18
kiến lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp một cách rộng rãi, toàn thể các tầng
lớp nhân dân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn quốc nữa.
Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại (1896) cũng là mốc chấm dứt vai trò lãnh
đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nƣớc chống thực dân Pháp ở Việt
Nam. Đầu thế kỷ XX, Vua Thành Thái và Vua Duy Tân tiếp tục đấu tranh chống Pháp,
trong đó có khởi nghĩa của Vua Duy Tân (5-1916).
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở vùng miền núi và trung du phía
Bắc,
phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) dƣới sự lãnh đạo của vị thủ lĩnh nông
dân Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân đã xây dựng lực lƣợng chiến đấu, lập căn cứ và đấu
tranh kiên cƣờng chống thực dân Pháp. Nhƣng phong trào của Hoàng Hoa Thám vẫn
mang nặng “cốt cách phong kiến”, không có khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo
thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuối cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nƣớc Việt Nam chịu ảnh hƣởng, tác
động của
trào lưu dân chủ tư sản, tiêu biểu là xu hƣớng bạo động của Phan Bội Châu, xu
hƣớng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong trào tiểu tƣ sản trí thức của tổ
chức Việt Nam Quốc dân đảng (từ tháng 12-1927 đến tháng 2-1930) đã tiếp tục diễn ra
rộng khắp các tỉnh Bắc Kỳ, nhƣng tất cả đều không thành công.
Xu hƣớng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo: Với chủ trƣơng tập hợp
lực lƣợng với phƣơng pháp bạo động chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị nhƣ ở Nhật
Bản, phong trào theo xu hƣớng này tổ chức đƣa thanh niên yêu nƣớc Việt Nam sang Nhật
Bản học tập (gọi là phong trào “
Đông Du”). Đến năm 1908, Chính phủ Nhật Bản câu kết
với thực dân Pháp trục xuất lƣu học sinh Việt Nam và những ngƣời đứng đầu.
Sau khi
phong trào Đông Du thất bại, với sự ảnh hƣởng của Cách mạng Tân Hợi (1911)
Trung
Quốc, năm 1912 Phan Bội Châu lập tổ chức
Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ là vũ
trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nƣớc cộng hòa dân quốc
Việt Nam. Nhƣng chƣơng trình, kế hoạch hoạt động của Hội lại thiếu rõ ràng. Cuối năm
1913, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam tại Trung Quốc cho tới đầu năm 1917 và
sau này bị quản chế tại Huế cho đến khi ông mất (1940). Ảnh hƣởng xu hƣớng bạo động
của tổ chức
Việt Nam Quang phục hội đối với phong trào yêu nƣớc Việt Nam đến đây
chấm dứt.
Xu hƣớng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan Châu Trinh và những ngƣời cùng chí
hƣớng muốn giành độc lập cho dân tộc nhƣng không đi theo con đƣờng bạo động nhƣ
Phan Bội Châu, mà chủ trƣơng cải cách đất nƣớc. Phan Châu Trinh cho rằng “bất bạo
động, bạo động tắc tử”; phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, phải bãi bỏ chế độ
quân chủ, thực hiện dân quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Để thực hiện
đƣợc chủ trƣơng ấy, Phan Châu Trinh đã đề nghị Nhà nƣớc “bảo hộ” Pháp tiến hành cải
20
triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chƣa có một tổ chức vững mạnh để
tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chƣa xác định đƣợc phƣơng pháp đấu tranh
thích hợp để đánh đổ kẻ thù.
Các phong trào yêu nƣớc ở Việt Nam cho đến những năm 20 của thế kỷ XX đều thất
bại, nhƣng đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nƣớc của nhân dân, bồi đắp thêm
cho chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nƣớc, nhất
là lớp thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một con đƣờng mới, một giải pháp cứu nƣớc,
giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ
yêu nƣớc đƣơng thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đƣờng lối cứu
nƣớc đúng đắn để giải phóng dân tộc.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: