ChưƠng VIII vật liệu gỗ



tải về 0.7 Mb.
Chế độ xem pdf
trang7/11
Chuyển đổi dữ liệu23.09.2022
Kích0.7 Mb.
#53284
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11
tiính toán chịu tải của gỗ Chuong 8

 
Bảng 8-2
Nhóm
Khối lượng thể tích, g/cm
3
I Từ 0,86 trở lên
II 
0,73 - 0,85 
III 
0,62 - 0,72 
IV 
0,55 - 0,61 

0,50 - 0,54 
VI Từ 0,49 trở xuống
8.5. Khuyết tật của gỗ 
8.5.1. Khuyết tật do cấu tạo không bình thường 
Dạng khuyết tật này khá phổ biến bao gồm: lệch tâm, vặn thớ, tróc lớp, 
hai tâm v.v…Các khuyết tật này (hình 8-7) đều làm giảm chất lượng của gỗ. 
 
 


8.5.2. Hư hại của gỗ do nấm 
 
 
Hình 8-7: Các dạng khuyết tật cơ bản của gỗ
 
Nấm có thể làm gỗ bị biến màu, bị mục và giảm tính chất cơ lý. Nấm có 
thể phá hoại ngay khi cây gỗ còn đang sống, cây gỗ đã chặt xuống hoặc tiếp 
tục phá hoại gỗ ngay trong kết cấu công trình. 
 
8.5.3. Hư hại của gỗ do côn trùng 
Dạng khuyết tật này xảy ra khi cây gỗ đang lớn và cây gỗ đã chặt xuống 
còn tươi cũng như đã khô. Mối mọt là những hư hại sâu bên trong gỗ. 
Khuyết tật này làm giảm chất lượng của gỗ rất nhiều, lâu dần sẽ phá hoại 
nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tuổi thọ của các kết cấu gỗ. 
 
8.6. Bảo quản gỗ 
8.6.1. Phòng chống nấm và côn trùng 
Phòng chống nấm và côn trùng nhằm mục đích kéo dài tuổi thọ của gỗ 
có thể đạt được bằng cách bảo vệ chúng khỏi bị ẩm nhờ các biện pháp sau: 
Sơn hoặc quét, ngâm chiết kiềm và ngâm tẩm các chất hóa học. 
Người ta dùng các loại mỡ, sơn hoặc dầu trùng hợp để sơn hoặc quét gỗ 
khô. Ngâm chiết kiềm là biện pháp tách nhựa cây bằng cách ngâm gỗ trong 
nước lạnh, trong nước nóng hoặc ngay cả khi thả trôi bè mảng trên sông, 
suối. 
Các chất hóa học dùng để ngâm tẩm là những chất gây độc cho nấm và 
côn trùng, bền vững, không hút ẩm và không bị nước rửa trôi. Nhưng chúng 


phải không độc đối với người và gia súc, không ăn mòn gỗ và kim loại, dễ 
ngấm vào gỗ, có mùi dễ chịu. 
Các chất chống mục, mọt có loại tan trong nước (thuốc muối). Có loại 
không tan trong nước (thuốc dầu) và loại bột nhão. 
Chất tan trong nước dùng để xử lý gỗ trong quá trình sử dụng không 
chịu tác dụng của nước và hơi ẩm. Các loại chất hay dùng là florua natri 
(NaF) và flosilicat natri (Na
2
SiF
6
), sunfat đồng (CuSO
4
), dinitrofenolat natri. 
NaF là chất bột màu, ít tan trong nước không mùi, không phá hoại gỗ và 
kim loại. Nó được sử dụng ở dạng dung dịch có nhiệt độ 15
0
C để tẩm và 
quét gỗ. Không nên sử dụng NaF trong hỗn hợp với vôi, bột phấn và thạch 
cao. 
Na
2
SiF
6
là chất bột ít tan trong nước. Tác dụng của nó giống như NaF. 
Nó được sử dụng ở trạng thái dung dịch nóng trong hỗn hợp với florua natri 
theo tỷ lệ 1 : 3 và cũng có thể dùng nó như một cấu tử trong bột nhão silicat. 
Dinitrofenolat natri không bay hơi, không hút ẩm, không ăn mòn kim 
loại, ở trạng thái khô dễ bị nở. Nó được sử dụng ở dạng dung dịch để xử lý 
bề mặt các sản phẩm gỗ dùng xa nguồn điện. 
Các chất không tan trong nước (thuốc dầu) do dễ chảy có mùi khó chịu 
nên việc sử dụng bị hạn chế. Chúng được dùng dể tẩm hoặc quét các sản 
phẩm gỗ ở ngoài trời, trong đất trong nước. Các loại thuốc dầu gồm có: 
creozot than đá và than bùn, nhựa than đá, dầu antraxen và dầu phiến thạch. 
Dầu creozot, một chất lỏng màu đen hoặc nâu, là chất chống mục, mối 
và mọt tốt, ít bị rửa trôi, không hút ẩm, không bay hơi, không phá hoại gỗ và 
kin loại, có thể cháy, khó thấm vào gỗ (chỉ được 1 - 2 mm), mùi hắc, tạo ra 
trên mặt gỗ một lớp bền làm gỗ khó khô. Khi dùng creozot phải đun nóng 
đến 50 - 60
0
C. 
Không nên dùng dầu creozot để tẩm gỗ bên trong nhà và kho thực 
phẩm, công trình ngầm và các kết cấu gần nguồn cháy. 
Dầu antraxen là một chất lỏng xanh vàng, có tác dụng chống mục, mối 
mọt mạnh; bay hơi chậm, ngâm chiết kiềm yếu, không phá hoại gỗ và kim 
loại. Dầu antraxen được sản xuất từ guđrông than đá. Tính chất và phạm vi 
sử dụng của nó giống như creozot. 
Bột nhão được phân ra loại bitum và loại silicat. 
Bột nhão bitum gồm có 30 - 50% florua natri, 5 - 7% bột than bùn, 
khoảng 30% bitum dầu lửa mác III và IV và khoảng 30% dầu xanh. Loại 
này dễ cháy, bền nước, có mùi khó chịu. Bột nhão bitum được dùng để sơn 
quét các chi tiết nằm trong môi trường ẩm ướt trong lòng đất hoặc lộ thiên. 
Bột nhão silicat chứa khoảng 15- 20% flosilicat natri, 65- 80% thủy tinh 
lỏng, 1 - 2% dầu creozot và đến 20% nước. Bột nhão silicat không bền nước 


và không cháy. Nó được sử dụng trong công nghiệp và xây dựng nhà ở cho 
những nơi khô ráo. 
Các phương pháp sử dụng thuốc là quét hoặc phun, tẩm trong bể nóng - 
lạnh hoặc trong bể có nhiệt độ cao, tẩm dưới áp lực v.v... 
Quét hoặc phun có tác dụng bảo vệ trên bề mặt. 
Tẩm gỗ trong bể nóng - lạnh bằng các loại thuốc muối và thuốc dầu 
được tiến hành như sau: Đầu tiên ngâm gỗ trong bể chứa dung dịch thuốc có 
nhiệt độ đến 98
0
C và giữ trong 3 - 5 giờ, sau đó chuyển sang bể lạnh có 
nhiệt độ của dung dịch muối tan là 15 - 20 
0
C và của chất dầu là 40 - 60
0
C. 
Phương pháp này có hiệu quả khi tẩm gỗ đã được sấy khô đến mức độ 
ẩm của lớp gỗ bìa không lớn hơn 30%. 
Tẩm gỗ trong bể có nhiệt độ cao (chứa petrolatum) dùng để bảo quản 
gỗ ướt. Gỗ được ngâm vào bể chứa petrolatum chảy lỏng có nhiệt độ 120 - 
140
0
C và giữ một thời gian để nung và sấy nóng, sau đó chuyển sang bể lạnh 
chứa thuốc dầu có nhiệt độ 65 - 75
0
C và giữ 24 - 28 giờ. 
Tẩm gỗ dưới áp lực tiến hành trong nồi thép hình trụ (nồi chưng) chứa 
thuốc nước và thuốc dầu với áp lực làm việc 6 - 8 atm. Đầu tiên người ta 
chất gỗ xẻ vào nồi chưng rồi đóng kín để tạo chân không sau đó bơm thuốc 
vào và nâng áp lực lên 6-8 at, rồi lại hạ áp lực xuống áp lực bình thường, rút 
thuốc thừa và rỡ gỗ ra. 
Khi tẩm gỗ bằng thuốc dầu cần phải đun thuốc trước để nhiệt độ trong 
thùng khi tẩm không thấp hơn nhiệt độ quy định. 

tải về 0.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương