phải không độc đối với người và gia súc, không ăn mòn gỗ và kim loại, dễ
ngấm vào gỗ, có mùi dễ chịu.
Các chất chống mục, mọt có loại tan trong nước (thuốc muối). Có loại
không tan trong nước (thuốc dầu) và loại bột nhão.
Chất tan trong nước dùng để xử lý gỗ trong quá trình sử dụng không
chịu tác dụng của nước và hơi ẩm. Các loại chất hay dùng là
florua natri
(NaF) và flosilicat natri (Na
2
SiF
6
), sunfat đồng (CuSO
4
), dinitrofenolat natri.
NaF là chất bột màu, ít tan trong nước không mùi, không phá hoại gỗ và
kim loại. Nó được sử dụng ở dạng dung dịch có nhiệt độ 15
0
C để tẩm và
quét gỗ. Không nên sử dụng NaF trong hỗn hợp với vôi, bột phấn và thạch
cao.
Na
2
SiF
6
là chất bột ít tan trong nước. Tác dụng của nó giống như NaF.
Nó được sử dụng ở trạng thái dung dịch nóng trong hỗn hợp với florua natri
theo tỷ lệ 1 : 3 và cũng có thể dùng nó như một cấu tử trong bột nhão silicat.
Dinitrofenolat natri không bay hơi, không hút ẩm, không ăn mòn kim
loại, ở trạng thái khô dễ bị nở. Nó được sử dụng ở dạng dung dịch để xử lý
bề mặt các sản phẩm gỗ dùng xa nguồn điện.
Các chất không tan trong nước (thuốc dầu) do dễ chảy có mùi khó chịu
nên việc sử dụng bị hạn chế. Chúng được dùng dể tẩm hoặc quét các sản
phẩm gỗ ở ngoài trời, trong đất trong nước. Các loại thuốc dầu gồm có:
creozot than đá và than bùn, nhựa than đá, dầu antraxen và dầu phiến thạch.
Dầu creozot, một chất lỏng màu đen hoặc nâu, là chất chống mục, mối
và mọt tốt, ít bị rửa trôi, không hút ẩm, không bay hơi, không phá hoại gỗ và
kin loại, có thể cháy, khó thấm vào gỗ (chỉ được 1 - 2 mm), mùi hắc, tạo ra
trên mặt gỗ một lớp bền làm gỗ khó khô. Khi dùng creozot phải đun nóng
đến 50 - 60
0
C.
Không nên dùng dầu creozot để tẩm gỗ bên trong nhà và kho thực
phẩm, công trình ngầm và các kết cấu gần nguồn cháy.
Dầu antraxen là một chất lỏng xanh vàng, có tác dụng chống mục, mối
mọt mạnh; bay hơi chậm, ngâm chiết kiềm yếu, không phá hoại gỗ và kim
loại. Dầu antraxen được sản xuất từ guđrông than đá. Tính chất và phạm vi
sử dụng của nó giống như creozot.
Bột nhão được phân ra loại bitum và loại silicat.
Bột nhão bitum gồm có 30 - 50%
florua natri, 5 - 7% bột than bùn,
khoảng 30% bitum dầu lửa mác III và IV và khoảng 30% dầu xanh. Loại
này dễ cháy, bền nước, có mùi khó chịu. Bột nhão bitum được dùng để sơn
quét các chi tiết nằm trong môi trường ẩm ướt trong lòng đất hoặc lộ thiên.
Bột nhão silicat chứa khoảng 15- 20%
flosilicat natri, 65- 80% thủy tinh
lỏng, 1 - 2% dầu creozot và đến 20% nước. Bột nhão silicat không bền nước
và không cháy. Nó được sử dụng trong công nghiệp và xây dựng nhà ở cho
những nơi khô ráo.
Các phương pháp sử dụng thuốc là quét hoặc phun, tẩm trong bể nóng -
lạnh hoặc trong bể có nhiệt độ cao, tẩm dưới áp lực v.v...
Quét hoặc phun có tác dụng bảo vệ trên bề mặt.
Tẩm gỗ trong bể nóng - lạnh bằng các loại thuốc muối và thuốc dầu
được tiến hành như sau: Đầu tiên ngâm gỗ trong bể chứa dung dịch thuốc có
nhiệt độ đến 98
0
C và giữ trong 3 - 5 giờ, sau đó chuyển sang bể lạnh có
nhiệt độ của dung dịch muối tan là 15 - 20
0
C và của chất dầu là 40 - 60
0
C.
Phương pháp này có hiệu quả khi tẩm gỗ đã được sấy khô đến mức độ
ẩm của lớp gỗ bìa không lớn hơn 30%.
Tẩm gỗ trong bể có nhiệt độ cao (chứa petrolatum) dùng để bảo quản
gỗ ướt. Gỗ được ngâm vào bể chứa petrolatum chảy lỏng có nhiệt độ 120 -
140
0
C và giữ một thời gian để nung và sấy nóng, sau đó chuyển sang bể lạnh
chứa thuốc dầu có nhiệt độ 65 - 75
0
C và giữ 24 - 28 giờ.
Tẩm gỗ dưới áp lực tiến hành trong nồi thép hình trụ (nồi chưng) chứa
thuốc nước và thuốc dầu với áp lực làm việc 6 - 8 atm. Đầu tiên người ta
chất gỗ xẻ vào nồi chưng rồi đóng kín để tạo chân không sau đó bơm thuốc
vào và nâng áp lực lên 6-8 at, rồi lại hạ áp lực xuống áp lực bình thường, rút
thuốc thừa và rỡ gỗ ra.
Khi tẩm gỗ bằng thuốc dầu cần phải đun thuốc trước để nhiệt độ trong
thùng khi tẩm không thấp hơn nhiệt độ quy định.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: