5
chiến lược và thể chế R&D) khi các kết quả thành công đã được tạo ra trong quá khứ.
Các công ty và chính phủ có xu hướng gắn bó với các chiến lược hoặc chính sách phát
triển công nghệ hiện có do chi phí chìm (sunk cost) - những khoản chi tiêu đã thực
hiện và không thể thu hồi được. Xét cho cùng, trong một tình huống không chắc chắn
cao, việc tìm kiếm một thứ gì đó mới từ một hệ thống có độ ổn định tương đối cao
hiện có là rất khó vì các công ty không biết cách tốt nhất để giải quyết các vấn đề mà
họ gặp phải. Cuối cùng, hiệu suất của ĐMST công nghệ bị ảnh hưởng bất lợi. Do vậy
cần có các tác nhân bên ngoài có thể tạo ra động lực, phát triển các giải pháp thay thế
công nghệ và nuôi dưỡng các hệ thống công nghệ mới nổi. Ví dụ, mua sắm công ở
Pháp duy trì sự đa dạng về công nghệ bằng cách hỗ trợ hai hệ thống và do đó cung cấp
cho Pháp khả năng luân phiên giữa chúng.
Lý do thứ ba là
thất bại năng lực. Hệ thống ĐMST là cần thiết cho ĐMST quốc
gia. Tuy nhiên, hệ thống ĐMST của các nước phát triển có thể được áp dụng gián tiếp
cho các nước đang phát triển, mặc dù chiến lược xây dựng hệ thống là cần thiết bởi vì
các nước đang phát triển thường thiếu năng lực áp dụng hệ thống ĐMST của các nước
phát triển. Ví dụ, các công ty ở các nước đang phát triển có năng lực R&D thấp
thường mua hoặc vay các công nghệ bên ngoài để giảm thiểu rủi ro. Chính phủ cần có
cách để trau dồi năng lực R&D bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như quỹ R&D.
Ví dụ, Hàn Quốc, khi đang trong giai đoạn phát triển, họ đã thành lập và hỗ trợ tích
cực cho các viện nghiên cứu khác nhau (ví dụ: Viện Khoa học và Công nghệ Hàn
Quốc (KIST), Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc (KAIST), Viện
Nghiên cứu Điện tử và Viễn thông (ETRI) và Viện Phát triển Hàn Quốc (KDI) để
khắc phục tình trạng thiếu năng lực công nghệ. Hơn nữa, Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ
các chaebols trực tiếp và gián tiếp, giúp họ có được năng lực thực hiện các dự án khác
nhau.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: