Của Con Người Tác giả: dr. K. Sri Dhammananda Dịch giả: tk pháp Thông o0o Nguồn



tải về 1.04 Mb.
trang15/31
Chuyển đổi dữ liệu20.11.2017
Kích1.04 Mb.
#34457
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   31

11.Khen và Chê


Khen và chê là hai pháp thế gian nữa ảnh hưởng đến con người chúng ta. Khi được khen thì vui và khi bị chê thì buồn là điều tự nhiên. Giữa những tiếng khen chê, Đức Phật nói, bậc trí không tỏ ra vui cũng chẳng lấy làm buồn. Họ giữ tâm dửng dưng như tảng đá kiên cố không bị gió làm cho lay động. Khen nếu đáng khen, thì cũng sướng tai. Nếu không đáng, như trường hợp người ta tâng bốc nhau, dù vui đấy, song chỉ là lừa dối. Tuy nhiên, khen và chê, tất cả chỉ là những âm thanh mà  nếu không đến tai chúng ta sẽ không tạo ra được ảnh hưởng.

Từ quan điểm thế tục, một tiếng khen kể như đã đi được một đoạn đường dài. Nhờ khen một chút, người ta có thể dễ dàng có được một đặc ân. Một lời khen xứng đáng đủ để thu hút thính giả trước khi người ta nói. Nếu, lúc bắt đầu diễn thuyết, người thuyết trình chỉ cần khen thính giả một tiếng, họ sẽ được lắng nghe. Ngược lại nếu họ chỉ trích thính giả ngay lúc bắt đầu, sự phản ứng sẽ là không thoả mãn. Người có văn hoá không cần dùng đến sự tâng bốc; họ cũng chẳng muốn bị đánh giá sai. Điều đáng khen họ khen không đố kỵ. Điều đáng chê trách, vì lòng bi mẫn, họ sẽ phê bình thẳng thắn với mục đích sửa đổi sai sót cho người ấy. ‘Nếu bạn không có những người chỉ trích rất có thể bạn sẽ không có những sự thành công.’ (Malcolm Forbes).

Nhiều người biết Đức Phật đã tán dương những ân đức của Ngài theo cách riêng của họ. Có người xưng tán Đức Phật bằng cách ứng khẩu kể ra một trăm ân đức của Ngài. Ân đức Phật là một đề tài thiền cho những căn cơ đức tin. Những ân đức xứng đáng này muôn đời vẫn là một nguồn cảm hứng to lớn cho các hàng đệ tử của ngài. Còn về chê thì sao?

Đức Phật nói: ‘Người nói nhiều bị chê. Người nói ít bị chê. Người im lặng cũng bị chê! Trong thế gian này không có ai là không bị chê!’ Chê dường như là di sản chung của nhân loại. Ngài nhận xét, hầu hết con người trong thế gian này là như vậy, không tu-tập. Tuy nhiên, cũng như một thớt voi trên chiến trường phải chịu đựng hàng trăm mũi tên bắn vào như thế nào, Đức Phật cũng phải hứng chịu mọi lời mắng chửi, xúc phạm như vậy.

Người mê muội và độc ác có khuynh hướng chỉ thích tìm cái xấu nơi những người khác chứ không tìm cái tốt và cái đẹp. Chẳng có ai, ngoại trừ độc nhất Đức Phật, là hoàn toàn tốt. Cũng không có người nào là hoàn toàn xấu. Trong cái tốt nhất của chúng ta vẫn có cái xấu.Và trong cái xấu nhất của chúng ta cũng có cái tốt. Một người có thể làm việc với những động cơ trong sạch. Song thế gian bên ngoài có thể hiểu sai những hành động của anh ta và kết tội những động cơ ấy là vô nhân đạo. Bạn có thể dang tay ra giúp người khác bằng cách gánh nợ cho họ hay bán cả tài sản để cứu bạn trong cơn hoạn nạn; nhưng sau đó, người nhận ơn mê muội ấy có thể bới lông tìm vết bạn, tống tiền bạn, bôi nhọ thanh danh của bạn và sẽ sung sướng trong sự suy sụp của bạn.

Trong những câu chuyện tiền thân (Đức Phật), có câu chuyện kể rằng Guttila một người nhạc công đã dạy hết mọi điều ông biết cho người học trò của mình không dấu giếm điều gì, nhưng người học trò vô ơn đã cố gắng đua tài với thầy để làm hại ông nhưng không thành công. Một dịp nọ, Đức Phật được một người Bà-la-môn mời đến nhà đặt bát. Theo lời mời, Đức Phật đến nhà ông. Thay vì tiếp đãi Đức Phật, ông ta đã xỉ vả Ngài bằng một tràng chửi rủa thô tục nhất.

Đức Phật nhã nhặn hỏi,

Này ông Bà-la-môn, ông có thường mời khách tới nhà không?

Có chứ,’ ông trả lời.

Khi khách tới ông làm gì?’

À, chúng tôi sửa soạn một bữa tiệc thịnh soạn.’

Nếu như họ không đến?’

Thì chúng tôi sẽ vui vẻ ăn bữa tiệc ấy.’

Vậy, này Bà-la-môn, ông mời ta đến đặt bát và ông đã tiếp đãi ta bằng những lời sỉ vả. Ta không nhận gì cả, hãy hoan hỷ lấy lại nó.’

Đức Phật không trả thù, ‘Không trả thù’ là những điều Đức Phật khuyên. ‘Hận thù không diệt được hận thù mà chỉ có tình thương mới mới diệt được hận thù,’ là lời dạy cao quý của Đức Phật. Không có bậc đạo sư nào từng được khen ngợi rất mực như Đức Phật và cũng không có bậc đạo sư nào bị chỉ trích và buộc tội gay gắt như Ngài. Số phận của các bậc đại nhân như Đức Phật là thế.

Lăng mạ, sỉ nhục là số phận chung của nhân loại. Bạn càng làm việc nhiều và càng trở nên vĩ đại, thì bạn càng phải chịu đựng sự sỉ vả và chỉ trích nhiều hơn. ‘Lăng mạ là vũ khí của hàng phàm phu’.

Socrates bị chính người vợ của ông sỉ vả. Hễ khi nào ông đi ra ngoài để giúp đỡ người khác, người vợ láo xược này thường mắng nhiếc ông thậm tệ. Một hôm vì bà khó ở trong mình nên không thực hiện được công việc ngược ngạo hàng ngày của bà. Socrates ngày hôm ấy rời nhà với bộ mặt buồn bã. Bạn bè ông hỏi thăm vì sao ông buồn. Ông trả lời rằng vợ ông hôm nay không mắng nhiếc ông như mọi khi. ‘Quái lạ, lẽ ra anh phải vui mừng vì không bị những lời mắng nhiếc khó chịu ấy chứ,’ những người bạn của ông nhận định. ‘Ồ không, không! Khi bà ấy la mắng tôi, tôi có được cơ hội để thực hành đức tính nhẫn nại. Hôm nay kể như tôi đã lỡ mất cơ hội ấy. Đó là lý do vì sao tôi buồn,’ nhà hiền triết trả lời. Có lẽ đây là những bài học đáng nhớ đối với tất cả chúng ta. Khi bị lăng nhục, chúng ta nên nghĩ rằng chúng ta đã được cho một cơ hội để thực hành đức tính nhẫn nại, thay vì bị chạm tự ái.

---o0o---


12.Hạnh Phúc và Khổ Đau


Hạnh phúc và khổ đau là cặp đối nghịch cuối cùng trong tám pháp thế gian. Có thể xem chúng là những yếu tố mạnh nhất ảnh hưởng đến con người. Cái gì có thể chịu đựng được một cách dễ dàng là hạnh phúc hay lạc (sukha); còn cái gì khó chịu đựng là khổ (dukkha). Hạnh phúc bình thường là sự thoả mãn những ước muốn. Tuy nhiên ngay khi vừa đạt được một ước muốn thì chúng ta liền ao ước một cái gì khác liền. Vì thế những ước muốn ích kỷ của chúng ta là không thể thoả mãn. Đối với một người bình thường sự thoả mãn các dục lạc là hạnh phúc cao tột và duy nhất của họ.

Chắc chắn là có một loại hạnh phúc nhất thời trong sự hy vọng, thoả mãn và sự hồi tưởng lại những thú vui vật chất. Loại hạnh phúc này được những người theo chủ nghĩa nhục dục đánh giá cao, nhưng nó chỉ là ảo tưởng và thoáng qua. Liệu những sở hữu vật chất có cho người ta hạnh phúc thực sự không? Nếu có, có lẽ các nhà đại phú đã không cảm thấy thất vọng với cuộc đời này. Trong một vài quốc gia tiên tiến, những nước được xem là đã đạt đến tột đỉnh của tiến bộ vật chất, nhiều người vẫn sống không có hạnh phúc. Nếu một mình những sở hữu vật chất có thể tạo ra hạnh phúc tại sao người ta lại như thế?

Liệu sự thống trị toàn cõi thế gian này có thể tạo ra hạnh phúc thực sự hay không? Alexander Đại Đế, người từng diễu hành một cách đắc thắng đến Ấn-độ, chinh phục hết các vùng đất trên đường ông đi qua, đã phải thở dài vì không còn đất đâu nữa để chinh phục.

Nếu đọc những trang sử hiện đại chúng ta sẽ lấy làm kinh hoàng bởi những cú giáng rùng rợn do những con quái vật như Pôn-pốt, Idi Amin, Hitler làm. Những con người độc tài này đã thảm sát hàng bao nhiêu triệu con người vô tội vì tin rằng họ có thể tạo ra một thế giới mới bằng cách tiêu diệt hết những người được xem là khác với họ. Nhưng thử hỏi họ đã được gì? Cả thế giới này kết tội và căm ghét họ.

Thường thì cuộc sống của những chính khách nắm giữ quyền lực rất không an toàn. Những trường hợp đáng thương của Mahatma Gandhi và John Kennedy là những ví dụ để minh chứng. Hạnh phúc chơn thực được tìm ở bên trong, và không bao giờ được quy định dưới hình thức giàu sang, quyền lực, danh giá, hay những cuộc chinh phục. Nếu những sở hữu vật chất có được bằng cách cưỡng bức và bất công, hay nếu chúng không được dùng đúng chỗ, hoặc thậm chí được nhìn với sự dính mắc, chấp thủ, những sở hữu ấy sẽ là cội nguồn của khổ đau cho những người sở hữu nó.

Cái được xem là hạnh phúc đối với người này có thể không phải là hạnh phúc đối với người khác. Cái được xem là thịt và rượu đối với người này có thể là thuốc độc đối với người kia. Đức Phật có đề cập đến bốn loại hạnh phúc dành cho người cư sĩ còn sống một cuộc sống vật chất. Đó là, hạnh phúc của sự sở hữu (atthi sukha – lạc sở hữu) - sở hữu ở đây là có được sức khoẻ, của cải vật chất, tuổi thọ, dung sắc, vui vẻ, sức mạnh, tài sản, con cái, v.v... Nguồn hạnh phúc thứ hai là hạnh phúc xuất phát từ sự hưởng thụ những sở hữu ấy (bhoga sukha­ – lạc hưởng thụ).

Người nam và nữ bình thường ai mà không thích sự hưởng thụ. Đức Phật không khuyên tất cả mọi người phải từ bỏ những thú vui trần thế và rút vào ẩn cư hết. Tuy nhiên cần phải hiểu sự hưởng thụ của cải không chỉ nằm nơi việc sử dụng nó cho bản thân thôi mà cũng còn biết cho ra (bố thí) vì lợi ích của người khác. Những gì chúng ta ăn chỉ nhất thời (ăn rồi là hết). Những gì chúng ta giữ gìn thì khi chết chúng ta để lại (cho người khác xài). Những gì chúng ta cho ra chúng ta sẽ đem theo với chúng ta. Nhờ những việc thiện chúng ta đã làm với những sở hữu vật chất kiếm được đúng pháp, chúng ta mãi mãi được mọi người nhớ đến.

Nhà Tiên-tri Mohammad nói rằng điều duy nhất chúng ta có thể tuyên bố một cách chính đáng là của chúng ta là những gì chúng ta đã dùng, những gì chúng ta đã bố thí để làm từ thiện và đã đóng góp cho tôn giáo. Ngoài ra chẳng có gì là của chúng ta cả.

Không mắc nợ (Anaṇasukha – lạc không mắc nợ) là một nguồn hạnh phúc khác. Nếu chúng ta biết hài lòng với những gì chúng ta có và nếu chúng ta biết tiết kiệm, chúng ta không cần phải vay nợ. Người mắc nợ luôn sống trong tâm trạng buồn rầu và phải mang ơn người chủ nợ. Dù nghèo, nhưng không mang nợ, chúng ta cũng cảm thấy nhẹ nhõm và vui vẻ tâm hồn. Sống một cuộc đời vô lỗi (anavajja sukha — lạc vô tội) là một trong những nguồn hạnh phúc lớn nhất đối với người cư sĩ.

Người không làm điều gì lầm lỗi được xem là một phước lành đối với chính bản thân họ và đối với mọi người. Anh ta được mọi người kính phục và sẽ cảm thấy vui tươi hơn, nhờ nhận được những rung động bình yên của người chung quanh ảnh hưởng. Tuy nhiên, phải nói rằng thật khó mà kiếm được một người tốt như vậy. Những con người có tâm hồn cao quý chỉ quan tâm đến việc sống một cuộc đời không lầm lỗi và dửng dưng đối với tiếng khen bên ngoài.

Phần lớn con người trong thế gian này đều thích hưởng thụ các dục lạc trong khi một số người khác lại tìm nguồn vui trong sự khước từ (xuất ly hay xuất gia). Không dính mắc hay siêu việt những thú vui vật chất là hạnh phúc đối với những người có khuynh hướng về đời sống tâm linh. Hạnh phúc bình thường chúng ta tiếp đón, trong khi đối nghịch của nó – khổ đau vốn là cái khó chịu đựng, chúng ta không thích. Sầu muộn hay khổ đau đến với chúng ta bằng những lớp vỏ khác nhau. Chúng ta đau khổ khi bị già là điều tự nhiên. Chúng ta phải chịu đựng những nỗi khổ của tuổi già với thái độ bình thản. Đau hơn những nỗi khổ do tuổi già là cái khổ gây ra bởi bệnh hoạn. Ngay cả chứng đau răng hay đau đầu nhỏ nhặt đôi khi cũng khó có thể chịu đựng nổi huống chi một vấn đề lớn hơn tấn công đột ngột.

Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta nên học cách kham nhẫn chịu đựng nó. Vâng, chúng ta phải tự an ủi mình rằng chúng ta đã từng thoát khỏi một chứng bệnh còn nghiêm trọng hơn thế rồi. Đã bao lần chúng ta phải chia ly với những người chúng ta thương mến. Những cuộc chia ly như vậy gây ra bao nỗi khổ đau về tinh thần. Chúng ta nên hiểu rằng mọi cuộc sum vầy đều phải chấm dứt với chia ly. Đây là một cơ hội tốt để chúng ta thực hành tâm bình thản (xả ly). Chúng ta cũng rất thường hay phải chịu đựng những điều khó ưa mà vốn chúng ta ghét cay ghét đắng. Những trường hợp như vậy chúng ta cũng phải can đảm chịu đựng chúng.

Có lẽ, chúng ta đang gặt những hậu quả của Nghiệp xấu chúng ta đã làm trong kiếp sống quá khứ hay ở một thời gian nào đó trong hiện tại. Chúng ta nên cố gắng để thích nghi với tình huống mới hay cố gắng để khắc phục những chướng ngại bằng một phương cách khác nào đó.

‘Cười đi, thế gian sẽ cười với bạn;

Còn khóc, bạn sẽ khóc một mình.’ (Ella Wheeler Wilcox)

Ngay cả Đức Phật, một con người hoàn hảo, đã tiêu diệt hết mọi phiền não, cũng phải chịu cái khổ về thân do bệnh tật và tai nạn gây ra. Đức Phật thường hay bị đau đầu. Chứng bệnh này khiến cho Ngài đau đớn rất nhiều. Do hậu qủa của việc lăn đá muốn giết ngài của Đề-bà-đạt-đa, bàn chân ngài đã bị một mảnh đá làm cho bị thương cần phải mổ.

Vào những lần khác ngài đã bị buộc phải nhịn đói. Do sự không vâng lời của những người đệ tử của Ngài, Ngài đã buộc phải rút vào trong rừng ở suốt ba tháng an cư. Ở trong rừng ngủ trên một chiếc giường lá cây trải trên đám đất gồ ghề, chịu đựng gió lạnh, ngài vẫn giữ tâm bình thản hoàn toàn. Giữa khổ đau và hạnh phúc, ngài sống với một cái tâm quân bình.

Chết là nỗi khổ lớn nhất mà chúng ta phải đương đầu trong cuộc lang thang vô định trong vòng luân hồi này. Đôi khi, sự mất mát quá nhiều khiến chúng ta không thể chịu đựng nổi. Pātācarā - một vị Trưởng lão ni thời Đức Phật. Trước khi xuất gia bà đã có chồng và hai người con. Trong một dịp về thăm cha mẹ, chồng và hai con đều bị tai nạn chết. Về đến nhà thì mới hay đêm trước cả cha mẹ và người anh bà cũng đã chết. Bà trở nên điên loan, nhưng nhờ túc duyên đưa đẩy bà gặp Đức Phật và xuất gia. Đức Phật đã an ủi và giúp bà học được cách đối diện khổ đau với trí tuệ. Về sau bà đắc Alahan và được Đức Phật tuyên dương là đệ nhất về tinh thông giới luật.

Kisa Gotami mất đứa con độc nhất của mình và  đau buồn đi tìm cách để hồi sinh cho nó. Bà mang xác con đi khắp nơi và cuối cùng đến Đức Phật để xin ngài một cách chữa. ‘Được rồi, này bà chị, chị có thể mang về đây một vài hạt cải được không?’ ‘Tất nhiên được, bạch Ngài!’ ‘Nhưng, này bà chị, những hạt cải ấy phải từ nhà nào không có người chết đấy nhá.’

Hạt cải bà tìm ra, nhưng không phải ở nơi thần chết không viếng thăm. Bà liền hiểu bản chất của cuộc đời. Một trường hợp khác, khi một người mẹ được hỏi tại sao bà không khóc cái chết của người con duy nhất của mình, bà trả lời, ‘Không mời, nó đến. Không thông báo, nó ra đi. Đến như thế nào nó ra đi như vậy. Sao chúng ta lại phải khóc?’

Như những trái cây rụng — có trái còn tơ, có trái đã chín hay già — chúng ta cũng vậy, có thể chết lúc tuổi còn thơ, chết lúc tuổi thanh xuân, hay lúc đã về già. Mặt trời mọc ở phương Đông chỉ để lặn ở phương Tây. Những bông hoa nở vào ban mai để tàn vào buổi chiều. Chắc chắn cái chết sẽ đến đối với tất cả không ngoại trừ ai; chúng ta phải đương đầu với nó bằng thái độ bình thản.

Ví như mặt đất này



Cái gì được ném lên

 ngọt ngào hay hôi thối,



cũng dửng dưng như nhau,

Không sân cũng chẳng oán,

Ta cũng phải như vậy

Đối với tốt hay xấu

Luôn luôn giữ thăng bằng.’

Đức Phật nói, ‘khi xúc chạm với các pháp thế gian, tâm của một bậc (thánh) Alahán không bao giờ dao động.’ Giữa được và mất, danh và ô danh, khen và chê, hạnh phúc và khổ đau, chúng ta hãy cố gắng duy trì một cái tâm thăng bằng. Đức Phật đã minh hoạ một cách hoa mỹ sự tranh giành của sáu giác quan bằng một ẩn dụ hùng hồn.

Theo ẩn dụ này, có sáu con vật với những thói quen khác nhau và những lĩnh vực hoạt động khác nhau bị cột chung lại với nhau bằng một sợi dây rất chắc. Trong sáu con vật đó: con cá sấu cố gắng chạy xuống nước, con chim cố gắng bay lên trời, con chó cố gắng chạy vào làng, con cáo cố gắng chạy vào rừng, con khỉ cố gắng leo lên cây, và con rắn cố gắng bò vào hang. Sáu con vật này luôn luôn phấn đấu để tiến đến môi trường sống của chúng và kéo những con khác theo, nhưng chẳng con nào đi được đến đâu cả. Tương tự, sáu giác quan hay sáu căn không ngừng đi tìm sự thoả mãn trong các lĩnh vực riêng của chúng, và người không kiểm soát được các giác quan của mình sẽ trở nên cực kỳ rối loạn và bị gắn chặt vào khổ đau.

---o0o---




tải về 1.04 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   31




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương