Cẩm nang giáo dục truyền thống lịch sử cho học sinh trung học Lưu hành nội bộ “HIỀn tài là nghuyên khí CỦa quốc gia”



tải về 4.26 Mb.
trang7/60
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích4.26 Mb.
#38011
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   60

LÊ VĂN HƯU

(1230-1322)

Lê Văn Hưu người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Triệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

Theo lời các cố lão địa phương thì đất Triệu Trung vốn là trang trại của vị tổ khai sáng dòng họ Lê - quan Trấn quốc bộc xạ Lê Lương thời Đinh Tiên Hoàng, đến nay đã được hơn hai mươi đời. Lê Văn Hưu là ông tổ thứ bảy của dòng họ này. Cuốn Lê thị gia phả hiện còn được bảo tồn, ghi ông sinh năm Canh Dần (1230) là người khôi ngô tuấn tú, tư chất thông minh.

Một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin một cái để làm dùi đóng sách. Bác thợ rèn thấy chú bé mới tí tuổi đầu đã chăm lo việc học hành, bèn ra một vế đối để thử tài:

Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở.

Lê Văn Hưu liền đối:

Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên.

Bác thợ rèn ngạc nhiên khen ngợi mãi rồi tặng luôn một cái dùi thật xinh, lại kèm theo ít tiền để mua giấy bút.

Năm Đinh Mùi, Lê Văn Hưu đi thi, đỗ Bảng Nhãn. Đây là khoa thi đầu tiên ở Việt Nam có đặt danh hiệu tam khôi (ba người đỗ đầu: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa). Năm ấy, ông vừa tròn 18 tuổi.


Sau khi thi đỗ, ông được giữ chức Kiểm pháp quan (chức quan trông coi việc hình luật), rồi Binh bộ Thượng thư, rồi Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu. Ông cũng là thầy học của thượng tướng Trần Quang Khải, một trong những danh tướng của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông.


Trong thời gian làm việc ở Quốc sử Viện, vào năm 1272, ông đã hoàn thành việc biên soạn Đại Việt sử ký - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam, ghi lại những sự việc quan trọng chủ yếu trong một thời gian lịch sử dài gần 15 thế kỷ, từ Triệu Vũ đế (tức Triệu Đà 207 - 136 trước Công nguyên) (*) cho tới Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225), tất cả gồm 30 quyển, được Trần Thánh Tông xuống chiếu ban khen.

Đại Việt sử ký nay không còn, nhưng vẫn có thể thấy được thấp thoáng bóng dáng bộ quốc sử đầu tiên này trong Đại Việt sử ký toàn thư. Ngô Sĩ Liên, sử thần đời Lê, người khởi đầu việc biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, đã căn cứ vào Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, tiếp đó là Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên để biên soạn những phần liên quan. Trong bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết: "Văn Hưu là người chép sử giỏi đời Trần, Phu Tiên là bậc cổ lão của thánh triều ta, đều vâng chiếu biên soạn lịch sử nước nhà, tìm khắp các tài liệu còn sót lại, tập hợp thành sách để cho người xem đời sau không có gì phải tiếc nữa, thế là được rồi". Tiếp đó, Ngô Sĩ Liên nói rõ, ông đã đem "hai bộ sách của tiên hiền" (tức là Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên) ra "hiệu chỉnh, biên soạn lại, thêm vào một quyển Ngoại kỷ, thành một số quyển, gọi là Đại Việt sử ký toàn thư". Như vậy, khó có thể phân định được đích xác đâu là nguyên văn Đại Việt sử ký trong bộ quốc sử lớn đời Lê này. Tuy vậy, rất may là trong Đại Việt sử ký toàn thư hiện đang lưu hành vẫn còn có 29 đoạn ghi rõ là lời văn của Lê Văn Hưu với mấy chữ " Lê Văn Hưu viết ". Qua nhưng trích đoạn đó, có thể thấy được phần nào khuynh hướng cũng như sắc thái ngọn bút chép sử của ông. Trân trọng công lao đánh giặc giữ nước của Tổ tiên, ông đã nhận định về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng với những lời lẽ rất mực hào hùng: " Trưng Trắc Trưng Nhị... hô một tiếng mà các quận Cửu Châu, Nhật Nam, Hợp Phố cùng sáu mươi nhăm thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay...". Đoạn ông ca tụng Ngô Quyền cũng thấm đượm lòng tự hào sâu sắc trước thắng lợi huy hoàng của dân tộc: " Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy... ". Quan tâm sâu sắc đến cuộc sống của nhân dân, ông cũng đã nghiêm khắc phê phán những hành vi bạo ngược, trái đạo lý của vua chúa, như đoạn nhận xét về cấm lệnh " không cho con gái nhà quan lấy chồng trước khi dự tuyển vào hậu cung" của Lý Thần Tông (1128 - 1137), chẳng hạn: "Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung phụng riêng cho vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất; thánh nhân thể lòng ấy còn sợ kẻ sát phu sát phụ không được có nơi có chốn... Thần Tông xuống chiếu cho con gái các quan phải đợi xong việc tuyển người vào cung rồi mới được lấy chồng, thế là để cung phụng riêng cho mình, đâu phải là tấm lòng của người làm cha mẹ dân!".

Lê Văn Hưu mất ngày 23 tháng Ba năm Nhâm Tuất (1322), táng ở cánh đồng xứ Mả Giòm (thuộc địa phận xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Hiện nay ở đó vẫn còn phần mộ với tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 20 (1867), khắc ghi tiểu sử và một bài minh ca tụng tài đức, sự nghiệp của ông.




* Khoảng trước năm 179 trước Công Nguyên, Triệu Đà xâm lược nước Âu Lạc của dân tộc Việt rồi sáp nhập vào nước Nam Việt. Lê Văn Hưu, sau đó là các nhà sử học Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên đều cho rằng Triệu Đà là vua nước Việt, xếp "kỷ nhà Triệu" như một triều đại chính thống trong lịch sử Đại Việt. Đây là một sự nhầm lẫn. Đến thế kỷ 18, Ngô Thì Sỹ (1726-1780) trong cuốn "Việt sử tiêu án" mới bác bỏ sai lầm này, khẳng định Triệu Đà "thực chưa từng làm vua nước ta" vì "nước Việt ở miền Nam Hải, Quế Lâm" không ở vị trí nước Việt Nam ngày nay.
TRẦN THỦ ĐỘ

(1194-1264)

Trần Thủ Độ là nhân vật trụ cột của triều Trần. Ông là công thần sáng lập triều Trần và là người thực tế nắm quyền lãnh đạo đất nước những năm đầu triều Trần, khoảng gần 40 năm (1226-1264). Sử chép: "Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua". (*)

Trần Thủ Độ cũng là nhân vật bị các sử thần thời phong kiến chê trách nhiều. Dưới ngòi bút của họ, Trần Thủ Độ hiện ra như một quyền thần vô học, có tài mà không có đức, có công với nhà Trần, lại có tội với nhà Lý. Nhưng khi chép về việc "Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý" trong Đại Việt sử ký toàn thư; Ngô Sĩ Liên cũng chú trong ngoặc đơn là "việc này chưa chắc đã có thực".

Nhân dân lại đánh giá ông với cách nhìn khác quan điểm Nho giáo. Trong đền thờ ông trên đồi Lim (Tiên Sơn, Hà Bắc) có hai câu đối treo ở trước bàn thờ như sau:


Công đáo vu kim, bất đán Trần gia nhị bách tải.

Luận định thiên cổ, kỳ tại Nam thiên đệ nhất lưu.

(Công đức của ông để mãi đến ngày nay, không chỉ bó hẹp trong hai trăm năm đời nhà Trần.

Sau nghìn đời, công luận đã định, ông đáng liệt vào bậc thứ nhất dưới trời Nam).

(**)
Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) ở làng Lưu Xá, huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng, nay là xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Tổ tiên ông vốn nối đời làm nghề đánh cá, từ Yên Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh) về vùng sông nước Hiển Khánh, Tức Mặc ven bờ sông Hồng (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), rồi sang ở vùng Bát Xá - Tam Nông (tám làng Xá, ba làng Nông) cạnh dòng sông Luộc. Đến đời thân phụ của Trần Thủ Độ và nguyên tổ Trần Lý của nhà Trần thì họ Trần trở nên giàu có, người ở quanh vùng quy phụ, "...nhân có nhiều người cũng nổi lên làm giặc". Nhất là từ khi Trần Lý có người con gái là Trần Thị Dung lấy Hoàng Thái tử Sảm (sau là vua Lý Huệ Tông) thì thanh thế càng lớn. Trần Thủ Độ cùng với những người con ưu tú khác của họ Trần sớm tham gia lập các đội hương binh đi đánh dẹp các thế lực cát cứ khác, lúc đầu nhằm khôi phục cơ nghiệp cho nhà Lý. Năm 1224, ông được nhà Lý phong làm Điện tiền chỉ huy sứ, quản lý các đạo quân bảo vệ kinh thành. "Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn".

Ông mất tháng Giêng năm Giáp Tý (1264), thọ 71 tuổi. Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục: "Trần Thủ Độ sau khi chết, chôn ở địa phận xã Phù Ngự, huỵện Ngự Thiên, nơi để mả có hồ đá, dơi đá, chim đá và bình phong bằng đá, chỗ đất ấy rộng đến hai mẫu, cây cối um tùm. Về tư điền, trước vẫn liệt vào hạng thượng đẳng, các quan phủ, huyện, huấn, giáo đến kính tế".

Trần Thủ Độ là người có bản lĩnh và cá tính khác thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, thường quyết đoán theo ý chí của mình, ít chịu để cho tình cảm sai khiến. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Thủ Độ gắn liền với nghiệp đế của họ Trần. Nhưng hiệu quả lịch sử những việc ông làm đã đưa nước nhà qua khỏi cuộc suy vong cuối triều Lý và khởi dựng nên thời đại Đông A rực rỡ những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm và những thành tựu xây dựng đất nước.

Cuối triều Lý, chính quyền trung ương bất lực trước cuộc suy thoái về kinh tế và hỗn loạn về chính trị. Thiên tai, mất mùa, đói kém xảy ra liên tiếp. Các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi đánh giết lẫn nhau, cướp bóc bừa bãi. Ngoài biên thùy, Chiêm Thành và Chân Lạp thường xuyên quấy phá. Đế quốc Mông Cổ cũng đã tung vó ngựa sang phía Đông đánh Kim, diệt Tây Hạ, chiếm Triều Tiên, chuẩn bị xâm lược Tống và các nước phía Nam.

Trong lúc ấy, vua Lý Cao Tông vẫn mải mê rong chơi, say đắm thanh sắc, thích xây dựng cung điện, đền miếu, không thiết gì đến chính sự. Vua Lý Huệ Tông thì nhu nhược, bệnh hoạn, năm Giáp Thân (1224) truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới 6 tuổi rồi đi tu ở chùa Chân giáo.

Trần Thủ Độ đạo diễn cuộc chính biến tháng Chạp năm ất Dậu (tức tháng 1-1226), xếp đặt việc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh với lời lẽ trong chiếu nhường ngôi rằng: "...Trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không có người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, giữ thế nào nổi ngôi báu nặng nề".

Làm cuộc đảo chính thay đổi triều đại mà không xảy ra đổ máu và đảo lộn lớn trong nước, Trần Thủ Độ tỏ ra là một nhà chính trị sáng suốt, khôn khéo.

Ngay sau khi lên làm vua, Trần Thái Tông phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ nắm giữ mọi việc cai trị thiên hạ. Năm sau lại phong Trần Thủ Độ làm thái sư giữ tất cả việc hành quân, đánh dẹp trong nước. Ông là một nhà lãnh đạo tài giỏi và tận tụy chăm lo việc nước. Phàm công việc gì làm cho đế nghiệp Đông A vững mạnh, ông đều cương quyết làm bằng được. Năm 70 tuổi, trước lúc chết 5 tháng, sử còn chép việc ông đi tuần ở vùng biên giới Lạng Sơn. "Thủ Độ tuy làm tể tướng mà phàm công việc, không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp, giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất".

Ngay từ những năm đầu triều Trần, ông đã đánh dẹp được các thế lực cát cứ ở các địa phương và tổ chức lại bộ máy hành chính từ trung ương đến cấp xã. Ông đặt ra sổ trướng tịch ghi chép danh sách dân gian trong xã, thôn, từ quan văn, quan võ, binh lính, hoàng nam, trung lão, tàn tật, người ngụ cư... để nắm chắc hộ khẩu trong nước. Có lần duyệt định hộ khẩu, bà Linh Từ quốc mẫu muốn xin riêng cho một người làm câu đương (một chức dịch trong xã). Ông gật đầu, rồi ghi tên họ, tên quê quán. Khi xét đến xã ấy, hỏi tên ấy đâu, người ấy mừng rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ nói: "Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không thể ví như những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt". Người ấy kêu van xin thôi, hồi lâu mới tha cho. Từ đấy không ai dám đến thăm vì việc riêng nữa.

Ông đề cao tư tưởng pháp trị, định ra luật lệ, quy chế hành chính và gương mẫu thực hiện. Sử còn chép chuyện Linh Từ quốc mẫu có lần ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm bị người quân hiệu ngăn lại. Về nhà bà khóc bảo với Trần Thủ Độ rằng: "Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu ấy khinh nhờn như thế". Thủ Độ giận sai đi bắt. Người quân hiệu ấy chắc là phải chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt, người quân hiệu đem sự thực trả lời. Thủ Độ nói: "Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách gì nữa". Rồi lấy vàng lụa thưởng cho người ấy.

Là người có công dựng nước, có tài trị nước, vua cũng ít khi dám trái ý. Bấy giờ có người đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông, khóc mà nói rằng: "Bệ hạ trẻ thơ mà Thủ Độ quyền hơn cả vua, đối với xã tắc sẽ ra sao?". Vua lập tức cùng người ấy đến nhà Trần Thủ Độ và nói lại chuyện đó. Trần Thủ Độ trả lời: "Đúng như lời người ấy đã nói", rồi lấy tiền lụa thưởng cho người ấy.

Trần Thái Tông vì quý trọng Thủ Độ nên muốn dùng anh ruột ông là An Quốc làm tể tướng. Ông thẳng thắn nói với vua: "An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần nên nghỉ việc, nếu cho thần là hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tể tướng thì việc trong triều đình sẽ ra sao". Vua bèn thôi.

Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ, Trần Thủ Độ có vai trò hết sức quan trọng. Tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức tháng 1-1258), quân Mông Cổ, sau khi tiêu diệt nước Đại Lý (Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng. Thế giặc rất mạnh. Quân Đại Việt bị đánh lui, vua Thái Tông phải bỏ Thăng Long rút xuống phía nam. Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền em ruột là Thái úy Trần Nhật Hạo hỏi kế. Nhật Hạo lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ "Nhập Tống" ở mạn thuyền, ý khuyên vua nên chạy sang nhờ vả nước Tống. Vua bèn rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ trả lời:

- Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!

Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của ông đã giữ vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt trong cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu ngày 29-1-1258, buộc địch phải rút chạy về nước.

Trần Thủ Độ xứng đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc.


Hà Ân - Trần Quốc Vượng


(*) Các đoạn trích dẫn không ghi dấu đều lấy ở sách Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1967, Tập I-II.
(**) Theo tài liệu của cụ Hoa Bằng lưu tại Viện sử học.
TRẦN THÁI TÔNG

(1218-1277)
Trần Thái Tông tức Trần Cảnh, vua thứ nhất của nhà Trần, sinh ngày 17-7-1218, mất ngày 4-5-1277, làm vua 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 59 tuổi.

Trần Cảnh là con thứ Trần Thừa, một người nhiều mưu lược, dưới triều Lý từng giữ chức Nội thị khán thủ (đứng đầu các quan hầu cận vua Lý trong cung). Nhờ có Trần Thủ Độ là chú họ khi ấy làm Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Cảnh thường xuyên được ra vào cung, sau lấy Lý Chiêu Hoàng. Năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh và vương triều Trần được thành lập từ đấy.

Lên làm vua, Trần Cảnh đổi niên hiệu là Kiến Trung; năm 1232, đổi là Thiên ứng Chính bình; năm 1251, lại đổi là Nguyên Phong và niên hiệu Nguyên Phong đã đi vào lịch sử như cái mốc lớn ghi chiến công đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông hồi thế kỷ 13 mà thơ Trần Nhân Tông ca ngợi:

Bạch đầu quân sĩ tại,

Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.

(Lính bạc đầu còn đó,

Kể mãi chuyện Nguyên Phong).

Ngày 17-1-1258, (niên hiệu Nguyên Phong thứ 7) quân Nguyên tràn tới cánh đồng Bình Lệ (phía nam Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ), Trần Thái Tông chỉ huy cuộc chiến đấu chống giặc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư tả: "Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước, xông pha tên đạn"...

Ngày 29-1-1258, Trần Thái Tông cùng thái tử Hoàng (sau là vua Trần Thánh Tông) đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Trần Thái Tông đã trở thành ông vua anh hùng cứu nước.

Nhưng tên tuổi Trần Thái Tông được sử sách lưu truyền còn vì ông là một nhà Thiền học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, độc đáo và một tính cách khá lạ lùng, tác giả sách Khóa hư lục, một tác phẩm cổ nhất, quan trọng nhất về phương diện triết học Thiền của thời Trần.

Khóa hư lục nghĩa là ghi chép về phép tu dưỡng đạo hư tịch. Trần Thái Tông viết sách này vào quãng từ năm 1258 đến trước lúc mất (1277), tức là sau khi ông đã nhường ngôi cho Lê Thánh Tông rồi vào núi tu hành. Xét về niên đại, Khóa hư lục là cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ Việt Nam. Xét về nội dung, Khóa hư lục vừa có giá trị triết học, vừa có giá trị văn học, bởi Trần Thái Tông mượn để biểu đạt tư tưởng, cảm xúc của mình là hình thức văn, luận, thể biền ngẫu và kệ, thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn... Tất cả đều giàu hình tượng, giàu chất trữ tình.

Trong một văn bản Khóa hư lục có bài Tựa Thiền tông chỉ nam của Trần Thái Tông viết, ông đã kể lại sự việc năm 1236 đang đêm ông bỏ cung điện vào núi, định ở đó tu hành, nhưng Trần Thủ Độ đến nơi, cương quyết mời ông trở lại ngôi vua, và câu chuyện này gắn liền với tiểu sử đời ông, với đặc điểm của Phật giáo Việt Nam thời Trần: "Năm thứ 5, niên hiệu Thiên ứng Chính bình, đúng đêm mồng ba tháng tư năm Bính Thân (1236), nhân vi hành ra cửa cung, bảo người tả hữu rằng: Trẫm muốn ra chơi để ngầm nghe lời dân, xem ý dân tình như thế nào... Giờ hợi đêm ấy, một ngựa lẻn ra, qua sông mà đi về phía Đông... Giờ mão ngày hôm sau thì đến bến đò Phả Lại sông Đại Than, sợ người ta biết, lấy vạt áo che mặt qua sông... Gập ghềnh, núi thẳm khe sâu, ngựa mỏi không tiến được, trẫm bỏ ngựa leo dốc mà đi, giờ mùi tới đầu núi Yên Tử. Sớm mai lên thẳng đỉnh núi, thăm quốc sư Trúc Lâm đạo sa môn... Bấy giờ Thúc phụ Trần Công (tức Thủ Độ)... nghe tin trẫm bỏ đi, sai tả, hữu tìm kiếm khắp nơi, bèn cùng với các vị quốc lão tìm đến núi này. Gặp trẫm, Thái sư nói thống thiết rằng: "Bệ hạ vì mục đích tu cho riêng mình mà làm thế thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Ví để lời nói suông mà báo đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ?"... Do đấy, trẫm cùng các vị quốc lão về kinh, gắng lại lên ngôi...".

Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề "quốc gia xã tắc" ra và giải quyết theo hướng đặt "quốc gia xã tắc" lên trên hết, trước hết như thế. ở Việt Nam, "quốc gia xã tắc" bao giờ cũng là vấn đề trọng đại nhất. Thái độ đối với "quốc gia xã tắc" chính là thước đo giá trị của mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo tiếng gọi của "quốc gia xã tắc", Trần Thái Tông trở về triều và 22 năm sau, Trần Thái Tông đã phá tan quân xâm lược Nguyên Mông, giữ vững "quốc gia xã tắc".

Trần Thái Tông quả là người có một tính cách đặc biệt. Lúc làm tướng, đánh giặc thì anh dũng "xông vào mũi tên hòn đạn", khi làm vua, thì "phú quý không đủ làm trọng", có thể sẵn sàng từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc.


Ngô Thì Sĩ, sử gia thế kỷ 18 đã nhận xét về Trần Thái Tông: "Trần Thái Tông tuy ý từ gần với đạo không tịch mà chí thì rộng xa, cao siêu cho nên bỏ ngôi báu như trút đôi dép rách vậy".

Lời nhận xét này tưởng như một nét khắc thần thái Trần Thái Tông, bó đuốc của Thiền học Việt Nam, gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam.

Hà Ân - Trần Quốc Vượng

TRẦN HƯNG ĐẠO

(Sinh vào khoảng năm 1231 -1232 và mất vào năm 1300)

Là con của An Sinh Vương Trần Liễu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú. Ông làm đến chức Quốc Công Tiết chế thống lĩnh toàn quân, tước Hưng Ðạo Đại Vương, dân gian thương gọi ngài là Đức thánh Trần hay Trần Hưng Ðạo hoặc Hưng Đạo Vương cho gọn...

Niềm Hãnh Diện của Dân Việt

Hưng Đạo Vương, Danh tướng kiệt xuất duy-nhất thời Trung-cổ.

Gần đây, Hội Hoàng-Gia Anh-Quốc, tức Viện Khoa-Học Hoàng Gia (Royal Society) đã triệu tập một phiên họp gồm 478 nhà khoa-học về lịch-sử quân-sự của các nước, phần đông cũng là các nhà quân-sự có vai vế của thế-kỷ để bầu ra 10 vị tướng soái kiệt xuất nhất trong lịch-sử nhân loại, qua các thời đại : Thượng cổ, Trung cổ, cận và hiện đại. Mục đích là để chuẩn bị cho việc xuất bản cuốn Bách Khoa Toàn Thư.

Sau khi liệt-kê 98 vị thống soái tài ba nhất cuả các nước trên thế-giới, đại hội đã bầu ra 10 vị: Thời Thượng Cổ 3 vị, cận đại 4 vị và hiện đại 2 vị.

Đa số các vị thống-soái chỉ được 70% số phiếu bầu.

Riêng thời Trung-Cổ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị tướng soái duy-nhất được chọn với tuyệt đại đa số phiếu 100%.

Điểm đáng chú ý là trong số phiếu còn ghi rõ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là người đã đánh thắng kẻ thù mạnh nhất thế-giới là quân Nguyên Mông.

Như vậy có nghĩa là giờ đây thế-giới đã phải khách-quan nhìn nhận rằng việc đại thắng quân Nguyên Mông của Hưng Đạo Vương nói riêng, của người Việt-Nam nói chung, có tầm ảnh hưởng lớn lao đến nền an-ninh toàn cầu, nói khác đi, dân tộc Việt-Nam đã có công lớn đối với nền an-ninh thế giới, với nhân loại.


Đức Thánh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là anh-hùng của thế-giới và là niềm tự-hào của dân tộc Việt.


(theo sách Vẻ Vang Dân Việt, tập III và Encyclopedia Britannia).

Trong đời Trần Quốc Tuấn đã trải qua một lần gia biến, ba lần nạn nước. Nhưng ông lại càng tỏ ra là người hiền tài, một vị anh hùng cứu nước. Ông luôn đặt lợi nước lên trên thù nhà, vun trồng cho khối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần, tạo cho thế nước ở đỉnh cao muôn trượng đủ sức đè bẹp quân thù.

Trong lần quân Nguyên sang xâm lược lần thứ ha, thấy rõ ngành trưởng, ngành thứ xung khắc, giữa ông và Trần Quang Khải không chung sức chung lòng thì kẻ thù có lợi chỉ có thể là quân giặc. Bởi vậy, Quốc Tuấn đã chủ động giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần.


Chuyện kể rằng, một lần ở biển Đông, Quốc Tuấn mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện chơi cờ và sai người nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Trần Quang Khải, vĩnh viễn xóa nỗi hiềm khích giữa hai người, đầu mối của hai chi họ Trần (Quốc Tuấn là con Trần Liễu, Quang Khải là con Trần Cảnh)...


Lần khác, Quốc Tuấn đem việc xích mích dò ý các con, thì Trần Quốc Tảng có ý kích ông nên cướp ngôi chi thứ. Ông nổi giận rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và những người tâm phúc van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: "Từ nay cho tới khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa '' ...

Trong chiến tranh, Ngoài việc điều hành binh sĩ và trực tiếp lâm trân kháng chiến, ông luôn bên cạnh để hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt. Dư luận xì xào sợ ông giết vua. Ông liền bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm nghi, làm yên lòng quân dân.

Ba lần chống giặc Nguyên Mông (1257-1285-1288) các vua Trần đều giao cho ông quyền Tiết chế (Tổng tư lệnh quân đội) vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính, do vậy tướng sĩ hết lòng tin yêu ông. Đạo quân cha con ấy trở thành đội quân bách chiến bách thắng.

Trần Quốc Tuấn là bậc tướng trụ cột của triều đình. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp Tông bí truyền thư để răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc. Khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ, truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo họ lẽ thắng trận, tiến lui. Hịch tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn chương của một bậc "đại bút".

Công đức đức Thánh Trần ai mà không rõ ... nên BR không dám kể lể dài dòng thành ra nhàm ... Nhân sinh quan, con người và sự nghiệp của Đức thánh Trần đã phản ảnh sự :

1. Đoàn kết: bảo bọc lẫn nhau của toàn thể dân quân ta thời ấy:
".. giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, . " .....

2. Quyết Tâm:


Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đã cỡi voi đến sông Hóa Giang, voi của ngài bị lún sình, ngài đứng trên mình voi chỉ gươm xuống dòng sông Hóa mà thề rằng: " - Chuyến đi này, nếu ta không đánh tan giặc, ta thề sẽ không trở về. " ...

3. Trách Nhiệm : Vì sợ dân chúng điêu linh vua Trần Nhân Tôn đã nói với Hưng Đạo Vương nghĩ đến chuyện đầu hàng quân giặc, Hưng Đạo Vương trả lời: "Lời của bệ hạ quả thật chí tình và đạo đức, nhưng đạo làm tướng, trước hết là phải giữ gìn giang sơn và Tổ Quốc, nếu bệ hạ muốn hàng thì hãy xin chém đầu thần trước đã". Cảm phục tinh thần bầt khuất, vua không còn nghĩ đến chuyện đầu hàng nữa.


4. Khiêm Nhượng : " ...cả nước đấu sức lại mà đánh ... cũng là trời giúp ta mới được thế...".

5. Dân chủ: một hội nghị quan trọng nhất trong lịch sử gồm có đủ mọi giai tầng xã hội các cấp, các bô lão đã được triệu tập tại Diên Hồng để trưng cầu dân ý và cùng quốc dân bàn kế về kế sách diệt ngoại xâm ....

6. Nhân sinh quan của một Đại Tướng :

Là tướng Nhân, ông thương dân thương quân, chỉ cho họ con đường sáng ....

Là tướng Nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi ....

Là tướng Trí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn tới đâu ....

Là tướng Dũng, ông xông pha nơi nguy hiểm để đánh giặc, tạo những trận như Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời...

Là tướng Tín, ông bày tỏ trước cho quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông thì gặp họa. Cho nên, cả 3 lần đánh giặc Nguyên Mông, ông đều được giao trọng trách điều bát binh mã và đều lập công lớn ...

Ngài không những là một danh tướng, một nhà lãnh đạo quân sự tài ba lỗi lạc, mà còn là một chính khách sáng suốt. Với tài kinh bang tế thế, Ngài đã giúp nhà Trần cải tổ nền kinh tế trong chương trình "Khuyến Nông Sùng Học". Quả thật ngài xứng đáng được tôn vinh là "Đông A Đế Trụ", hai chữ Đông A ghép lại với nhau có nghĩa là Trần, ý muốn nói Ngài là trụ cột của triều đại nhà Trần, không những có công gây dựng cơ nghiệp nhà Trần mà còn bảo vệ được nước ta thoát khỏi gót giầy xâm lược của Đế quốc Nguyên - Mông, một đế quốc hùng mạnh và tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại, nó đã từng xoá tên nhiều quốc gia trên bản đồ thế giới vào thời bấy giờ.

Đức Trần Hưng Đạo húy là Trần Quốc Tuấn, song thân là ông An Sinh Vương Trần Liễu và bà Nguyệt. Ông Trần Liễu là anh của vua Trần Thái Tông nên Ngài gọi vua Trần Thái Tông bằng chú. Là một tôn thất của nhà Trần, Ngài sinh quán tại làng Túc Mạc, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Tư chất thông minh, đầu óc thiên phú văn võ song toàn, ngài đã giúp nhà Trần cải tổ hệ thống quốc phòng, phát triển kinh tế; nhờ đó vào thời bấy giờ, nước ta đã có một nền kinh tế vững mạnh, một đội quân tinh nhuệ sẵn sàng giáng trả bất cứ một kẻ thù nào muốn lăm le nhòm ngó nước ta.


Bối cảnh lịch sử nước ta là như vậy; trong khi đó tại phương Bắc, đội quân tinh nhuệ của Mông Cổ ở Hoa Bắc đã diệt xong nhà Tống và lập ra nhà Nguyên, đồng thời xua quân đánh chiếm nhiều quốc gia từ Á sang Âu, uy thế lừng lẫy. Trong hoàn cảnh nước Việt Nam nhỏ bé của chúng ta chẳng khác gì một cái gai mà quân Mông cổ cần phải nhổ để cản trở đường xuống phương Nam của chúng. Với ý đồ đó, nước ta không thể nào tránh khỏi đại nạn, và đây chính là cơ hội để cho vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo phô triển tài ba thao lược, phò vua giúp nước chống lại quân xâm lăng Mông cổ trong 3 lần đánh nước ta vào thế kỷ thứ XIII.

Đại phá quân Nguyên lần thứ I

Vào năm Đinh Tỵ 1257, nhà Nguyên sai sứ sang dụ nước Nam đầu hàng. Nhờ ở thế đã chuẩn bị sẵn, ta có thực lực hơn nữa để gây uy tín cho mình và đồng thời tỏ cho quân thù thấy rõ ý chí bất khuất của dân ta; triều đình không những đã bác bỏ lời dụ dỗ mà còn bắt giam luôn sứ bộ của nhà Nguyên (khi quân giặc tiến vào thành Thăng Long bỏ ngõ, chúng còn thấy sứ của chúng đang bị xiềng trong ngục). Quốc gia được đặt trong tình trạng chiến tranh, vua Trần Thái Tôn chiếu lời đề nghị của Thái Sư Trần Thủ Độ phong cho Trần Quốc Tuấn làm Tiết Chế thống lãnh quân đội. Giặc Mông cổ sĩ nhục quá, tức giận liền xua quân từ Vân Nam tràn vào lãnh thổ nước ta. Buổi đầu khí thế địch quá mạnh, thấy trực tiếp đối đầu chưa lại. Hưng Đạo Vương bèn lệnh cho quân lui về phía tây sông Hồng. Để khích lòng quân sĩ, vua Trần Thái Tôn đã ngự giá thân chinh. Nhưng bước đấu địch quá mạnh và quá hung hản, vua tôi nhà Trần đành phải rời bỏ kinh đô dời về huyện Đông An, Hưng Yên. Ít lâu sau, thấy địch vì không hạp thủy thổ, chúng bị viêm nhiệt và thấm mệt; mặt khác quân ta đã có kinh nghiệm chiến đấu, đồng thời đã nghiên cứu được kỹ thuật tác chiến của địch nên Hưng Đạo Vương ra lệnh tổng phản công bằng cách áp dụng chiến thuật "lấy đoản trận đánh trường trận" tức là dùng du kích chiến, tỉa dần và phân tán mỏng lực lượng địch, đặc biệt phục kích đánh vào các đoàn vận lương. Giặc mất khí thế, Hưng Đạo Vương bèn ra lệnh cho quân ta ồ ạt đánh vào các cứ điểm. Giặc Nguyên thua to, phải theo đường sông Thao thoát chạy về Tàu.

Các nhà khoa-học về lịch-sử quân-sự của các nước cho HDV Trần Quốc Tuấn là Thánh Tổ của Du Kích Chiến ....

Đại phá quân Nguyên lần thứ II



25 năm sau, giặc Nguyên kiếm cớ "mượn đường nước Nam để đánh nước Chiêm Thành". Vua tôi nhà Trần đã thấy rõ ý đồ đen tối của giặc nên từ chối, đồng thời để chuẩn bị ứng chiến, vua Trần Nhân Tôn liền cho vời các vương hầu ở Bình Than để chuẩn bị đánh nhau với giặc. Một lần nữa lại cử Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Tiết Chế thống lãnh quân ta. Mùa thu năm Qúy Mão 1283, con của Nguyên Chúa Hốt Tất Liệt là Thái Tử Thoát Hoan đã thống lãnh một đạo đại binh là 500,000 quân vượt biên thùy vào đánh nước ta. Một hội nghị quan trọng nhất trong lịch sử gồm có đủ mọi giai tầng xã hội các cấp, các bô lão đã được triệu tập tại Diên Hồng để trưng cầu dân ý và cùng quốc dân bàn kế về kế sách diệt ngoại xâm. Tất cả toàn dân và toàn quân đều nức lòng đánh giặc, khí thế cao độ đến nỗi một thiếu niên mới 16 tuổi còn nhỏ chưa được họp bàn quốc sự, quá tức giận đã bóp nát quả cam đang cầm trong tay. Kết qủa muôn người như một, đều một lòng quyết chiến và tận trung báo quốc. Ngay cả thiếu niên Trần Quốc Toản cũng đã lập riêng một đạo quân với cờ hiệu "Phá Cường Địch, Báo Hoàng Ân" để tham gia đánh giặc. Cũng như lần trước, để tránh khí thế ban đầu của giặc đang còn mạnh, hơn nữa lại được đích thân điều khiển bởi chính con trai của Nguyên Chúa Hốt Tất Liệt là Thái tử Thoát Hoan, lại thêm cả Toa Đô, một hung thần và là một chiến tướng của quân Nguyên trong trận diệt Tống. Lần nầy quân Mông Cổ nghĩ rằng sẽ dễ dàng ăn tươi và nuốt gọn nước Nam nhỏ bé, nhưng với tài ba thao lược, đức độ cũng như uy tín của Tiết Chế Trần Hưng Đạo kèm theo một niềm tin vững chắc và một quyết tâm cao độ của toàn dân nên dù đã một đôi phen hao tổn binh mã, thua thiệt, nhưng với ý chí sắt đá, với tinh thần "Huynh đệ chi binh", Hưng Đạo Vương đã cổ võ toàn quân và toàn dân cầm cự để chờ cơ hội quật khởi. Có lần thấy toàn dân đã quá nhiều hy sinh, sợ đánh thêm lâu ngày sẽ khổ cho dân, vua Trần Nhân Tôn đã nói với Hưng Đạo Vương nghĩ đến chuyện đầu hàng quân giặc, Hưng Đạo Vương trả lời: "Lời của bệ hạ quả thật chí tình và đạo đức,nhưng đạo làm tướng, trước hết là phải giữ gìn giang sơn và Tổ Quốc, nếu bệ hạ muốn hàng thì hãy xin chém đầu thần trước đã ". Cảm phục tinh thần bầt khuất, vua không còn nghĩ đến chuyện đầu hàng nữa. Trước ý chí quyết thắng của vị Tổng Tư Lệnh, quân sĩ ai nấy đều nức lòng giết giặc lập công, trên tay mỗi người đều khắc hai chữ Sát Đát. Một trong những danh tướng của ngài là Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng vì quá ngưỡng mộ đức độ và tinh thần bất khuất của ngài nên chẳng may thất thế bị giặc bắt, không những không để cho địch dụ hàng mà còn khẳng khái chửi vào mặt quân thù: "Ta thà làm quỷ nước Nam, không thèm làm Vương đất Bắc ". Hành động của Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng là một tác động tinh thần lớn lao cho toàn quân và toàn dân. Thấy quân địch chiến đấu đã lâu, mệt mỏi, phần không hạp với thủy thổ, ngã bệnh rất nhiều, Hưng Đạo Vương ra lệnh phản công và mở đầu bằng một cuộc hải chiến phá vỡ thủy quân của giặc mà chiến công lại do hai danh tướng Trần Quang Khải và Phạm Ngũ Lão tại bến Chương Dương. Thừa thắng, Trần Nhật Duật đánh bại Ô Mã Nhi tại Vạn Kiếp. Những chiến thắng liên tiếp khiếp đảm phải mở đường máu thoát thân bằng cách chui vào trong ống đồng để trốn chạy về Tàu. Chính vị thiếu niên Trần Quốc Toản đã phát huy tài năng giúp Trần Quang Khải phá giặc tại bến Chương Dương và Hàm Tử Quan.

Trong lịch sử nhân loại chưa bao giờ có trân chiến nào có tầm mức To lớn, Tập trung và tốc chiến tốc thắng như trân này ...

Đại phá quân Nguyên lần thứ III

5 năm sau, tức là năm 1287, lòng tham lam muốn cướp nước Nam của quân Mông Cổ vẫn còn chưa bỏ, Nguyên chúa một lần nữa lại sai Thái Tử Thoát Hoan dẫn 30 vạn tinh binh tràn qua biên giới đánh nước ta. Rút kinh nghiệm qua hai cuộc chiến lần trước. Hưng Đạo Vương lệnh cho toàn quân rút lui về phía Hà Nam, đồng thời rước vua lui về Thanh Hoá để bảo toàn lực lượng và tránh khí thế ban đầu của địch. Về phía giặc Nguyên, chúng càng dễ dàng tiến sâu vào nội địa bao nhiêu, chúng càng kiêu căng và tỏ ra khinh địch bấy nhiêu. Đợi địch phân tán mỏng với ý định chiếm đất đễ đặt nền móng đô hộ lâu dài, lúc đó vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội mới ra tay đánh phủ đầu bằng một cuộc phục binh tại cửa bể Lục Thủy Dương (cửa Lục ngày nay), với tài thủy chiến, danh tướng Trần Khánh Dư cùng với sự phò tá của hai chiến sĩ can trường có biệt tài bơi lặn là Yết Kiêu và Dã Tượng, quân ta đã đánh tan đoàn thủy quân tiếp tế cho đạo quân của Thoát Hoan do hai tướng Ô Mã Nhi và Trương Văn Hổ hộ tống. Quân ta tịch thu và phá hủy toàn bộ khí giới và lương thực mà Nguyên chúa tiếp tế cho Thoát Hoan. Mất khí giới, thiếu lương thực, hệ thông tiếp vận bị cắt đứt, đại quân Mông Cổ bèn nghĩ đến chuyện lui binh. Chính đây là thời cơ mà người lãnh đạo quyết định chiến cuộc. Thoát Hoan tính gì, Hưng Đạo Vưong đều đã biết rõ, vì thế bài học lịch sử của Ngô Vương Quyền trước đây lại một lần nữa được áp dụng. Hưng Đạo Vương ra lệnh cho quân lấy gỗ đẽo nhọn, bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng, đợi lúc nước thủy triều lên và quân Mông Cổ đến liền đưa quân ra khiêu chiến rồi giả cách thua thoát chạy, đợi cho nước thủy triều xuống, ngài bèn ra lệnh cho toàn quân dốc toàn lực ra đánh. Thủy quân của giặc mắc cạn, bị quân ta phá hoại và tịch thu trên 400 chiến thuyền, thây giặc trôi đầy và loang đỏ cả một giòng sông. Thoát Hoan quá kinh hoàng khi nghe thủy quân bị đại bại bèn mở đường máu chạy về Tàu.Nhưng một đạo quân khác đã được Hưng Đạo Vương bố trí và mai phục chờ sẵn đợi đến khi tàn quân của giặc đến thì xông ra đánh. Thoát Hoan kinh hồn tán đởm thoát thân được chạy về Tàu chấm dứt vĩnh viễn một cuộc xâm lăng mà đã 3 lần quân giặc vẫn cứ tưởng rằng chúng sẽ làm cỏ được nước Nam, không ngờ chúng đã bị thảm bại thê thảm, vì thế người đời sau đã có câu:

"Nực cười châu chấu đá xe

Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng" .

Trong lịch sử Nhân Loại chưa có trận Thuỷ Chiến nào to lớn như vậy ...

và Ba lần ... thì tởn tới muôn đời ... hết dám ngó nghé ....

Từ đó ... Ngài trớ thành Thánh tổ của Hải Quân ...
=======================================

Hịch Tướng Sĩ

Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Ðức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?



Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Ðiếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Ðãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!

Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.

Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?


Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?


Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ làm nguy; nên lấy điều kiềng canh nóng mà thổi rau nguội làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?

Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.

Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?

Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.”

Huệ Chi chú thích :

Kỷ Tín: tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được.

Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu. Theo Tả Truyện, Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Ðông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua mình.

Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.

Thân Khoái: quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân Thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ.

Kính Ðức: tức Uất Trì Cung đời Ðường. Khi Ðường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương Lý Thế Dân) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông chạy thoát.

Cảo Khanh: họ Nhan, một bề tôi trung của nhà Ðường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Ðường Huyền Tông và Dương Quý Phi, ông đã cả gan chưởi mắng An Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.

Vương Công Kiên: tướng tài nhà Tống, giữ Hợp Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm cự với quân Mông Cổ do Mông Kha chỉ huy ở núi Ðiếu Ngư suốt bốn tháng trời. Mông Kha cuối cùng bị loạn tên chết, quân Mông Cổ đành phải rút lui.

Ðiếu Ngư: tên ngọn núi hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Ðời Tống, Dư Giới đắp thành ở đó.

Mông Kha: tức Mongka, anh của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, làm Ðại Hãn Mông Cổ từ năm 1251. Mông Kha trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước phía Ðông. Ông bị tử trận năm 1259 dưới chân thành Ðiếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.

Cốt Ðãi Ngột Lang: tức Uriyangqadai, tướng giỏi của Mông Cổ, con của viên tướng nổi tiếng Subutai. Cốt Ðãi Ngột Lang nhận lệnh của Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam Chiếu. Cốt Ðãi Ngột Lang cũng là viên tướng chỉ huy đạo quân Mông Cổ xâm lược Ðại Việt lần thứ nhất (1258).

Xích Tu Tư: chép Xích theo Hoàng Việt Văn Tuyển. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Cân. Hai chữ gần giống nhau, không biết quyển nào chép nhầm. Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói gì về viên tướng này, và việc khôi phục lại tên Mông Cổ từ Hán tự cũng không phải là chuyện đơn giản.

Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở khoảng giữa tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ngày nay; thủ đô là Ðại Lý, thuộc Vân Nam.

Hốt Tất Liệt: tức Qubilai, em ruột và là tướng của Mông Kha. Sau khi Mông Kha tử trận ở Ðiếu Ngư, Hốt Tất Liệt tự xưng làm Ðại Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Ariq-Buka. Năm 1264, Ariq-Buka đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay), xưng Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên.

Vân Nam Vương: tức Hugaci hay Thoát Hoan, con ruột Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam Vương năm 1267 với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như mở rộng biên cương nhà Nguyên về phía Nam. Thoát Hoan là người chỉ huy quân Nguyên xâm lược Ðại Việt lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1287-1288.

Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: điển tích lấy từ câu nói của viên tướng khét tiếng Mã Viện đời Hán chép trong Hậu Hán Thư (Ðại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ: Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây.)

Thái thường: tên loại nhạc triều đình dùng trong những buổi tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao căng thẳng giữa ta và quân Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp sứ Nguyên, triều đình nhà Trần nhiều khi phải buộc dùng đến nhạc thái thường để mua vui cho sứ giả. Trần Quốc Tuấn xem đó là một điều nhục nhã.

Thái ấp: phần đất vua Trần phong cho các vương hầu.

Đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ: từ câu văn trong Hán Thư (phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng, hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an. Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên.)

Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội: xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ trừng ư canh nhi xuy tê hề. Người bị bỏng vì canh nóng, trong lòng đã e sợ sẵn, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn thổi như thường.

Bàng Mông: danh tướng đời nhà Hạ, có tài bắn cung trăm phát trăm trúng.

Hậu Nghệ: một nhân vật bắn cung giỏi nữa trong thần thoại Trung Quốc.

Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua chư hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An.

Mãi mãi vững bền: nguyên văn chữ Hán là vĩnh vi thanh chiên. Sách Thế Thuyết chép chuyện Vương Tử Kính đêm nằm ngủ thấy bọn trộm vào nhà sạch sành sanh vét mọi vật. Ông từ tốn bảo chúng rằng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi làm ơn để lại. Tác giả dùng điển tích này để chỉ những của cải được lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Binh Thư Yếu Lược: tức Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược, nay đã thất truyền. Tác phẩm với đầu đề tương tự được lưu truyền hiện nay không phải là văn bản thực thụ, trong đó có vài đoạn chép các trận đánh thời Lê Nguyễn sau này.

Dẹp yên nghịch tặc: nguyên văn chữ Hán là bình lỗ chi hậụ Các dịch giả Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đoán Bình Lỗ là tên đất ở đâu đó vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Ở đây, chúng tôi theo Ngô Tất Tố và Phan Kế Bính dịch thoát là bình định nghịch tặc nói chung.

Năm 1206, Thành Cát Tư Hản đưa vó ngưạ Mông Cổ dẩm nát hơn 1/2 phần đất của thế giới. Nhiều quốc gia Âu Châu và Á Châu đã bị Mông Cổ chiếm giữ và cai tri. Cả một đế quốc Trung Hoa dưới triều Tống cũng bị đại bại và thần phục dưới những người lính Mông Cổ thiện chiến nhất hoàn cầu. Câu nói nổi tiếng của người Mông Cổ đã được thế giới chứng nghiệm.

"Nơi nào vó ngựa quân Mông Cổ đi qua thì cỏ cây cũng hết sống".
Vậy mà vó ngưạ Mông Cổ đã bị đại bại dưới lòng can đảm và tài dụng binh có một không hai của quân Tướng nước Nam. Gần 30 năm liên tục , không chỉ đem quân có một lần, mà ba lần vượt biên giới Trung Viêt, ba lần quân nhà Nguyên (Mông Cổ) đã phải ôm đầu máu mà chạy dài. Từ Thoát Hoan, Toa Ðô cho đến Ô Mã Nhi, danh tướng nhưng trở thành bại tướng, quân Mông Cổ, đoàn quân chưa bao giờ bại trận đã kiêng phục và đại bại trước lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc Việt.


TRẦN QUANG KHẢI

(1241-1294)

Trần Quang Khải (1241 - 1294) là con thứ ba của vua Trần Thái Tông và bà hoàng hậu Thuận Thiên. Trần Quang Khải chào đời vào tháng 10 năm Tân Sửu (1241), được phong là Chiêu Minh Đại Vương vào tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Sau đó, ông được phong hàm Thái Uý và hàm Thái Sư, chức Thượng Tướng Quân.


Lớn lên, Trần Quang Khải là người có chí lớn, ham học hỏi, là bậc văn tài nổi tiếng, ông sử dụng thông thạo tiếng nói của không ít đồng bào các dân tộc ít người. Vua cha rất yêu quý ông, Trần Quốc Tuấn cũng rất nể trọng ông.

Thời Trần, quân Nguyên-Mông ba lần sang xâm lược nước ta. Lần thứ nhất (1258) diễn ra khi Trần Quang Khải mới 17 tuổi, cho nên, ông chưa có cống hiến gì đáng kể. Nhưng liên tục trong cả hai lần sau (1285 và 1288), Trần Quang Khải đã lập được rất nhiều chiến công xuất sắc, góp phần to lớn vào thắng lợi vẻ vang chung của nước nhà.

Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, nhiệm vụ đầu tiên mà Trần Quang Khải được đích thân vua Trần giao phó là đi tăng viện cho các cánh quân ở vùng Thanh Hoá và Nghệ An ngày nay. Bấy giờ, quân Nguyên tiến vào nước ta bằng hai hướng khác nhau. Kế hoạch ban đầu của nhà Trần là quyết không để cho giặc có thể hội quân với nhau. Vì thế, nhà Trần đã sai Trần Quốc Khang và con là Trần Kiện, đem quân trấn giữ vùng Nghệ An và Thanh Hoá, tổ chức đánh trả kịch liệt để cản phá lực lượng của Toa Đô. Sau đó, tướng Trần Nhật Duật lại được cử vào để tăng viện. Nhưng, Trần Nhật Duật chưa vào đến nơi thì Trần Kiện đã đầu hàng quân Nguyên. Tình hình chiến trường phía Nam trở nên rất khó khăn và phức tạp. Vì lí do đó, Trần Quang Khải được vua Trần sai đem quân đi tăng viện cho Trần Nhật Duật. Sự có mặt của Trần Quang Khải đã khiến cho đạo quân của Toa Đô bối rối và sa lầy. Chúng buộc phải đóng lại ở vùng Thanh Hoá và Nghệ An ngày nay.


Tháng 4 năm Ất Dậu (1285), nhà Trần tổ chức phản công. Một loạt chiến dịch lớn được tổ chức. Trần Nhật Duật và Trần Quang Khải được lệnh bí mật vượt qua vùng tạm chiến để tiến ra Bắc. Chiến dịch Hàm Tử do Trần Nhật Duật chỉ huy và người giữ vai trò hợp đồng tác chiến một cách tích cực, linh hoạt và đầy hiệu quả là Trần Quang Khải. Toàn bộ lực lượng quân Nguyên đóng giữ ở Hàm Tử nhanh chóng bị đánh tan tành.


Cũng tháng 4 năm ất Dậu (1285), Trần Quang Khải vinh dự được cử làm tướng tổng chỉ huy chiến dịch Chương Dương và Thăng Long. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, lực lượng của Trần Quang Khải đã đẩy lùi quân Nguyên ra khỏi hai vị trí trọng yếu này. Nguy cơ bị đại bại của quân Nguyên bộc lộ rõ rệt. Cộng với các chiến dịch khác ta đã hoàn toàn quét sạch quân Nguyên ra khỏi bờ cõi. Ngày 6 tháng 6 năm ất Dậu, Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, cùng đại quân nhà Trần trở về kinh đô Thăng Long để tổ chức ăn mừng đại thắng. Trần Quang Khải đã cảm khái mà viết rằng:



Đoạt sáo Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan.

Thái bình tu trí lực,

Vạn cổ thử giang san.

Nghĩa là:

Cướp giáo giặc ở bến đò Chương Dương,

Bắt giặc Hồ (tức giặc Nguyên) ở cửa Hàm Tử

Thời thái bình nên gắng đem hết trí tuệ và sức lực (để xây dựng),

Muôn đời (còn mãi) sông núi này.

Trong cuộc kháng chiến lần thứ 3 (1288), Trần Quang Khải được bố trí theo hầu bên cạnh vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Ông vừa lo bảo vệ nhà vua và Thượng hoàng, vừa sẵn sàng tham gia trận mạc dưới quyền chỉ huy trực tiếp của vua và Thượng hoàng. Trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử tại Bạch Đằng (9-4-1288), cùng với nhiều tướng lĩnh xuất sắc khác, Trần Quang Khải đã góp phần to lớn vào việc đạp tan toàn bộ đạo quân hùng hậu và thiện chiến của quân Nguyên do tướng Ô Mã Nhi cầm đầu.


Sau chiến thắng Bạch Đằng, Trần Quang Khải tiếp tục tận tuỵ phò tá nhà Trần. Ông nổi tiếng là người có tài giúp vua trị nước, thanh liêm và ngay thẳng. Sách "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" có ghi rằng: Trần Quang Khải lúc thì làm tướng võ, khi thì làm tướng văn, giúp cho đế nghiệp của nhà Trần, uy danh sánh ngang với Trần Quốc Tuấn. Ông có để lại cho đời tập thơ "Lạc đạo". Con ông là Văn Túc Vương Trần Đạo Tái cũng có tiếng là người văn hay. Cháu ông là Uy Túc Hầu Trần Văn Bích, làm quan được phong đến hàm Thái Bảo. Chắt của ông là Chương Túc Hầu Trần Nguyên Đán cũng có danh vọng rất lừng lẫy. Xem thế cũng đủ biết phúc đức của dòng Trần Quang Khải sâu rộng và bền bỉ nhường nào. Trước sau họ đều gắn bó với cơ nghiệp của nhà Trần".

Ngày 3 tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294), Thượng Tướng Thái Sư, Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải qua đời, hưởng thọ 54 tuổi.

PHẠM NGŨ LÃO – MỘT DANH TƯỚNG

(1255-1320)


Phạm Ngũ Lão sinh năm Ất Mão (1255), tại làng Phù ủng, huyện Đường Hào, nay là Ân Thi, Hưng Yên, mất năm Canh Thân (1320), thọ 65 tuổi. Ông là bậc danh tướng của triều Trần, từng có công lớn trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288). Khi quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo ráo riết chuẩn bị cho cuộc đọ sức lần thứ hai với quân Nguyên, Phạm Ngũ Lão xin theo nghĩa quân đi đánh giặc. Nhờ có đức độ hơn người lại có tài võ nghệ, Phạm Ngũ Lão được Trần Hưng Đạo vừa trọng dụng vừa thương như con. Trần Hưng Đạo đã đem con gái nuôi của ông gả cho Phạm Ngũ Lão, đồng thời đem tiến cử cho vua Trần. Vua Trần phong ông đến chức Điện suý thượng tướng quân, cho lập phủ đệ ngay trong vương cau của triều đình tại kinh thành. Khi Phạm Ngũ lão mất, Vua thương tiếc nên nghỉ chầu đến năm ngày. Đó là một ân điển đặc biệt mà đương thời, ngay cả quý tộc họ Trần cũng không mấy ai có được. Về việc Phạm Ngũ Lão được hưởng ân huệ đặc biệt này, sách "Đại Việt sử ký toàn thư" (bản kỷ, quyển 6, tờ 38 a - b) chép rằng:

"Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, sống phóng khoáng, có chí lớn thích ngâm thơ, xem qua có vẻ như không để ý đến việc võ bị nhưng quân do ông chỉ huy thực là đội quân trên dưới như cha con, hễ đánh là thắng. Ông có bài thơ "Thuật hoài" như sau:



Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu,

Tam quân tỳ hồ khí thôn ngưu.

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Vung gươm sông núi đã bấy lâu,

Ba quân như cọp nuốt trôi trâu.

Công danh trai tráng còn mang nợ,

Những thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầụ)

(Vũ Hầu tức Gia Cát Lượng, tướng nước Thục thời Tam Quốc)

Ông huấn luyện quân đội rất có kỉ luật, đối đãi với tướng hiệu tựa như đối đãi với người nhà, đồng cam cộng khổ với binh lính, cho nên đi đâu cũng không ai dám chống, chiến lợi phẩm thu được đều sung vào kho quân, coi của cải như không, ấy là bậc danh tướng của một thời vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo vương thì học vấn tỏ ra bài hịch, Phạm Diện Suý thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, chứ không phải chỉ chuyên về nghề võ, thế mà dùng binh thì tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không một ai vượt nổi các ông. Lê Phụ Trần thì dũng được đứng đầu ba quân, một mình một ngựa xông pha trong trận giặc, tuỳ cơ ứng biến, chống đỡ cho chúa trong lúc gian nguy, mà tài văn học của ông đủ để dạy bảo thái tử. Đủ biết, nhà Trần dùng người, vốn căn cứ vào tài năng của họ để trao trách nhiệm...".


TRẦN NHÂN TÔNG

(1258-1308)

Trần Nhân Tông tên là Khẩm, con trưởng Thánh Tông, sinh năm 1258, đúng năm Thái Tông và Thánh Tông đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ nhất.

Nói đến Trần Nhân Tông trước hết là nói đến người anh hùng cứu nước. Ông làm vua 14 năm (1279 - 1293). Trong thời gian ấy, đất nước Đại Việt đứng trước thử thách ghê gớm: hiểm họa xâm lược lần thứ 2 và thứ 3 của giặc Nguyên-Mông.

Trong 2 lần kháng chiến, Trần Nhân Tông đã trở thành ngọn cờ "kết chặt lòng dân", lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua bao khó khăn, đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi huy hoàng. Qua 2 cuộc kháng chiến, Trần Nhân Tông đã tỏ rõ ông vừa là nhà chiến lược tài giỏi, vừa là vị tướng cầm quân dũng cảm ngoài chiến trường. Chính vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến năm 1285, khi quân ta đang còn ở thế không cân sức với đối phương, Trần Nhân Tông đã viết lên đuôi chiến thuyền 2 câu thơ đầy khí phách và niềm tin vào sức mạnh tiềm tàng của quân ta:

Cối kê cựu sự quân tu ký,

Hoan diễn do tồn thập vạn binh.

(Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ,

Hoan Diễn đang còn chục vạn quân).

Hai câu thơ này cùng với hai câu Nhân Tông viết bên lăng Trần Thái Tông tại Long Hưng (Thái Bình) lúc làm lễ dâng tù binh mừng chiến thắng lần thứ ba:



Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,

Sơn hà thiên cổ điện kim âu.

(Xã tắc hai lần lao ngựa đá,

Non sông nghìn thuở vững âu vàng.)

đã đi vào lịch sử như một ký ức bất diệt về chiến công bình Nguyên năm 1285 và 1288, trong đó Nhân Tông là vị chủ soái.

Khi nhìn nhận nguyên nhân thắng lợi nhà Trần đã giành được trong sự nghiệp cứu nước. Trần Nhân Tông đã đánh giá cao vai trò của nhân dân lao động (thời đó sử cũ chép là gia nô, gia đồng). Ông cho rằng chính họ mới là những người trung thành với đất nước khi có giặc ngoại xâm. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua (Nhân Tông) ngự chơi bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu tất gọi rõ tên mà hỏi: "Chủ mày đâu?" và dặn dò các vệ sĩ không được thét đuổi. Khi về cung, vua bảo các quan hầu cận rằng: "Ngày thường có kẻ hầu cận hai bên, lúc Nhà nước hoạn nạn thì chỉ có bọn ấy đi theo thôi".

Sau 14 năm làm vua, theo truyền thống của nhà Trần, Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông, rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu, trở thành Tổ thứ nhất phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.


Xét trên bình diện triết học, Trần Nhân Tông có một vị trí quan trọng. Ông là một triết gia lớn của Phật học Việt Nam. Với phái Thiền Trúc Lâm mà Trần Nhân Tông là người đứng đầu, triết học Phật giáo Việt Nam thời Trần đã phát triển rực rỡ và thể hiện được đầy đủ trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam. Nét đặc trưng nổi bật của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là tinh thần thực tiễn, chiến đấu, táo bạo. Sách Tam Tổ thực lục viết: "Một học trò hỏi Điều ngự Nhân Tông: "Như thế nào là Phật?" Nhân Tông đáp: "Như cám ở dưới cối". Hoặc, một lần học trò hỏi Nhân Tông: "Lúc giết người không để mắt thì như thế nào?" Đáp: "Khắp toàn thân là can đảm"...


Anh hùng cứu nước, triết nhân và thi sĩ, ba phẩm chất ấy kết hợp hài hòa với nhau trong con người Trần Nhân Tông. Về phương diện thi sĩ, ông là người có một tâm hồn thanh cao, phóng khoáng, một cái nhìn tinh tế, tao nhã, nhất là đối với cảnh vật thiên nhiên:



Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch đương biên,

Mục đồng địch lý ngưu quy tận

Bạch lộ song song phi hạ điền.

(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,

Bóng chiền man mác có dường không,

Theo lời kèn mục trâu về hết,

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

(Thiên trường vãn vọng - Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Thơ Trần Nhân Tông, ngoài vẻ đẹp của một âm điệu hồn hậu, còn bao hàm một ý vị Thiền, gợi mở một thế giới tinh thần thanh khiết. Trong lịch sử thi ca Việt Nam, cây sáo thơ Trần Nhân Tông để lại một tiếng ngân trong đến thẳm sâu.



Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 12581308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (12781293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm.

Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điều ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam, có vai trò lãnh đạo quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ 2thứ 3.



Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng Một âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức 7 tháng 12 năm 1258).

Ngày 22 tháng Mười âm lịch năm Mậu Dần (tức 8 tháng 11 năm 1278), ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).

Năm 1258, quân Mông Cổ từng thất bại ở Đại Việt trong việc tìm cách mở một hướng từ phía Nam để đánh vào lãnh thổ Nam Tống.

Năm 1279, Nam Tống hoàn toàn bị Đại Nguyên thôn tính. Tháng 8 năm này, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.

Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan.

Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.

Năm 1293, ông nhường ngôi cho con trưởng là Trần Thuyên để làm Thái thượng hoàng, lui về Thiên Trường theo lệ truyền thống của các Thượng hoàng. Trần Thuyên lên ngôi tức Trần Anh Tông.

Bấy giờ Anh Tông còn mê rượu chè, một hôm vua uống rượu xương bồ say khướt. Lúc đó Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường trở về kinh sư,các quan trong triều không ai biết cả.

Thượng hoàng thong thả đi thăm khắp các cung điện, từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Cung nhân dâng bữa, Thượng hoàng ngoảnh nhìn không thấy vua, lấy làm lạ, hỏi là: Quan gia ở đâu?. Cung nhân vào trong nội đánh thức, nhưng ngài không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội.

Đến giờ Mùi vua mới tỉnh, cung nhân đem việc ấy tâu lên. Vua sợ quá, đi rảo ra khỏi cửa cung không thấy ai coi giữ; qua chùa Tư Phúc, thấy học sinh Đoàn Nhữ Hài ở cửa chùa. Vua bèn dẫn Nhữ Hài vào buồng ngủ và bảo:



"Vừa rồi trẫm vì say rượu, có tội với Thượng hoàng, giờ trẫm định đến trước mặt ngài tạ tội, ngươi hãy thảo cho trẫm bài biểu".

Nhữ Hài đứng trước mặt vua, soạn xong tờ biểu. Vua bèn lấy thuyền nhẹ đi ngay, cho Nhữ Hài theo mình.

Sáng sớm hôm sau, vua tới phủ Thiên Trường, dâng biểu tạ tội. Thượng hoàng thấy Nhữ Hài, liền hỏi là người nào. Nội nhân trả lời là người dâng biểu của Quan gia. Thượng hoàng không nói gì.

Buổi chiều, mưa gió ập đến. Nhữ Hài vẫn cứ quỳ không nhúc nhích. Thượng hoàng hỏi: "Người ở trong sân có còn đấy không?". Nội nhân đáp rằng còn. Thượng hoàng bèn sai nhận biểu để xem, thấy lời lẽ khẩn thiết cho gọi vua vào bảo:



"Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn như thế, huống chi sau này?".

Vua rập đầu tạ tội.

Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm[1], Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử(còn gọi là phái thiền Trúc Lâm hay Trúc Lâm Tam tổ),[2] lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này.

Ông qua đời ngày 3 tháng Một âm lịch năm Mậu Thân (tức 16 tháng 12 năm 1308), được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh.

Tại Hà Nội có phố Trần Nhân Tông trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.

Tác phẩm của Trần Nhân Tông có:



  • Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền)

  • Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng)

  • Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá)

  • Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm)

  • Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông)

  • Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc bình quân Nguyên xâm lược.

Các phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại 25 bài thơ chép trong Việt âm thi tậpToàn Việt thi lục


tải về 4.26 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương