã bí mật hình thành một tổ chức có tên là Núi Tản - Sông Cái. Tổ chức được đa số nhân dân các quận ủng hộ. Ðể tránh sự dòm ngó của Tàu, người trong tổ chức truyền nhau mật lệnh và các dấu hiệu để nhận nhau. Khi ra đường họ nhận nhau bằng cách chào quyết tâm, bốn ngón tay của bàn tay trái nắm lấy lóng thứ nhất ngón cái của bàn tay trái và để ngón cái bàn tay phải lên lóng thứ hai của ngón cái bàn tay trái, ba ngón kia để xen kẽ giữa các ngón tay của bàn tay trái và ngón út bàn tay phải nằm trên ngón út bàn tay trái. Trong nhà họ nhận nhau bằng tấm khăn điều phủ lên giá gương hay trên bài vị

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng

Tổ chức bí mật nầy dần dà mở rộng khắp các quận trên đất Việt. Ðâu đâu người dân cũng đều đợi chờ ngày khởi nghĩa để giải phóng dân tộc ra khỏi lầm than và nô lệ. Nhưng chẳng bao lâu, tổ chức bí mật Núi Tản Sông Cái bị bại lộ, ông Thi Sách bị Tô Ðịnh bắt giết. Tin buồn chấn động khắp các châu quận làm dân chúng càng thêm căm hận.

Hai Bà cố nén đau thương cùng cực, nắm lấy cơ hội phát động ngay cuộc khởi nghĩa và lập Đàn Thề tại vùng sông Hát (Hát Môn, Phúc Lộc , tỉnh Sơn Tây) chiêu tập binh sĩ ... thấy nếu cứ để các nơi đơn độc chống đỡ với kẻ thù, không có sự liên kết với nhau, thì kẻ thù sẽ lần luột tiêu diệt từng nơi, như bẻ từng chiếc đũa. Thấy rõ nguy cơ đó, Hai Bà Trưng đã truyền hịch cứu nước và cử người đi khắp nơi để tập hợp lực lượng dưới ngọn cờ chỉ huy thống nhất của Trưng Nữ Vương. Các nơi đã nhiệt liệt hưởng ứng, kéo quân hoặc cử đại biểu về Mê Linh tụ nghĩa.


Mùa xuân năm Canh Tý (3-40), Trưng Nữ Vương hội quân ở Hát Môn làm lễ tế cờ chính thức phát động nhân dân cả nước khởi nghĩa đuổi giặc Hán, lật đổ ách thống trị của ngoại tộc. Nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy dưới cờ lệnh của Trưng Nữ Vương.

Trưng Trắc ra lệnh nổi trống đồng họp binh quyết trả thù cho chồng, rửa nhục cho nước. Nghe tiếng trống ầm ào nổi lên, dân Mê Linh cung nỏ, dao búa, khiên mộc, giáo lao trong tay cuồn cuộn đổ về nhà làng. Trên bành voi cao, nữ chủ tướng Mê Linh mặc giáp phục rực rỡ. Dân Mê Linh trông thấy nữ chủ tướng đẹp đẽ, oai phong lẫm liệt thì hò reo dậy đất, ào ào bám chân voi, theo chủ tướng mà xốc tới. Trước khí thế ngút trời của đoàn quân khởi nghĩa, toà đô úy trị của nhà Hán trên đất Mê Linh phút chốc đã tan tành.

Sức mạnh đại đoàn kết của dân ta được nhân lên gấp bội, khí thế ngút trời, như triều dâng thác đổ, làm cho kẻ thù không kịp chống đỡ, chỉ trong một thời gian ngắn, 65 thành trì đã lần lượt về tay nghĩa quân, chỉ còn thành Luy Lâu, sào huyệt cuối cùng của Tô Ðịnh ...

Quân dân ta đạp bằng dinh lũy giặc tiến xuống Luy Lâu. Trong khi đoàn quân trẩy đi phá quận Giao Chỉ của nhà Hán, ngày càng có thêm nhiều đoàn quân từ các nơi đổ về. Thành Luy Lâu cũng không đương nổi cuộc công phá của một biển người ào ào xung sát, dũng mãnh theo hiệu trống đồng của Trưng Trắc, Trưng Nhị. cuối cùng cũng bị phá vỡ trước sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân ta, Tô Ðịnh kinh hoàng đến nỗi phải bỏ giáp, cắt râu, cắt tóc và quẳng cả ấn tín tìm đường lẩn trốn về nước ... mới thoát chết về chịu tội với vua Hán.

Tin thắng trận dồn dập bay đi. Nỗi vui mừng quá lớn khiến cho người dân Việt nhiều đêm liền không ngủ. Trải qua hàng chục đời, nay đất nước của vua Hùng mới được khôi phục, nợ nước thù nhà của chủ tướng Mê Linh đã được trả. Trai gái rìu đồng, giáo sắc nắm chắc trong tay, những chiếc lông chim cắm ngất ngưởng trên đầu, bộ áo lông chim xòe rộng theo nhịp trống đồng dồn dập như không bao giờ dứt. Tin thắng trận bay đi. Các quận Nam Hải (đảo Hải nam ngày nay), Cửu Chân (Bắc Việt ngày nay), Nhật Nam (Trung Việt ngày nay) , Hợp Phố (Quảng Đông ngày nay) cũng nổi lên theo về với Hai Bà Trưng.

Ðất nước sạch bóng quân thù, cả nước suy tôn Trưng Trắc lên là Trưng Nữ Vương đóng đô ở Mê Linh. Trưng Nữ Vương ra lệnh miễn thuế khóa cho dân hai năm.

Năm Tân Sửu (41) vua Quang Vũ sai Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm Phó tướng quân cùng với quan Lâu thuyền tướng quân là Đoàn Chí sang đánh Trưng Vương.

Mã Viện là một danh tướng khét tiêng của nhà Đông Hán, lúc bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, nhưng vẫn còn mạnh, đem hơn 20 vạn quân đi men bờ bể phá rừng đào núi làm đường sang đến Lãng Bạc, Trưng Nữ Vương và các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng đã đưa quân ra chống giặc từ biên giới, ...

Đánh mãi không thắng ... Mã Viện xin tăng cường thêm quân rồi tiếp tục kéo binh xâm lược ... quân ta đã anh dũng chiến đấu, các trận chiến ác liệt đã diễn ra ở Lãng Bạc, Ðông Triều, Yên Phong, Hà Bắc, ... trước thế giặc quá đông và hung hãn, hai Bà đã thu quân rút về giữ ở Cấm Khê (Thạch Thất - Quốc Oai) để tử thủ. Hàng vạn người Việt đã ngã xuống trong các trận chiến đấu ác liệt để bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của mình.


Sau một thời gian dài cầm cự ... trước thế giặc quá mạnh và đông, Trưng Nữ Vương phải bỏ Cấm Khê lui quân về đến Hát Giang ( xã Hát Môn, huyện Phúc Lộc (nay là huyện Phúc Thọ), tỉnh Sơn Tây), ... nơi đây vì quân ít, ... đến thế bức quá, sau khi đã bắn hết cả tên nỏ ... hai vị anh thư không muốn rơi vào tay quân địch bèn gieo mình xuống sông Hát (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng Hà) tự tận, chớ không thèm đầu hàng giặc,.. các nữ tướng theo bà bấy lâu đều tự vận theo ... Bấy giờ là ngày mồng 6 tháng 2 năm Quý Mão (năm 43). Theo Nam Sử, Trưng Trắc hưởng dương 29 tuổi.

Một số những tướng của Hai Bà là nhóm Đô Dương chạy vào giữ huyện Cư Phong thuộc quận Cửu Chân. Sau Mã Viện đem quân vào đánh, nhóm Đô Lương cũng đều phải ra hàng.

Sau ngọn cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, đất nước lại rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai kéo dài đến 5 thế kỷ (43-544).

Ngày nay, ngoài quê hương Mê Linh, tại bãi Đồng Nhân ở vùng ngoại ô thành phố Hà Nội có ngôi đền cất từ năm Nhâm Tuất (1142) thờ Hai Bà Trưng rất lớn ....

Tại xã Hát Môn (là nơi lập đàn ăn thề, là nơi tế cờ khởi nghĩa và cũng cùng là nơi hai bà tự tận) có Miếu Hát thờ Hai Bà Trưng, theo dân gian, nơi nầy rất linh thiêng ...

Người ta truyền tụng rằng đền thờ hai bà rất linh thiêng. Đời vua Anh Tông nhà Lý, gặp năm trời đại hạn, ruộng đất không cấy được, nhà vua sai Uy Tĩnh thiền sư đến đền thờ hai bà để cầu mưa. Quả nhiên giữa hôm ấy trời mưa tầm tã, vua thấy linh ứng hiển nhiên bèn ra lệnh cho xây lại đền thờ hai bà thêm nguy nga và phong tặng là Trinh Linh Nhị Phu Nhân. Đến đời nhà Trần lại gia phong là Uy Liệt Chế Thắng Thuần Trinh Bảo Thượng Lưỡng Phu Nhân.

Để tỏ lòng tôn kính, hàng năm vẫn tổ chức lễ kỷ niệm hai vị anh thư Trưng Trắc và Trưng Nhị vào ngày mùng 6 tháng 2 Âm lịch.

Hai Bà họ Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để tiếng thơm lại muôn đời. Ngày nay có rất nhiều nơi lập đền thờ Hai Bà để ghi tạc danh tiếng hai người nữ anh hùng của nước Việt Nam ta.

Đây là hai vị nữ lưu đầu tiên trong lịch sử nước nhà đã dấy lên ngọn cờ khởi nghĩa, chống trả ách xâm lược của Bắc Phương.

Trong “Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca” có bốn câu:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân...
Sách “Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập” có những vần thơ vịnh Hai Bà Trưng:
Giúp dân dẹp loạn trả thù mình
Chị rủ cùng em kết nghĩa binh
Tô Định bay hồn vang một trận
Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành.
Mới dày bảo vị gia ơn trọng
Đã đội hoa quan xuống phúc lành
Còn nước, còn non, còn miếu mạo
Nữ trung đệ nhất đấng tài danh ..

Vua Tự Đức đã đề cập về hai vị nữ anh thư:


Hai Bà Trưng là khách quần thoa, thế mà lóng hăng việc nghĩa, còn làm rung động được triều đình nhà Hán! Dẫu thế lực yếu, thời vận ngửa nghiêng, cũng đủ dấy dức lòng người, rỡ ràng sử sách...
BÀ TRIỆU

Sử xưa, nhất là sử Trung Hoa thường chép là Triệu Ẩu; sử ta có nơi chép tên Triệu Thị Trinh. Là bậc anh thư vào khoảng tiền bán thế kỷ III đã dấy binh chống lại quân Đông Ngô xâm lăng.

Người ở quận Cửu Chân (thuộc vùng Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá, Trung phần hiện nay).
Sử chép: Thuở nhỏ, cha mẹ mất sớm, bà ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một thanh niên anh tuấn, có lòng thiết tha với tiền đồ xứ sở.

Người dị tướng – sử chữ Nho chép bà Triệu “v-́ dài ba thước vắt ra sau lưng.” Tính cương cường, lớn lên, bà tỏ ra có khí phách khác thường, muốn theo đuổi chí hướng của anh để cứu nước ra khỏi vòng nhục vong. Người anh nhiều lần can ngăn để cho em gái khỏi phải lăn lưng vào chốn gian truant khổ ải. Năm bà 20 tuổi, Quốc Đạt muốm tìm nơi xứng đáng tác thành cho bà, nhưng bà khẳng khái bảo rằng: “Tôi muốn cỡi con gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi, cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ thèm gì lại bắt chước người đời cúi đầu, khom lưng làm tì thiếp người ta!”

Từ đó, bà vào ở trong núi, chiêu mộ được hơn 1.000 nghĩa dũng để làm thủ hạ.

Năm 248, Triệu Quốc Đạt khởi binh đánh quận Cửu Chân; bà đem quân phụ lực giúp anh. Quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà cầm quân giỏi, tỏ ra một vị tướng có tài thao lược, quyền biến, mới tôn bà lên làm chủ tướng.


Ra trận, bà thường mặc áo vàng, xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân.

Lúc đầu, bà đánh đâu thăng đó, chẳng bao lâu thì chiếm giữ được quận Cửu Chân. Quân Tàu khiếp sợ bà, tôn xưng là Lệ Hải Bà Vương.

Thứ sử Giao Châu là Lục Dận đem quân vào đánh. Bà Triệu chống nhau với giặc hết sức mãnh liệt trong vòng 6 tháng; nhưng cuối cùng, vì quân ít thế cô, phải thua, bà đem quân chạy đến xã Đồ Điền (tức xã Phú Điền, thuộc huyện Mỹ Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay), rồi tự sát. Bấy giờ bà mới 23 tuổi.

Đến đời vua Nam Đế nhà Tiền Lý (544-548), có lập miếu thờ Bà Triệu tại xã Phú Điền và phong là Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân.

• Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập có bài thơ vịnh thân thế và sự nghiệp hiển hách của Triệu Trinh Nương như sau:

Người cao một trượng, cả mười vừng,
Bỏ tóc ngang lưng, v-́ chấm sừng.
Họp chúng rừng xanh, oai nao nức,
Cưỡi đầu voi trắng, tiếng vang lừng.
Mác dài trỏ vẫy tan đàn giặc,
Ngôi cả lăm le học họ Trưng.
Ví có anh hùng duyên định mấy,
Thời chi Đông Hán dám lung lăng.

Ngày nay, ở Thanh Hóa vẫn còn lăng Bà Triệu với hội thờ vào ngày 21-2, tương truyền là ngày mất của người nữ anh hùng.

Bà Triệu, hay nàng Trinh (Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh) của truyền thuyết dân gian người miền núi Quân Yên, quận Cửu Chân. Quân Yên, trái núi đó vẫn giữ tên gọi ấy cho đến tận ngày nay, đứng sừng sững bên bờ sông Mã gần ngã ba Bông, thuộc địa phận hợp tác xã Định Công của tỉnh Thanh Hóa.

Thôn Cẩm Trướng thuộc xã Định Công có truyền thuyết "Đá biết nói" như sau: Vùng núi này có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá hoại mùa màng, mọi người đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa còn lầy lội) rồi dũng cảm nhẩy lên cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục được con voi hung dữ. Chú voi trắng này sau trở thành người bạn chiến đấu trung thành của Bà Triệu. Nghĩa quân Bà Triệu, những ngày đầu tụ nghĩa, đã đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao:

Có bà Triệu tướng,
Vâng lệnh trời ta.
Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước,
Theo gót Bà Vương.

Nhờ đó cả vùng đã đồn ầm lên rằng núi Quân Yên biết nói, báo hiệu cho dân chúng biết Bà Triệu là "thiên tướng giáng trần" giúp dân, cứu nước. Vì vậy hàng ngũ nghĩa quân thêm lớn, thanh thế thêm to. Họ kéo nhau xuống Phú Điền dựng căn cứ.

Trung tâm tụ nghĩa là vùng núi Tùng Sơn (Phú Điền). Đây là một thung lũng nhỏ nằm giữa hai dãy núi đá vôi thấp, dãy phía bắc (Châu Lộc) là đoạn núi chót ngăn cách hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình cũ, dãy núi phía nam (Tam Đa) là đoạn chót của dải núi chạy dọc sông Mã. Chân phía bắc núi Châu Lộc là sông Lèn, chân phía nam núi Tam Đa là sông Âu, xưa là một dòng sông lớn. Thung lũng mở rộng cửa về phía đồng bằng ven biển và bị chặn ngang về phía tây bởi dòng sông Lèn. ở căn cứ này, ngược sông Lèn có thể liên lạc với miền quê Bà Triệu. Là địa điểm gần biển, lại là cửa ngõ từ đồng bằng miền bắc vào Thanh, đó là một vị trí quân sự hiểm yếu, thuận lợi cả công lẫn thủ.

ở đây còn có núi Chung Chinh với 7 đồn lũy tương truyền là quân doanh của Bà Triệu, nơi đã từng diễn ra trên ba chục trận đánh với quân Ngô. Dưới chân núi Tùng, còn có cánh đồng Lăng Chúa (lăng Bà Triệu), đồng Vườn Hoa, đồng Xoắn ốc... tương truyền là tên cũ còn lại khi Bà Triệu đắp lũy xây thành. ở đây còn lưu hành rộng rãi truyền thuyết về ba anh em nhà họ Lý đi tìm Bà Triệu, rước Bà từ quê ra đây dựng doanh trại, sửa soạn khởi nghĩa và tôn Bà làm chủ tướng.

Cảm phục chí khí hiên ngang cứu nước của người con gái hai chục tuổi đời, dân chúng Cửu Chân theo phục Bà rất đông. Các thành ấp của giặc Ngô đều bị triệt hạ, quan lại giặc từ thái thú đến huyện lệnh, huyện trưởng, kẻ bị giết, kẻ chạy trốn hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan ra Giao Chỉ ở ngoài bắc. Thứ sử Giao Châu mất tích!

Một câu nói, tương truyền là lời Bà Triệu phát ra trên núi nghĩa, nghìn thu còn vang vọng mãi:

"Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô lệ chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta!"

Rất nhiều câu chuyện về tình dân với khởi nghĩa Bà Triệu. Đây là một ông già mù miền núi đã đi khắp nơi, dùng tiếng đàn, giọng hát của mình để ngâm ngợi cổ vũ dân chúng đứng dậy cứu nước; kia một bà cụ hàng nước cố xin cho con gái được theo quân giết giặc, còn mình thì giúp cả chõng chuối với chum nước chè xanh cho nghĩa binh đang trẩy quân qua giải khát. Dọc sông Mã, vùng Cẩm Thạch có truyền thuyết và di tích về một bà nữ tướng cưỡi voi đánh giặc Ngô. Vùng Khang Nghệ có truyền thuyết nói rằng: thời xưa sông Mã có một nhánh chảy từ đầm Hàn về cửa Lạch Trường. Đó là nơi quân Ngô chiếm giữ, chiến thuyền san sát như lá tre. Một chàng trai đã ăn trộm ngựa chiến của quân giặc trốn về với Bà Triệu và trở thành dũng tướng của nghĩa quân. Trong một trận giao tranh trên sông nước, vì anh đi chân vòng kiềng nên đã vấp phải dây chằng mà tử trận. Giặc Ngô đang ăn mừng thắng lợi thì hai bờ sông chuyển động. Đất trời nổi cơn giận dữ, hắt rừng cây núi đá xuống lấp cạn dòng sông, chôn vùi cả mấy vạn xác thù...

Lại có câu chuyện đền Cô Thị ở xã Hà Ngọc (Hà Trung). Một cô gái rất thích quả thị, chờ đợi người yêu đi đánh giặc và khi chết biến thành cây thị. Cây thị này chỉ có một quả, không ai hái được, vì hễ ai thò tay bẻ thì cành thị lại tự dưng vút hẳn lên cao. Cành ấy đời đời ngả về phía đông nam theo hướng người yêu của cô đang ở trong quân dinh Bà Triệu. Một ngày thắng trận, chàng trai được phép Bà Triệu về thăm làng xóm thì cành cây mới chịu sà xuống và quả thị rơi vào ống tay áo của chàng....

Đứng trước nguy cơ tan rã của chính quyền đô hộ ở Châu Giao, triều Ngô phải cử viên danh tướng Lục Dận (cháu họ viên danh tướng Lục Tốn) làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, đem khoảng 8.000 quân sang Giao Châu đàn áp nhân dân khởi nghĩa. Kết hợp dùng binh lực uy hiếp, dùng mưu mô dụ dỗ, dùng của cải mua chuộc, Lục Dận đã khiến được ba nghìn hộ ở Cao Lương (Hợp Phố) dưới quyền thủ lĩnh Hoàng Ngô đầu hàng. Sau đó, Lục Dận thận trọng tiến binh vào Giao Chỉ và Cửu Chân, khi phát quân đàn áp, khi dừng quân dùng của cải, tiền bạc mua chuộc các thủ lĩnh địa phương. Rút cục, hàng trăm thủ lĩnh nghĩa quân và hơn năm vạn dân đã phải chịu thua quân Ngô.

Truyền thuyết dân gian kể rằng: Bà Triệu đã chiến đấu chống giặc Ngô, trên ba mươi trận thắng lợi. Giặc gọi tên bà là Ngụy Kiều tướng quân (Vị tướng nữ yêu kiều), là Hệ Hải bà vương (Vua bà vùng biển mĩ lệ). Quân Ngô sợ bà, thường có câu:

Hoành qua đương hổ dị,

Đối diện Bà Vương nan.

(Múa ngang ngọn dáo dễ chống hùm,

Đối mặt Vua Bà thì thực khó).

Cũng theo truyền thuyết dân gian, về sau có kẻ phản bội, mách với Lục Dận rằng Bà là nữ tướng "ái khiết úy ô" (yêu cái trong sạch, ghét cái nhơ bẩn). Quân Ngô liền trần truồng tiến đánh Bà. Bà hổ thẹn, giao binh cho 3 tướng họ Lý, lên núi Tùng tự vẫn.

Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu và dưới chân núi Tùng là đền thờ chính của Bà Triệu. Hội đền hằng năm ngày trước vào ngày 21 tháng hai âm lịch.

Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.

Tùng Sơn nắng quyện mây trời,

Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh. (thơ ca dân gian)


LÊ CHÂN- NỮ TƯỚNG
Nữ tướng Lê Chân quê ở làng An Biên, nay thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, vì không chịu nổi áp bức của bọn xâm lược và tay sai, bà bèn bỏ quê, tìm đến đất làng Vẻn - một nơi đầu sóng ngọn gió (thuộc thành phố Hải Phòng) để làm ăn. Nhiều người theo Lê Chân đến đây, hình thành làng mới, nhưng không gọi là làng Vẻn, mà lấy tên làng gốc An Biên đặt cho nơi tụ cư mới này. Tại đây, nàng tổ chức lực lượng, tích trữ lương thảo, rồi hưởng ứng cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng khởi xướng và giành thắng lợi. Sau khi Hai Bà Trưng hy sinh, Lê Chân cũng bỏ mình vì nước. Theo sử sách, bà là tướng tiên phong chống lại quân Mã Viện ở sông Bạch Đằng, sau rút lui về Hồ Tây (Hà Nội), ở đây, bà đã chống cự rất anh dũng với quân Hán, nhưng quân ít, bà đã không địch nổi giặc do chính Mã Viện chỉ huy với sự phụ tá của hai tướng khác. Bà Lê Chân đã phải lui về làng Mai Động (Hà Nội) và hy sinh tại đây. Để ghi nhớ công lao và chiến tích của Lê Chân, dân làng An Biên lập đền thờ bà làm Thành Hoàng. Đền ấy được gọi là đền Nghè tọa lạc ở phố Lê Chân, thành phố Hải Phòng ngày nay.

Tại làng Mai Động cũng lập đền thờ bà và tôn bà là Thành Hoàng làng. Hàng năm làng mở hội vào các ngày 4,5,6 tháng 1 Âm lịch. Vào ngày hội, dân làng chuẩn bị lễ vật cúng thần và sau những lễ nghi truyền thống, là các cuộc đấu vật diễn ra ở Đồng Vật. Tục truyền đây là nơi nữ tướng Lê Chân từng luyện võ vật cho trai gái làng thuở đó. Hội vật làng Mai Động đến nay vẫn được duy trì và tổ chức trong ngày hội làng.

Đền Nghè mở hội lễ chính vào ngày mùng 8, 9, 10 tháng 2 âm lịch, tương truyền là ngày sinh của Lê Chân. Tại đền còn dâng lễ vào ngày đại thắng 15 tháng 8, và ngày 25 tháng Chạp âm lịch. Mở đầu hội là cuộc rước ngai, mũ, ấn từ đền Nghè vào đình làng, khi rước phải xin phép Thành Hoàng cho dân được hành lễ. Đi đầu cuộc rước là người cầm cờ, rước phướn đủ màu sắc; theo sau là các hiệu chiêng, hiệu trống, phường bát âm, theo sau là các bô lão. Cuộc rước về đến đình thì dừng lại, các đồ thờ lưu lại trong đình suốt 3 ngày, mỗi ngày các quan tế tiến lễ hai lần, gồm hương, hoa, xôi, quả, khi có lợn thì phải làm sạch, bỏ ruột và gan, tế lễ xong đem chia đều cho dân làng, không phân biệt nam hay nữ. Trong 3 ngày hội dân làng diễn nhiều trò vui: cờ người, đấu vật, thi tài, ban đêm thì hát xướng. Sáng ngày 10, cuộc rước từ đình về đền được cử hành long trọng. Khi về đến đền Nghè cử hành lễ tế. Đặc biệt những người chỉ trì và tham dự lễ đều là phụ nữ, các vai nữ quan cũng thành thục theo nghi lễ truyền thống.

Về sau nữ tướng Lê Chân được phong làm Thượng đẳng Phúc thần công chúa. Tưởng nhớ công ơn bà, một nữ tướng tài ba, nhân dân Hải Phòng đã tạc tượng bà bằng đồng với dáng đứng uy nghi nhưng đầy chất nữ tính, biểu tượng cho người con gái Việt Nam. Tượng đài nữ tướng Lê Chân vừa được nhân dân thành phố Hải Phòng khánh thành vào tháng 1 năm 2001 vừa qua.


LÝ NAM ĐẾ

(503-548)

Lý Nam Đế (chữ Hán: 李南帝; 503548) là vị hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lý và khai sinh nhà nước Vạn Xuân trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Lý Bí (李賁), còn gọi là Lý Bôn[1], người làng Thái Bình, phủ Long Hưng[2], Việt Nam (khoảng Thạch Thất và thị xã Sơn Tây, Hà Nội). [1] Tuy nhiên, theo nhận định gần đây, quê gốc của Lý Nam Đế thuộc địa bàn tỉnh Thái Nguyên ngày nay.[3]

Lý Nam Đế có tài văn võ. Ông đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ, rồi xưng là Nam Đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên (chưa rõ ở đâu, có lẽ gần thành phố Bắc Ninh ngày nay).




tải về 4.26 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương