Children With Starving Brains



tải về 0.74 Mb.
trang2/8
Chuyển đổi dữ liệu07.01.2018
Kích0.74 Mb.
#35824
1   2   3   4   5   6   7   8

Thủy ngân: Thủy ngân, loại hóa chất được tìm thấy trong các nhiệt kế loại cũ, tồn tại khắp nơi trong môi trường. Theo như thông tin của tạp chí “U.S. News & World Report”, chuyên gia chất độc David Brown đã chuẩn bị một nghiên cứu về mức độ nhiễm thủy ngân trong ao hồ của tám bang Đông bắc Mỹ và ba tỉnh thuộc Canada. Ông tìm thấy hàm lượng thủy ngân trong cá của các hồ nguyên sinh cao hơn rất nhiều so với dự đoán. Ông Brown kết luận rằng “một phụ nữ mang thai chỉ cần ăn một con cá từ một trong các hồ trên đã có thể, theo lý thuyết, hấp thụ lượng thủy ngân cần thiết để làm tổn hại đến thai nhi của mình." (16)

Một nguồn nhiễm thủy ngân khác có thể đến từ hợp chất trám răng đối với các bà mẹ trẻ. Không ai nghi ngờ gì nguy cơ tiềm ẩn khi đó, đến khi Elizabeth, con gái tôi, đi trám răng có chứa thủy ngân trong miếng trám khi cô bé mang thai Chelsey được một tháng. Một số quốc gia khác như Thụy Điển và Canada, các giới hạn ngiêm ngặt đối với các hợp chất trám răng cho các phụ nữ sắp làm mẹ. Dựa trên các hiểu biết về thủy ngân, chúng tôi tin rằng những miếng trám răng đó có thể đã làm gia tăng khả năng gây bệnh tự kỷ cho cháu Chelsey. Không quan trọng tự kỷ phát sinh từ đường nào hay tổng hợp các cách nào, chúng tôi tin rằng số lượng lớn dịch bệnh ASD nói chung là hệ quả trực tiếp của thủy ngân hay các kim loại nặng khác mà cơ thể con cái chúng ta đã hấp thụ phải chúng. Một phần quan trọng khác trong công việc của tôi hiện hành là nghiên cứu sâu về cách đánh giá và điều trị cho trẻ em bị nhiễm kim loại độc hại, như sẽ trình bày trong chương 11.

TIÊM PHÒNG

Đối với trẻ sơ sinh và trẻ đang chập chững biết đi có tính nhạy cảm tăng cao, chích ngừa bằng virút sống có thể góp phần gia tăng gây tự kỷ ở trẻ. Một tác nhân khác là quá trình tạo vắc-xin chắc chắn có cồn thủy ngân (dưới dạng thimerosal) và nó vẫn còn được dùng bảo quản các mũi vắc-xin cho trẻ sơ sinh. Sự tương quan giữa các đặc trưng của tự kỷ và các triệu chứng nhiễm thủy ngân là rất giống nhau bao hàm cả các thay đổi của tính miễn dịch. Thực vậy, tất cả các đặc trưng liên quan đến tự kỷ đã được xem xét kỹ trong tạp chí về nhiễm độc thủy ngân (xem phụ lục B và C).

____________________________________________________________



16 Shelia Kaplan and Jim Morris, "Kids at Risk: Chemicals in the Environment Come Under Scrutiny as the Number of Childhood Learning Problems Soars, " U.S. News & World Report, June 19, 2000, p. 51.

Thủy ngân đã được dùng như hoạt chất chống nấm mốc trong nhiều năm, nhưng do tính độc tố cao, nó đã bị loại bỏ khỏi sơn năm 1991. Đáng tiếc là không ai nghĩ tới việc loại bỏ cồn thủy ngân trong rất nhiều loại vắc-xin để giúp bảo vệ trẻ em chúng ta chống lại bệnh tật từ khi mới sinh. Thủy ngân trong vắc-xin là một thành phần của Thimerosal, có tới 49.6% trọng lượng cồn thủy ngân và được dùng để bảo quản vắc-xin khỏi bị hỏng khi dùng nhiều lần. Cồn thủy ngân trong vắc-xin có thể phá hủy tính mạng hàng ngàn trẻ em và gia đình chúng. Thực vậy, các nhóm trẻ bị chẩn đoán ASD đã phải đối mặt với thủy ngân từ vắc-xin nhiều hơn nhiều so với những gì mà EPD cho là an toàn đối với người lớn. Bởi vì trẻ em ngày nay phải chích ngừa nhiều hơn (22 lần trước khi được 2 tuổi).

Trước năm 1991, trẻ em tập bò đã phải đối mặt với hơi thủy ngân từ các sản phẩm sơn gia dụng. Như chúng ta đã nói, EDA đã gây áp lực để các nhà sản xuất sơn phải loại bỏ thủy ngân ra khỏi sản phẩm sơn gia dụng. Các nhà sản xuất sơn đã tuân thủ. Thật là một thảm họa nực cười khi cũng trong năm đó chính quyền liên bang, vì lý do sức khỏe cộng đồng, đã làm một việc chưa từng có là ra lệnh bắt buộc phải chích ngừa văc-xin viêm gan siêu vi B cho tất cả trẻ sơ sinh. Cho đến năm 2001, Văc-xin đó vẫn có chứa Thimerosal. Như vậy, một cơ quan chính phủ này bắt loại bỏ thủy ngân ra khỏi sản phẩm sơn, còn cơ quan khác lại bắt trẻ sơ sinh phải được chích ngừa viêm gan siêu vi B có chứa thủy ngân. Theo như khuyến cáo của CDC về tăng cường hệ miễn dịch, trẻ sơ sinh nếu chích đủ các vắc-xin theo yêu cầu thì sẽ bị nhiễm 12.5µg thủy ngân, 62.4µg khi được 2 tháng tuổi, 50µg khi được 4 tháng, 62.5µg khi được 6 tháng, và 50µg khi được khoảng 18 tháng tuổi. Chúng tôi tin rằng thủy ngân có trong vắc-xin viêm gan siêu vi B chích cho trẻ sơ sinh trong khi hệ miễn dịch và gan của trẻ đang còn non nớt đóng vai trò chất xúc tác làm gia tăng các hiện tượng suy giảm chức năng của hệ tiêu hóa và hệ thần kinh mà chúng ta đã chứng kiến trong đại dịch tự kỷ này. Trong khi mối tương quan nhân quả giữa thimerosal với dịch bệnh tự kỷ trên vẫn chưa được chứng minh rõ ràng, song những số liệu dịch tễ học đã xác nhận mối quan hệ này. Gần đây, trường đại học Y khoa đã kết luận rằng giả thuyết trên là hợp lý. Tôi cảm nhận rằng nó chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi những tác dụng ngược lại của thimerosal được công bố.

Khi lần đầu tiên nhà vật lý học người Anh Andrew Wakefield đưa ra giả thuyết về mối quan hệ có thể có giữa văc-xin MMR, bệnh đường ruột, và tự kỷ, công việc của ông đã bị phản đối từ nhiều phía. Tuy nhiên những nghiên cứu đặc biệt về viêm mô đường tiêu hóa trong một số nhóm trẻ tự kỷ đã chứng minh rằng vi-rút sởi có trong mô hệ tiêu hóa và rằng vi-rút sởi đó thực ra là từ văc-xin.­­ (17) Các nghiên cứu khác đã đưa ra mối quan hệ giữa ASD và sự tàn phá đường ruột là do vi rút sởi. Nhà nghiên cứu hệ tiêu hóa của trường đại học Harvard, Timothy Buie, gần đây theo dõi một nhóm 400 trẻ em và thông báo rằng một nhóm nhỏ trẻ em đúng là đã có sự ra tăng lymphoid trong ruột mà đã được mô tả bởi Wakefield và các cộng sự. (18) Quan trọng hơn, các nhà nghiên cứu độc lập Nhật bản ở Kawashima báo cáo rằng các chuỗi vắc-xin MV cũng có hiện diện trong nhân đơn tế bào máu trong nhóm trẻ tự kỷ, (19) mà nó có thể góp phần hạn chế máu trong não và làm giảm khả năng chống lại vi-rút của hệ thần kinh trung ương.

Phần lớn trẻ em được chích ngừa vắc-xin sởi có vi-rút sởi đã bị làm yếu. Vi-rút sởi đã lây nhiễm 40 triệu người và giết chết một triệu người mỗi năm, ngăn chặn hệ miễn dịch và lây nhiễm hệ thần kinh trung ương. Hầu hết các cá nhân bị nhiễm các loại vi-rút sởi đang sống trong các nước chậm phát triển. Về tổng thể, vắc-xin trị bệnh sởi đã cứu sống hàng triệu người khác. Mặc dù vậy, vắc-xin trị bệnh sởi hiện tại được sử dụng trong tổ hợp 3 trong 1 bao gồm cả trị quai bị và sởi Đức. Loại vắc-xin tổng hợp đó được gọi là MMR. MMR được xem là đã cứu được tính mạng của hàng triệu sinh mạng, nhưng – theo các số liệu về bệnh đường ruột trong mối quan hệ với chuỗi vắc-xin trị bệnh sởi – MMR cũng có thể đã góp phần vào việc gây bệnh tự kỷ trong hàng ngàn trẻ em. Dr. Andrew, người đã làm việc như nhà nghiên cứu / chuyên gia bệnh đường tiêu hóa tại Bệnh viện Hoàng gia London, cũng tin như vậy.

Nhà nghiên cứu đáng kính đó cũng đã tìm ra mối liên hệ có thể giữa tự kỷ và các loại chuỗi vắc-xin trị bệnh sởi nhất định với vắc-xin MMR. Như đã nêu trên, Dr. Wakefield đã tìm thấy gien vi-rút có nguồn gốc từ vắc-xin trong mô ruột và nhân đơn tế bào máu của một nhóm trẻ tự kỷ. Những kết quả đó gây ra một dạng tự kỷ mà trong đó MMR có thể làm gia tăng phản ứng tự miễn nhiễm của cơ thể chống lại my­elin basic protein (MBP) trong một nhóm trẻ nhạy cảm. Mô hình đó phù hợp với các số liệu báo cáo của một nhà nghiên cứu lâu năm về tự kỷ V.K Singh. Những báo cáo của ông mô tả rằng một tỉ lệ cao các trẻ em tự kỷ có độ chuẩn tăng chống lại MBP và rằng những độ chuẩn đó thường hay xuất hiện lại khi có độ chuẩn tăng chống lại vi-rút sởi hoặc vi-rút gây bệnh hyrpes (HHV-6).

____________________________________________________________

17 Wakefield, A.J. et al., "Ileal-Iymphoid-nodular hyperplasia, non-specific colitis, and per­vasive developmental disorder in children", Lancet 1998 Feb. 28;351 (9103):637- 41

l8 wvw.feat.org/FEATnews: Report of Oasis 2001 Conference for Autism in Portland OR "Harvard Clinic Scientist Finds Gut/Autism Link, Like Wakefield Findings"

Rất nhiều chuyên gia, trong đó có Bernard Rimland, tin rằng những kết quả tìm được của Dr. Wake­field đã làm sáng tỏ nguyên nhân gây bệnh trong các nhóm trẻ tự kỷ. Bất chấp sự phản đối của các quan chức y tế mang tính trái ngược, rất nhiều các cha mẹ, các nhà vật lý, các nhà nghiên cứu tin rằng (a) vắc-xin MMR có thể là nguyên nhân chính góp phần gia tăng tự kỷ, và (b) hậu quả trái ngược có thể xảy ra nếu các mũi vắc-xin chích kèm (ví dụ MMR kèm thêm DPT trong cùng một ngày), và trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ tăng nhanh tính nhạy cảm – bất kể do phản ứng hay do di truyền – trong khi chích vắc-xin.+++

MÔ HÌNH TỰ MIỄN DỊCH / DỊ ỨNG

Khi mô tả y - sinh học gia tăng, đã thật sự sáng tỏ rằng trẻ em tự kỷ đựơc phân loại theo thừng nhóm. Ví dụ, một số trẻ tự kỷ này gia tăng độ chuẩn chống lại nhiều loại proteins não. Tương tự, rất nhiều trẻ có cùng bệnh tự miễn dịch hoặc dị ứng; rất nhiều trẻ tự kỷ tự chúng có biểu hiện hay triệu chứng của tính tự miễn nhiễm hay dị ứng. (20)

Dị ứng xảy ra khi hệ miễn dịch phản ứng quá mức đối với những gì mà nó có thể chống lại các tác nhân xâm hại bên ngoài. Khi một chất gây cho hệ miễn dịch của cơ thể phản ứng lại, thì chất đó được gọi là “dị ứng nguyên” hay “chất gây dị ứng”. Khi hít phải một dị ứng nguyên như bụi hay phấn hoa, thì ngay lập tức hệ miễn dịch xem nó như kẻ xâm lược bên ngoài cơ thể. Hệ miễn dịch khi đó tạo ra chất kháng thể để loại trừ kẻ xâm lược. Ví dụ, khi phản ứng lại sự xâm nhập của phấn hoa như cỏ phấn hương chảng hạn, một chất kháng thể gọi là “globulin miễn dịch E” được tạo ra. Kháng thể globulin miễn dịch E ghép chúng vào các mô tế bào – gọi là tế bào lớn – và vào các tế bào khác trong máu – gọi là basophils. Các tế bào lớn và basophils (thường trong bạch cầu) tìm và diệt các kẻ xâm lược qua hệ tuần hoàn, chuyển globulin miễn dịch E đến mục tiêu. Khi tìm thấy kẻ xâm lược, globulin miễn dịch E liền dính mình vào chúng và các tế bào lớn cũng như basophils tiết ra kháng thể histamine. Hóa chất này gây ra sưng tấy trong mũi và tạo ra các chất nhầy. Người bị đau phải chịu đựng sự xung huyết, sổ mũi, mắt bị xưng tấy và đau rát, và ngứa ngáy ở những vùng da nhiễm dị ứng. Ta uống thuốc chống dị ứng để chống lại những triệu chứng đó, nhưng đó lại là những dấu hiệu làm bẫy chất dị ứng có trong chất nhầy.

_____________________________________________________________



19 Kawashima H. et al., "Detection and sequencing of measles virus from peripheral mononuclear cells from patients with inflammatory bowel disease." Dig. Dis. Sci. 2000

20 Comi, A.M. et al., "Familial clustering of autoimmune disorders and evaluation of medi­cal risk factors in autism," Jour. Child. Neurol. 1999 Jun; 14(6); 338-94

Rất nhiều trẻ tự kỷ ít nhất có biểu hiện sự suy thoái hệ miễn dịch, trong một số trường hợp là phản ứng thái quá, trong các trường hợp khác thì quá

yếu kém. Một số nhà nghiên cứu và vật lý giả thiết rằng khi một trẻ nhạy cảm nào đó chịu bệnh tật do môi trường như đối mặt với thủy ngân hay kể cả các vi-rút đã bị làm yếu trong vắc-xin, hệ miễn dịch của đứa trẻ đó sẽ tấn công không những các kháng nguyên thực tế, mà nó cũng tấn công cả những các chất giống như kháng nguyên nhưng thực chất chúng lại là các cấu chúc phân tử bên trong não bộ của trẻ.

Lời cảnh báo rằng trong các thử nghiệm máu của nhiều trẻ tự kỷ đã tìm thấy các chất protein tự kháng thể trong hệ thần kinh được biết đến như là protein tủy cơ bản (MBP). (21) Trong một nghiên cứu được giám sát chặt chẽ (22 ) so sánh 33 trẻ em tự kỷ với 18 trẻ em bình thường, 20 trẻ thần kinh chậm phát triển, và 12 trẻ bị hội chứng Down, kháng thể được tìm thấy trong 19 trên 33 (58%) trẻ bị tự kỷ, nhưng chỉ trong 8 trên 88 (9%) trẻ ở các lĩnh vực khác. Đó là một sự khám phá thú vị bởi vì quá trình tạo tủy là phần cơ bản của sự phát triển não bộ con người. Dây thần kinh chỉ có thể tạo năng lượng xung hiệu quả khi nó được bao bọc thích hợp bởi tủy sống. Giống như lõi dây dẫn điện được bao bọc kỹ bởi vỏ cách điện, lớp mỡ bên ngoài của tủy giúp giữ cho các xung điện gởi đi được bảo toàn chính xác, như vậy sẽ giúp duy trì tính toàn vẹn các tín hiệu điện của dây thần kinh. Khi lớp vỏ cách điện của dây dẫn bị phá vỡ, dòng điện có thể bị ngắt quãng và sẽ xảy ra hiện tượng chạm mạch. Khi hệ miễn dịch tấn công tủy của cơ thể, hiện tượng chạm mạch có thể xảy ra bên trong não bộ. Các trục dây thần kinh sẽ bắt đầu hoạt động không bình thường.

Những kết quả tìm được về hiện tượng tự miễn dịch trong bệnh tự kỷ tạo điều kiện giúp đỡ cho các nhóm bệnh và mô hình bệnh khác. Như đã nói ở trên, chích ngừa vắc-xin có cồn thủy ngân hay có vi-rút sống có thể gây hại cho trẻ như làm thay đổi chức năng hệ miễn dịch, làm suy yếu khả năng hấp thụ dinh dưỡng, và tăng nhanh tính nhạy cảm (23). Ngoài ra, số liệu về sự gia tăng trẻ nhiễm bệnh đã ám chỉ rằng một số trẻ tự kỷ đã mắc bệnh kinh niên, có vẻ như cận lâm sàng mà nó là những nguyên nhân quan trọng đối với các hiện tương xấu đi của trẻ.

_____________________________________________________________



21 Singh VK, Lin SX, Yang VC. Serological association of measles virus and human herpes-virus-6 with brain autoantibodies in autism. Clin Immunol Immunopathol 1998 Oct; 89(1): pp. 105-8

22 Brain, Behavior, and Immunity (Volume 7, pp. 97-103. 1993).

23 Kawashima, H., et al., "Detection and sequencing of measles virus from peripheral mononuclear cells from patients with inflammatory bowel disease and autism." Dept. of Pediatrics, Tokyo Medical Univ., Japan, Dig. Dis. Sci. 2000 Apr;45(4): 723-9

MÔ HÌNH VI-RÚT

Dấu hiệu nhiễm vi-rút trong ASD đã được thiết lập rất tốt bằng cả ngân hàng dữ liệu bệnh án. Sidney Baker, MD, và Michael Gold­berg, MD là những nhà vật lý trị liệu đã định hướng tới 2 loại bệnh tự kỷ chính. Cả hai đều thông báo rằng khoảng 30% các bệnh nhân tự kỷ của họ phản ứng tích cực với acyclovir hoặc Valtrex (một dạng khác của acyclovir). Các nghiên cứu tin cậy gần đây đã chỉ ra rằng, với hàm lượng giảm dần, acyclovir có hiệu quả chống lại vi-rút expet (bệnh dộp da) đơn giản, vi-rút thủy đậu, vi-rút Epstein-Barr, và nhóm vi-rút 6 gây bệnh herpes ở người (HSV, VZV, EBV, HHV-6). Với kinh nghiệm điều trị bệnh của mình, mặc dù còn nhiều hạn chế, tôi cũng có các kết quả tương tự như những gì mà Baker và Goldberg đã báo cáo. Khi tôi mới bắt đầu tiếp xúc với những bệnh nhân tự kỷ, tôi đã kê đơn acyclovir hoặc Valtrex cho tất cả những bệnh nhân có độ chuẩn vi-rút tăng nhanh, và tôi phát hiện các phản ứng tích cực trong một phần ba trong số họ. Tôi cũng mới hiểu ra điều đó, và có thể tôi đã không tăng liều lượng tương đối lâu cho một số trẻ. Đó là cách tiếp cận điều trị chính của tôi sau ăn kiêng, dinh dưỡng, và chữa trị đường ruột trước khi bắt đầu điều trị loại bỏ kim loại nặng.

Như chúng ta đã đề cập trong chương 8, những khám phá y học có nhiều hàm ý trong chữa trị trẻ ASD. Đầu tiên, acyclovir lành tính đối với phần lớn trẻ em và người lớn. Và như vậy thử dùng acyclovir là dễ dàng trong đời sống. Thứ hai, một số vi-rút herpes có đi kèm theo sự suy giảm khả năng phát âm, nguy cơ tai biến, demyelination, và các đặc điểm khác của tự kỷ. Tất cả những điều đó cần phải được nhìn nhận trong ngữ cảnh của toàn cảnh bức tranh bệnh tình của trẻ. Bệnh lý đường ruột phải được giảm thiểu, khả năng hấp thụ dinh dưỡng phải được duy trì cao nhất, và kim loại nặng phải bị loại bỏ bởi các nhà vật lý trị liệu. Hiệu quả đích thực của những phương pháp điều trị này là hiện trạng hệ miễn dịch của trẻ có thể được nâng cao đến mức mà những sự nhiễm cận lâm sàng của trẻ có thể loại trừ miễn nhiễm dễ dàng. Bình thường, với các trường hợp ngoại lệ đáng chú ý phụ thuộc vào bức tranh bệnh lý và những kết quả thí nghiệm, kế hoạch chữa trị của tôi luôn luôn bắt đầu bằng phương pháp chữa trị đường ruột và tối ưu hóa khả năng hấp thụ dinh dưỡng trước tiên, sau đó sẽ loại bỏ kim loại nặng độc hại nếu có triệu chứng nhiễm kim loại nặng, và xử lý vi-rút sau đó. Mặc dù vậy, kinh nghiệm điều trị đã chỉ cho tôi thấy rằng một số trẻ em cần phải được xử lý vi-rút như acyclovir hoặc các phương pháp trị vi-rút dự phòng khác ngay lập tức song song với hay thậm chí còn trước khi xử lý kim loại nặng. Từ thâm tâm tôi không bao giờ nghi ngờ rằng vi-rút là đối tượng lớn trong các bức tranh bệnh lý của trẻ và cả bằng chứng tương lai về sự rối loạn hệ miễn dịch mà trẻ em đang phải cam chịu. Bởi lẽ rằng nhiễm vi-rút rất khó điều trị, tôi vẫn muốn loại bỏ chất độc và tối ưu hệ miễn dịch của trẻ với hy vọng hệ miễn dịch của chúng có thể bắt đầu chống lại vi-rút hiệu quả hơn.

MÔ HÌNH ĐƯỜNG GLUTEN / CASEIN, ENZYME HIỆU QUẢ, VÀ SỰ PHÁT TRIỂN MEN QUÁ MỨC

Rất nhiều trẻ tự kỷ không có khả năng tiêu hóa đường gluten và / hoặc đường casein. Đường Gluten được biết đến như là hỗn hợp của protein có chứa trong lúa mì và trong rất nhiều các sản phẩm nông nghiệp khác. Đường Casein chính là protein có trong sữa. Alan Friedman, PhD, và một số nhà nghiên cứu khác giả thiết rằng cần một men enzyme thiết yếu để hấp thụ các hợp chất (“DPP-IV”) bị thiếu hụt (có thể do gen di truyền) hoặc không được kích hoạt, rất có thể là do cơ cấu tự miễn dịch. Mô hình của Friedman thừa nhận rằng sự thiếu hụt hay không hoạt động của các enzyme DPP-IV đã tạo cho opioid hay morphine (hoạt chất được biết đến như dermorphine - chất gây nghiện) tích tụ trong cơ thể. Sự tạo thành và tích tụ của các hoạt chất đó có thể là một nguyên nhân gây cho trẻ tự kỷ thường hay “say - thăng - phê”. Một nét đặc trưng của tự kỷ là trẻ tự kỷ thường hay không để ý tới người khác và dường như chỉ sống trong thế giới riêng của chúng. Bất kể giả thiết của Friedman, rất nhiều trẻ tự kỷ có ít hay nhiều tính nhạy cảm thực phẩm thái quá như được xác định rõ trong các xét nghiệm dị ứng thực phẩm và trong quá trình loại bỏ ăn kiêng. Phần lớn các nghiên cứu trẻ tự kỷ chỉ ra rằng chúng có chứng viêm hệ tiêu hóa, và chúng tôi tin rằng một số loại thức ăn nhất định mà trẻ có nhạy cảm như có đường gluten và casein kích thích ruột của chúng. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng thuốc kháng sinh cũng gây kích thích ruột cũng như làm suy yếu hệ miễn dịch. Phương pháp điều trị trước tiên và cơ bản cho các trường hợp mất khả năng hấp thụ đường gluten và casein là chế độ ăn kiêng không đường (Gluten Free / Casein Free – GF/CF). Chương 5 mô tả cách bắt đầu và duy trì cho con bạn ăn kiêng.

Trẻ em có hệ miễn dịch bị suy yếu và viêm ruột thường dễ bị tổn thương với sự xâm nhập của nấm, đặc biệt là men của các loài nấm Candida. Các xét nghiệm phân trong nông nghiệp thường phát hiện sự phát triển quá nhanh của nấm Candida. Thực vậy, một số nghiên cứu chỉ ra rằng các loài nấm Candida và các loại nấm khác có thể là nguyên nhân quan trọng gây ra nhiều hành vi vô lễ và bất thường trong sức khỏe mà chúng ta vẫn thường thấy ở bệnh nhân trẻ tự kỷ. Rất nhiều lịch sử bệnh án của trẻ em là dẫn chứng cho nhiều tình tiết của nhiễm bệnh về tai và sử dụng thuốc kháng sinh liên tục. Các hợp chất thủy ngân hữu cơ có thể ảnh hưởng tồi tệ đến màng ruột. Chính vì thế nên cồn thủy ngân trong vắc-xin – tồn tại trong cơ thể chủ yếu qua đường ruột – cũng có thể làm tổn hại màng ruột. Khi bị ngộ độc cồn thủy ngân kèm theo lạm dụng kháng sinh sẽ làm xấu đi khả năng của ruột và ảnh hưởng tới men ruột.

Những loại men trên khi phát triển thường tiết ra chất độc. William Shaw, PhD, người đã dẫn dắt một nghiên cứu đột phá về men và ảnh hưởng của men đối với trẻ tự kỷ, chỉ ra rằng những chất độc đó có khả năng làm suy yếu hệ thần kinh trung ương và hệ miễn dịch. (24)

Một mối quan hệ tồi tệ nữa với thủy ngân là nó cùng các kim loại nặng khác phá hủy bạch cầu và neutrophils, tế bào máu trắng đặc biệt bảo vệ cơ thể chống lại nấm và vi khuẩn.

Một số chứng bệnh do nấm Candida phát triển quá mức được biết đến như bệnh ỉa chảy, đau dạ dày, chứng ứa khí, chứng táo bón, đau đầu, mệt mỏi, và suy nhược sức khỏe. Các vấn đề về hành vi ứng xử bao gồm khó tập trung, hiếu động quá thái, trí nhớ kém, hay cáu kỉnh, và hay kích động.

Có rất nhiều phương pháp điều trị an toàn men phát triển quá mức. Nó bao gồm sử dụng “probiotic” (dinh dưỡng bổ sung có khả năng phục hồi các vi khuẩn có lợi trong ruột) và dùng thuốc chống nấm các đơn thuốc nhẹ chống lại nấm Candida bướng bỉnh. Một số trẻ em cần có chế độ ăn kiêng đặc biệt, thức ăn ít đường và ít khả năng tạo nhiều men. Sau khi chữa trị xong bệnh do nấm men, tôi đã chứng kiến sự tiến bộ trong các bệnh nhân từ việc giảm tính hiếu động thái quá và tăng khả năng giao tiếp bằng mắt, tính tập trung tốt hơn, và tăng nhanh khả năng giao tiếp ngôn ngữ.

LÝ THUYẾT THE METALLOTHIONEIN

Phần này sẽ thảo luận về nghiên cứu của William Walsh, PhD, một nhà hóa - sinh học nổi tiếng đang làm việc tại Trung tâm điều trị Pfeiffer ở IL. Theo như những phát hiện của ông từ hàng ngàn bệnh nhân và gần một ngàn trẻ tự kỷ, TS. Walsh giả thiết rằng một chuỗi nhỏ axít amin còn gọi là metallothionein bị “thất lạc liên kết” trong sự rối loạn chức năng. Metallothionein (MT) là một loại protein có rất nhiều nhiệm vụ trong cơ thể con người. (25)

24 Shaw, William, Chapter 3, Biological Treatments for Autism and FDD, revised 2002 edition. Lenexa KS 66214

25 Booklet, "Metallothionein and Autism."Pfeiffer Treatment Center, Naperville II. Oct01 Nó tham gia vào:


  • Điều chỉnh lượng thiếc và đồng trong máu.

  • Khử chất độc từ thủy ngân và các kim loại độc khác

  • Phát triển và điều phối chức năng của hệ miễn dịch và các nơ-ron thần kinh trong não.

  • Sản sinh enzyme để hòa tan đường gluten và casein.

  • Phản ứng với quá trình viêm nhiễm đường ruột.

MT cũng tham gia vào vùng hippocampus trong não mà nó điều khiển hành vi, trí nhớ, cảm xúc, và giao tiếp. MT là một chất sống còn cho cơ thể mà TS. Walsh kết luận rằng sự rối loạn của MT có thể là nguyên nhân chính gây ra tự kỷ. Ông giả thiết rằng tự kỷ là kết quả của tổng hợp biến dạng gen hay MT bị sai chức năng với những chấn thương do môi trường trong giai đoạn mới phát triển mà nó đã làm mất khả năng hoạt động của MT.

Nhìn từ góc độ tiểu sử bệnh lý hóa học của 503 bệnh nhân tự kỷ ông Walsh và các nhà nghiên cứu tại Trung tâm điều trị Pfeiffer, Napervile, IL phát hiện rằng 99% bệnh nhân thể hiện sự trao đổi kim loại không bình thường và có chứng cứ của MT bị sai lệch chức năng. Trong hội nghị DAN! tháng 10-2001 tại San Diego ông nhấn mạnh rằng sự tác động xấu của môi trường trong thời kỳ thai nghén, sơ sinh hay thời kỳ thơ ấu có thể đã vô hiệu hóa hệ thống protein metallothionein, mà kết quả là làm chậm lại quá trình phát triển nơ-ron thần kinh và kích thích sự bắt đầu của tự kỷ.

Trong những năm gần đây, các báo cáo nghiên cứu và dữ liệu điều trị đã khám phá rằng trẻ tự kỷ có hàm lượng thiếc và đồng bất thường trong máu của họ. Nếu như MT có nhiệm vụ quan trọng trong việc cân bằng hàm lượng thiếc và đồng trong cơ thể khỏe mạnh, một thực tế từ nghiên cứu cho thấy có tới 99% bệnh nhân tại Trung tâm Điều trị Pfeiffer có hàm lượng đồng/thiếc không cân bằng. Điều đó củng cố giả thiết các MT bị sai lệch chức năng là một phần quan trọng trong bệnh tự kỷ. Những phát hiện về MT của ông Walsh và các số liệu điều trị cũng cố giả thiết trên đã có những định hướng điều trị rất quan trọng. TS. Walsh và đồng nghiệp nhấn mạnh : Chức năng của MT có thể được cải thiện đáng kể qua hai bước. Nó liên quan đến việc loại bỏ lượng đồng dư và các kim loại độc khác trong mối tương quan với phương pháp điều trị dinh dưỡng sử dụng thiếc và các hoạt chất bổ sung cần thiết khác, nhằm tăng cường sản sinh và hoạt dộng hiệu quả của MT. Ông Walsh cũng tin rằng kỹ thuật “kìm kẹp” có thể giúp cho việc loại bỏ kim loại nặng độc hại tích tụ trong cơ thể. Trung tâm Pfeiffer tiếp tục nỗ lực nghiên cứu các biện pháp dự phòng khác trong phòng ngừa và điều trị tự kỷ.

Các mô hình của nguyên nhân dẫn tới việc điều trị hiệu quả như thế nào?

Các chuyên gia đồng ý rằng tự kỷ là sự rối loạn đa tác nhân. Nó có nghĩa là, ví dụ không một ai tin rằng thủy ngân là tác nhân môi trường gây hại duy nhất hoặc kích thích sự gia tăng rối loạn. Thực vậy, khi trẻ em khỏe hơn sau khi loại bỏ kim loại nặng ra khỏi cơ thể và não bộ, nhưng không phải bệnh nhân nào cũng vậy. Thực tế đó mình nó có hàm ý còn các nguyên nhân khác từ các nhóm khác và đòi hỏi chúng ta phải ý thức được các mẫu hình khác của bệnh tự kỷ. Trong trường y khoa, các GS thường nói với SV của mình: “Chẳng có gì tốt hơn ngoài việc dùng thực tế để chứng minh lý thuyết.” Nó là vậy vì lý thuyết là những gì cố gắng lý giải một nhóm các sự kiện hay hiện tượng. Một khi chúng ta có mẫu hình về những gì có thể là nguyên nhân gây bệnh, chẩn đoán và điều trị có thể được xác định dựa vào mô hình nghiên cứu y - sinh học.

Lịch sử cho thấy, lý thuyết y học hợp lệ thường mất hàng thập kỷ trước khi nó được chấp thuận sử dụng rộng rãi. Ví dụ, trong thế kỷ thứ 19, nhà vật lý học Hungary, Ignaz Philipp Semmelweiss đã giả thiết rằng bệnh sốt sinh con, mà nó đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều phụ nữ mới sinh con, vì một lý do nào đó đã được truyền qua từ bàn tay của bác sĩ. Trong kỷ nguyên đó, bác sĩ đã thường không rửa tay và lý thuyết mầm mống bệnh tật đó đã không được chấp thuận. Rất nhiều bác sĩ trong thời kỳ đó thực tế đã mổ sẻ những nạn nhân sinh con đó và trợ giup họ trong khi sinh mà không hề rửa tay! Semmelweiss đã bị nhạo báng bởi các đồng nghiệp của mình về niềm tin đó. Phải mất rất nhiều năm sau đó và phải trả giá bằng mạng sống của hàng ngàn phụ nữ, lý thuyết của ông mới được chấp nhận. Ngày nay, nhờ vào các kết quả nghiên cứu của những nhà bác học như Pasteur, lý thuyết về mầm mống bệnh tật mới được chấp nhận.

Trong công việc của mình tôi đã đi đến kết luận tin rằng rất nhiều trẻ tự kỷ không cần phải dùng thuốc như Ritalin hay thuốc chống rối loạn thần kinh. Nếu có thể, tôi muốn hiệu chỉnh lại nguyên gốc của vấn đề và không chỉ điều khiển hành vi hay các triệu chứng khác. Theo tôi, những đặc điểm chung cơ bản cho sự phát triển lệch lạc của hầu hết trẻ em là chất dinh dưỡng cần thiết không đến được tế bào não. Tôi và rất nhiều thầy thuốc khác tìm ra rằng hầu như tất cả trẻ em bắt đầu có tiến triển tốt khi chúng tôi (1) chữa trị viêm hệ tiêu hóa, (2) gia tăng hệ miễn dịch của chúng bằng cách tăng cường những vitamin phụ trợ, khoáng chất, và các chất dinh dưỡng; và (3) loại bỏ kim loại nặng độc hại từ cơ thể cũng như từ các chế độ ăn kiêng.

TS. Bernard Rimland là người tiên phong trong việc tăng cường Vitamin B6 cho việc giúp não hoạt động bình thường, và những lợi ích của DMG (dimethylglycine) do ông áp dụng cho một số nhóm trẻ tự kỷ đã được công khai. Điều đó đã giúp tôi bắt đầu tìm kiếm những thông tin về sự mất cân bằng sinh hóa đang diễn ra trong cơ thể trẻ tự kỷ. Bởi vì rất nhiều trẻ tự kỷ đã tự giới hạn những loại thực phẩm chỉ có chứa hầu như rất ít chất dinh dưỡng, rất dễ nhìn thấy rằng chúng cần có những chất dinh dưỡng cần thiết đó cũng như các chất thay thế cho các loại vitamin và khoáng chất khác. Điều này với tôi đã thể hiện rõ ràng rằng hệ miễn dịch bị suy yếu cũng là tác nhân gây bệnh như đã được đưa ra trong số liệu của rất nhiều sự nhiễm bệnh và điều trị bằng kháng sinh cho những trẻ đó cũng như hệ miễn dịch kém hiệu quả được tìm thấy trong các xét nghiệm. Tôi không ngừng theo đuổi ý nghĩ vi-rút có vai trò gì trong việc làm rối loạn này khi tôi mới bắt đầu nghe được về sự nguy hiểm của nhiễm độc thủy ngân từ các hỗn hợp chất hóa học, từ cá bị nhiễm nặng thủy ngân, và vắc-xin. Từ những thông tin liên lạc bằng thư điện tử với Amy Holmes, MD của Baton Rouge, LA, bức ảnh bắt đầu hiện rõ cho tôi một hướng đi mới. Biết được phương pháp và hiệu quả của việc làm giảm kim loại nặng trong trẻ, tôi bắt đầu học tất cả những gì có thể về thủy ngân gây hại có thể gây tổn thương tới những trẻ em nhạy cảm.

Sự hiện diện của các vi-rút cơ hội như đã thể hiện độ chuẩn vi-rút trong rất nhiều trẻ song song với ý tưởng nhiễm độc thủy ngân, như đã biết thủy ngân dường như là chất kích thích của bệnh. Hệ miễn dịch suy yếu, viêm hệ tiêu hóa, tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn, gia tăng sử dụng thuốc kháng sinh, hấp thụ dinh dưỡng kém, rối loạn chức năng hệ tiêu hóa, và giảm khả năng chống trọi với chất độc dưới dạng kim loại nặng hay mầm bệnh – trong đó có vi-rút – chính là chuỗi gây ra bệnh tự kỷ ở trẻ em. Tôi cũng bắt đầu hiểu được rằng chất độc trong não, bất kể chúng là kim loại nặng, vi-rút hay các mầm bệnh khác, tạo ra điều kiện xấu ngăn chất dinh dưỡng cung cấp tới tế bào não kể cả khi ruột cho phép một số chất dinh dưỡng tới được não. Các tế bào não của trẻ tự kỷ sẽ bị đói chất dinh dưỡng. Một phần quan trọng của chương trình điều trị của tôi là xây dựng quanh cơ chế phục hồi chất dinh dưỡng cho



tải về 0.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương