CƠ SỞ LÝ luận về khiếu kiện hành chíNH, LỊch sử VÀ thực trạNG khiếu kiện hành chính ở NƯỚc ta 6


Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH , THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA



tải về 0.66 Mb.
trang6/9
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích0.66 Mb.
#1942
1   2   3   4   5   6   7   8   9

Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH , THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA

2.1. Cơ sở lý luận về tài phán hành chính

2.1.1. Khái niệm và tính chất cuả tài phán hành chính


2.1.1.1. Khái niệm tài phán hành chính
TPHC là một vấn đề luôn tồn tại và phát triển cùng với hoạt động quản lý nhà nước. Đối với Việt Nam chúng ta, thuật ngữ “tài phán hành chính” được sử dụng khá phổ biến trong khoảng thời gian hơn một thập niên trở lại đây. Tuy nhiên, cũng như khái niệm KKHC, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có định nghĩa pháp lý về khái niệm này .

Có quan điểm cho rằng TPHC là hoạt động xét xử cuả Tòa án nhằm giải quyết các tranh chấp hành chính phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước[15,Tr165], [39,Tr9 và tr16].

Có quan điểm khác cho rằng TPHC là hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện[16;40,Tr6], [47,Tr1]. Theo quan điểm này thì hoạt động giải quyết khiếu nại cuả các cơ quan hành chính nhà nước chính là hoạt động TPHC. Ngoài ra, hiểu theo quan điểm này hoạt động TPHC cũng có thể là hoạt động cuả cơ quan có chức năng xét xử các tranh chấp hành chính nhưng không phải là Tòa án mà là cơ quan thuộc bộ máy hành pháp. Quan điểm này tách hoạt động hành chính nhà nước thành hai mảng riêng biệt đó là hành chính chấp hành, điều hành (hành chính quản lý) và hành chính tài phán (tài phán hành chính).

Quan điểm thứ ba cho rằng TPHC là sự phán quyết cuả Nhà nước về các tranh chấp, vụ việc có yếu tố hành chính bao gồm giải quyết các tranh chấp hành chính và xử lý các vi phạm hành chính trong quản lý nhà nước[14,Tr12-13], đó là:

- Hoạt động xét xử các vụ án hành chính cuả Tòa án.

- Hoạt động xét và giải quyết khiếu nại hành chính cuả các cơ quan hành chính nhà nước.

- Hoạt động xử lý vi phạm hành chính cuả các cơ quan hành chính nhà nước.

Theo từ điển Hán-Việt thuật ngữ “tài phán” có nguồn gốc từ tiếng la tinh là “jurisdictio” có nghĩa là tổng thể những quyền hạn cuả Tòa án hoặc cơ quan hành chính về việc đánh giá khiá cạnh pháp lý cuả những sự kiện cụ thể, trong đó có việc giải quyết các tranh chấp và áp dụng những chế tài theo luật định. Xuất phát từ thuật ngữ này, có quan điểm cho rằng “tài phán hành chính” là hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính (KKHC) phát sinh giữa cơ quan hành chính nhà nước (cơ quan, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước) với cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội do cơ quan tài phán cuả Nhà nước thực hiện theo trình tự tố tụng. Cơ quan tài phán nhà nước có thể là Tòa án hoặc cơ quan nhà nước khác do pháp luật quy định. Như vậy, khái niệm tài phán rộng hơn khái niệm xét xử và không chỉ Tòa án mới có quyền tài phán mà các cơ quan hành chính cũng có thể có quyền tài phán. Điều đó có nghĩa là không nên đồng nhất khái niệm TPHC với hoạt động xét xử cuả Tòa án, không nên đồng nhất TPHC với hoạt động xét xử cuả Tòa án hành chính hoặc Tòa hành chính. Đồng thời cũng không nên đồng nhất TPHC với hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính cuả cơ quan hành chính nhà nước[42,Tr678-679]. Khái niệm TPHC trong luận văn này được hiểu theo nghĩa này - tức là theo nghĩa rộng của khái niệm “tài phán hành chính”.



2.1.1.2. Tính chất của tài phán hành chính

Theo chúng tôi, TPHC có những tính chất sau:



Một là, tính quyền lực nhà nước:

Trong nhà nước pháp quyền, quản lý nhà nước được thực hiện bằng pháp luật, theo pháp luật. Việc bảo đảm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng được thực hiện bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật[32,Tr50].

Quyền lực nhà nước thể hiện ở quyền quản lý cuả Nhà nước đối với xã hội trên cơ sở pháp luật[8,tr48]. Trong việc thực thi quyền lực nhà nước về lĩnh vực TPHC, đó là thực hiện chức năng xét xử. Đây là chức năng được sản sinh từ quyền tư pháp, một trong ba bộ phận cấu thành cuả quyền lực nhà nước. Thông qua hoạt động giải quyết KKHC, các chủ thể thực hiện hoạt động TPHC ban hành các phán quyết buộc các đương sự phải thực hiện. Phán quyết cuả TPHC là phán quyết mang tính nhà nước, chứa đựng quyền lực cuả Nhà nước và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng cữơng chế nhà nước.

Hai là, tính nhân đạo :

Bản chất cuả Nhà nước ta là nhà nước cuả dân, do dân và vì dân. Cơ quan TPHC được thành lập ở nước ta cũng là nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp cuả nhân dân. Do đó, cơ quan TPHC cũng như cán bộ, công chức trong cơ quan TPHC phải có thái độ đúng mực thể hiện bản chất tốt đẹp cuả Nhà nước ta. Mặt khác, hiện nay chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Hơn lúc nào hết TPHC phải bảo đảm được tính nhân đạo XHCN để hạn chế đến mức thấp nhất các yếu tố tiêu cực cuả kinh tế thị trường, phải tôn trọng con người, phục vụ con người, lấy mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, nhân ái, nhân đạo làm kim chỉ nam cho hoạt động cuả mình, bảo đảm cho mọi người khi tham gia tố tụng đều được bình đẳng.



Ba là, tính trọng tài:

Hoạt động TPHClà một hoạt động mang tính trọng tài để giải quyết các tranh chấp hành chính phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước. Đây là một điểm đặc trưng nhất cuả TPHC. Để bảo đảm đúng tính chất cuả TPHCvới tư cách là một hoạt động mang tính trọng tài, TPHC phải bảo đảm được các yêu cầu sau:

- Phải bảo đảm được sự độc lập: Độc lập cuả TPHC là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tính pháp quyền và công bằng trong hoạt động tài phán. Với tính chất độc lập, cơ quan tài phán sẽ thực hiện chức năng cuả mình một cách độc lập trên cơ sở đánh giá kỹ lưỡng các tình tiết theo quy định cuả pháp luật mà không phải bị tác động bởi bất kỳ ảnh hưởng, cám dỗ, sức ép, mối đe doạ hoặc can thiệp nào cho dù là trực tiếp hay gián tiếp. Để làm rõ vấn đề này, ta có thể nêu qua một số tuyên bố tương tự về độc lập tư pháp laø « Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc lập tư pháp » được thông qua bởi Chánh án tối cao của 20 nước ở Hội nghị các Chánh án tối cao khu vực Châu Á- Thái Bình Dương được tổ chức tại Bắc Kinh ngày 19/8/1995. Theo tuyên bố này, độc lập tư pháp có nghĩa là : Cơ quan tư pháp quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền dựa trên sự đánh giá khách quan của mình về các sự kiện của vụ án và trình độ hiểu biết pháp luật của mình mà không chịu tác động sai trái, trực tiếp hay gián tiếp của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào. Cơ quan tư pháp có quyền giải quyết hoặc xem xét lại đối với tất cả các vấn đề mang tính chất tư pháp. Việc duy trì tính độc lập của cơ quan tư pháp là cần thiết để đạt được mục tiêu và thực hiện đúng chức naăng của cơ quan tư pháp trong một xã hội tự do và tôn trọng pháp quyền. Sự độc lập này cần phải được nhà nước bảo đảm, phải đượ quy định rõ trong Hiến pháp hoặc luật...[10,Tr46].

- Phải bảo đảm tính khách quan: Khách quan là một yếu tố thiết yếu để thực hiện đúng đắn các hoạt động tài phán. Điều này không chỉ được thể hiện thông qua các phán quyết mà còn phải được thể hiện trong cả quy trình để ra được phán quyết. Tính khách quan cuả TPHC đòi hỏi việc giải quyết khiếu kiện phải dưạ trên cơ sở các chứng cứ, tình tiết khách quan, được thu thập một cách khách quan phù hợp với thủ tục luật định.

- Phải bảo đảm công bằng: TPHC là hoạt động trọng tàì, do đó tính công bằng cuả hoạt động phải được đặt lên hàng đầu, công bằng là hạt nhân quan trọng nhất của họat động tài phán vì chính do muốn có được sự công bằng mà người ta đã chấp nhận một người thứ 3 đứng ra để phân xử và nhờ có công bằng mà các phán quyết tài phán mới được các bên tự giác thực hiện[41,Tr273]. Sự công bằng đòi hỏi hoạt động tài phán phải bảo đảm đúng đắn, không thiên vị, không thành kiến hay định kiến. Công bằng để bảo đảm niềm tin cuả các đối tượng tham gia tố tụng, đặc biệt là niềm tin cuả người khởi kiện. Công bằng là yêu cầu đồng thời là điều kiện để bảo đảm việc giải quyết cuả tài phán được chính xác.

Bốn là, tính không vụ lợi:

TPHC được đặt ra để giải quyết các tranh chấp hành chính nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức trước sự xâm phạm hoặc đe doạ xâm phạm trái pháp luật cuả quyền lực công. Mục đích cuả TPHC nhằm tạo ra một nền hành chính trong sạch, phục vụ tốt lợi ích cuả Nhà nước cũng như cuả toàn xã hội. Do đó, TPHC phải bảo đảm sự công tâm, trong sạch, không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, không đòi hỏi người phục vụ phải trả thù lao. Đây chính là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt TPHC với các tổ chức tài phán phi chính phủ hoặc các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Nếu như mục tiêu cuả các tổ chức và hoạt động kinh doanh là lợi nhuận và phục vụ cho những mục tiêu riêng cuả chủ sở hưũ thì TPHC chính lại được tổ chức nhằm phục vụ xã hội. TPHC tồn tại vì xã hội, vì lợi ích cuả xã hội. Tính xã hội, tính nhân dân cuả TPHC làm cho nó trở thành một tổ chức không vụ lợi.



Năm là, tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa:

Hoạt động TPHC là một hoạt động đặc biệt, hoạt động cuả nó tạo ra một sản phẩm đặc biệt đó là các phán quyết. Các phán quyết là kết quả cuả một quá trình xem xét vụ việc một cách khoa học mang tính cất chuyên môn nghề nghiệp cao. Những người làm việc trong cơ quan TPHC phải có trình độ chuyên môn nghề nghiệp cao trên toàn bộ các lĩnh vực liên quan, phải có đủ trình độ hiểu biết để có thể đánh giá vấn đề một cách chính xác và đưa ra được những phán quyết hành chính đúng đắn, hợp lý, hợp pháp. Tính chuyên môn nghề nghiệp cao là một yêu cầu bắt buộc đối với TPHC. Nó không những là đòi hỏi cuả Nhà nước pháp quyền, mà còn là đòi hỏi cuả cả xã hội về một tổ chức tài phán phát triển, khoa học, văn minh và hiện đại[33,Tr38].


2.1.2. Vai trò của tài phán hành chính


2.1.2.1. Vai trò của tài phán hành chính trong hoạt động hành chính nhà nước

Nhìn từ khía cạnh quyền lực, TPHC là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước. Với chức năng giải quyết các KKHC mà đối tượng giải quyết cụ thể là các QÑHC, HVHC cuả cơ quan hành chính và các cá nhân trong các cơ quan này, nên hoạt động hành chính mang tính tích cực (hành chính quản lý) và hoạt động hành chính tài phán dễ bị lẫn lộn và cơ quan có chức năng TPHC cũng thường được xếp cùng nhóm với các cơ quan hành chính nhà nước. Do vậy trên thực tế tuỳ tình hình, điều kiện cụ thể cuả mỗi quốc gia, người ta có thể tổ chức cơ quan TPHC thuộc hệ thống tư pháp hoặc thuộc hệ thống cơ quan hành pháp.

Tại Việt Nam, quyền TPHC được giao trực tiếp cho các cơ quan hành chính nhà nước. Đối với một số loại KKHC như: khiếu kiện quyết định XPVPHC; khiếu kiện QÑHC, HVHC trong việc buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố; khiếu kiện việc cấp, thu hồi giấy phép xây dựng… người khởi kiện có quyền lưạ chọn hoặc cơ quan hành chính nhà nước hoặc Tòa án để giải quyết.

Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng cộng sản khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm gần đây cả nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có việc cải cách nền hành chính quốc gia, mà nội dung là cải cách thể chế hành chính nhà nước; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng, đổi mới đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước; cải cách tài chính công.

Tại Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương khoá VII (11/1995) đã xác định: “Mục tiêu cuả cải cách hành chính là nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực, hiệu quả các công việc nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội”.

Thông qua hoạt động tài phán, Nhà nước có thể kiểm soát được hoạt động quản lý, cụ thể là bằng công cụ TPHC Nhà nước huỷ bỏ các QÑHC trái pháp luật, buộc cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ công chức nhà nước phải chấm dứt HVHC trái pháp luật. Thông qua TPHC Nhà nước có thể phát hiện những khiếm khuyết cuả pháp luật hành chính, cuả bộ máy hành chính nhà nước, từ đó có các giải pháp bổ sung, sưả đổi, chấn chỉnh cho phù hợp. Thực hiện TPHC làm cho trách nhiệm cuả bộ máy hành chính nhà nước được nâng cao, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động quản lý nhà nước, góp phần nâng cao trách nhiệm, bổn phận cuả cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi công vụ.

Vai trò cuả cuả TPHC được quyết định bởi chức năng cuả cơ quan tài phán. TPHC được Nhà nước tổ chức, thành lập để giải quyết các các KKHC. TPHC là phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật cuả nền hành chính nhà nước, là biện pháp kiểm tra, giám sát hưũ hiệu hoạt động cuả cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, tránh các hành vi lạm quyền, lộng quyền, trốn tránh trách nhiệm, hạn chế các hiện tượng tiêu cực, cưả quyền, quan liêu trong bộ máy hành chính, góp phần làm lành mạnh hoá nền hành chính nhà nước[12,Tr9-10].

Với vị trí, vai trò như trên cuả TPHC, ở nước ta thực tế hoạt động giải quyết các khiếu kiện hành chính cuả các cơ quan nhà nước trong thời gian qua đã chứng tỏ TPHC đúng là một công cụ quan trọng cuả Nhà nước, góp phần tích cực làm lành mạnh hoá nền hành chính quốc gia, thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính phát triển theo đúng tinh thần cuả Đảng đã đề ra.



2.1.2.2. Vai trò cuả tài phán hành chính trong việc bảo vệ quyền dân chủ cuả công dân

Cơ sở cuả dân chủ là quyền tự do. Chính vì vậy chúng ta phải làm rõ được dân chủ là gì, tự do là gì và TPHC có vai trò gì trong việc bảo vệ quyền tự do, dân chủ. Thật vậy, trong thực tế đời sống, trong lĩnh vực nào chúng ta cũng có thể bắt gặp những trường hợp khó xử lý trước một số vấn đề vì chưa rõ ranh giới giữa dân chủ và phi dân chủ, tự do và vi phạm tự do. Tất nhiên ở đây không đề cập đến các trường hợp cố ý vi phạm dân chủ, tước đoạt tự do cuả người khác hoặc lợi dụng quyền dân chủ, tự do để xâm phạm lợi ích cuả Nhà nước, của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.

Trong thời gian qua với chủ trương công khai hoá và dân chủ hoá các mặt cuả đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã khơi dậy những tiềm năng, nhiệt tình cuả mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và tư tưởng. Nhưng cũng không ít người lầm tưởng rằng từ nay mọi người đều có thể làm tất cả những gì mình muốn. Tự do, dân chủ không thể là vô hạn và giới hạn cuả nó phải được xác định bởi quyền, lợi ích hợp pháp cuả cá nhân khác và cuả cả xã hội. Chính vì vậy, giới hạn cuả tự do, dân chủ chính là pháp luật hay nói như V.I. Lênin thì “Pháp luật là kinh thánh của tự do”. Điều này còn có nghĩa rằng, không có pháp luật thì không thể có tự do, dân chủ. Tuỳ theo ý chí cuả Nhà nước và các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể cuả từng quốc gia mà giới hạn này có thể rộng hay hẹp.

Cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, xu hướng chung cuả xã hội ta là không ngừng mở rộng quyền tự do, dân chủ cuả con người. Tuy nhiên, cùng với việc mở rộng tự do, dân chủ, mỗi quốc gia còn phải có các phương pháp, cách thức để bảo hộ các quyền tự do, dân chủ mà pháp luật đã quy định, trong đó có hình thức bảo vệ bằng hoạt động TPHC.

Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước cuả dân, do dân và vì dân. Dân chủ vưà là mục tiêu, vưà là động lực, phương tiện hữu hiệu, vừa là nội dung xuyên suốt công cuộc đổi mới đất nước. Nhân dân thiết lập nên nhà nước bằng quyền bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước cuả mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Nhà nước XHCN Việt Nam là một thiết chế dân chủ, quyền làm chủ cuả nhân dân không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị mà còn được mở rộng trên tất cả các lĩnh vực khác cuả đời sống xã hội. Mọi người có quyền tự do kinh doanh theo quy định cuả pháp luật, có quyền sở hữu về tài sản, quyền học tập, quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh sáng chế, quyền tự do đi lại và cư trú, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng...

Để bảo đảm các quyền tự do, dân chủ đó cuả cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là bảo vệ các quyền tự do, dân chủ trước sự xâm phạm trái pháp luật cuả các QÑHC, HVHC, hoạt động KKHC luôn được Nhà nước ta quan tâm bảo đảm. Quyền và lợi ích hợp pháp cuả các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hành chính được Nhà nước bảo hộ bằng hoạt động TPHC. Thông qua hoạt động TPHC, các quyền và lợi ích hợp pháp cuả cá nhân, cơ quan, tổ chức được Nhà nước bảo vệ [6,Tr6].


2.1.3 Mô hình tổ chức giải quyết khiếu kiện hành chính ở một số quốc gia


Tuỳ theo hoàn cảnh, điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá.. cụ thể, các quốc qia trên thề giới có hình thức tổ chức mô hình giải quyết khiếu kiện hành chính khác nhau, nhưng dưạ vào các đặc điểm, tính chất tương đồng về nguyên tắc tổ chức, thẩm quyền giải quyết, thủ tục tố tụng… thì việc tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC ở các quốc gia trên thế giới có thể khái quát theo các mô hình sau:

- Mô hình tổ chức giải quyết KKHC thuộc Chính phủ (Cộng hòa Pháp, Italia, Thái Lan…).

- Mô hình tổ chức giải quyết KKHC thuộc hệ thống Tòa án tư pháp (Mỹ, Trung Quốc, Indonexia…)

- Mô hình tổ chức Tòa án hành chính độc lập ( Đức, Thuỵ điển, Phần Lan, Áo…).

Ngoài ra, có một số quốc gia không tổ chức hệ thống cơ quan giải quyết KKHC mà giao việc này cho chính các cơ quan hành chính bị khiếu kiện và cơ quan hành chính cấp trên cuả cơ quan đó xem xét, giải quyết.

2.1.3.1 Mô hình tổ chức giải quyết khiếu kiện hành chính thuộc Chính phủ

Theo mô hình này , các cơ quan có thẩm quyền giải quyết KKHC được tổ chức thành một hệ thống trực thuộc Chính phủ, phán quyết cuả cơ quan này là cuối cùng, đương sự không có quyền khởi kiện ở bất kỳ một Tòa án nào khác.

+ Ưu điểm cuả mô hình này là:

- Tổ chức TPHC nằm trong hệ thống các cơ quan hành chính nên có điều kiện bám sát được hoạt động quản lý nhà nước, từ đó làm cho các phán quyết cuả tài phán hành chính có điều kiện phù hợp và tạo sự nhịp nhàng, đồng bộ với hoạt động quản lý nhà nước.

- Tổ chức tài phán do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo, cùng với việc này, Thủ tướng Chính phủ còn điều hành hoạt động quản lý nhà nước nên việc tổ chức chấp hành các phán quyết cuả TPHC có nhiều thuận lợi.

+ Các hạn chế cuả mô hình:

- Làm tăng thêm số lượng các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước.

- Quyền tư pháp và quyền hành pháp dễ bị lẫn lộn.

- Chức năng TPHC và chức năng quản lý nhà nước cuả Thủ tướng Chính phủ khó có sự tách bạch.

Để hiểu rõ hơn mô hình này, chúng ta sẽ xem xét cách tổ chức và hoạt động tài phán hành chính cụ thể ở từng nước.



  1. Mô hình Cộng hòa Pháp [29,Tr3]

Cơ quan TPHC Cộng hòa Pháp đã được thiết lập từ gần 2 thế kỷ nay. Trước kia, cơ quan TPHC ở Pháp chỉ có 2 cấp: ở trung ương là Hội đồng Nhà nước, ở cơ sở là các Tòa án hành chính liên tỉnh. Hiện nay, hệ thống TPHC ở Pháp được tổ chức thành 3 cấp: Hội đồng Nhà nước, Tòa án hành chính phúc thẩm, Tòa án hành chính sơ thẩm liên tỉnh.

Hội đồng Nhà nước (Le Conseil d’ E’tat) do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch, có chức năng xét xử giám đốc thẩm các loại án có hiệu lực pháp luật cuả cơ quan tàì phán cấp dưới; xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm các vụ kiện quan trọng như: kiện văn bản quy phạm pháp luật hành chính, kiện các vụ việc liên quan đến HVHC cuả các chức danh do Tổng thống bổ nhiệm… và tư vấn pháp lý cho Chính phủ. Để đảm đương được chức năng kép (xét xử và tư vấn pháp lý) này, Hội đồng Nhà nước được chia làm 6 ban gồm 5 ban hành chính làm nhiệm vụ tư vấn pháp lý và 1 ban tố tụng làm nhiệm vụ xét xử.

Ban tố tụng của Hội đồng Nhà nước được chia thành 10 tiểu ban. Các tiểu ban là các bộ phận cơ bản cấu thành của Hội đồng Nhà nước, chiụ trách nhiệm thẩm cưú các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử cuả Hội đồng Nhà nước. Tuỳ theo tính chất, mức độ phức tạp cuả vụ kiện mà nó có thể do tiểu ban đã thẩm cứu xét xử hoặc tiểu ban đã thẩm cứu phối hợp với tiểu ban khác xét xử. Riêng các vụ việc quan trọng sẽ được đưa lên ban tố tụng xét xử. Các vụ việc đặc biệt quan trọng sẽ được xét xử bằng Hội đồng tố tụng (Hội đồng tố tụng gồm có các thành viên thuộc ban tố tụng và các trưởng ban cuả các ban hành chính).

Các Tòa án hành chính phúc thẩm có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các vụ án do các Toà hành chính sơ thẩm giải quyết. Tại Cộng hòa Pháp hiện tại có 5 Tòa án hành chính phúc thẩm, mỗi toà chiụ trách nhiệm xét xử phúc thẩm các loại án, quyết định cuả một số Tòa án hành chính sơ thẩm. Chánh án cuả Tòa án hành chính phúc thẩm là thành viên cuả Hội đồng nhà nước. Trong Tòa án hành chính phúc thẩm thường được chia làm 2 bộ phận: một bộ phận chuyên xét xử các khiếu kiện về thuế, một bộ phận đảm nhiệm xét xử các khiếu kiện khác.

Các Tòa án hành chính sơ thẩm được tổ chức theo liên tỉnh, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tất cả các khiếu kiện hành chính, trừ các khiếu kiện thuộc thẩm quyền cuả Hội đồng Nhà nước.

Ngòai hệ thống Tòa án hành chính chung, ở Pháp còn có một số cơ quan TPHC chuyên biệt như:

- Thẩm kế viện;

- Tòa án kỷ luật tài chính và ngân sách;

- Các cơ quan TPHC có tính chất nghề nghiệp: Hội đồng cao cấp các thẩm phán, Hội đồng cao cấp về giáo dục quốc gia, Hội đồng quốc gia các thầy thuốc.

Các cơ quan tài phán chuyên biệt này cũng chiụ sự giám đốc án cuả Hội đồng Nhà nước[22,Tr2-5].

2) Mô hình Italia

Hệ thống TPHC ở Italia được chia làm 2 cấp:

Hội đồng Nhà nước (thành lập năm 1930) là cơ quan xét xử cao nhất các khiếu

kiện hành chính. Ngoài ra, Hội đồng Nhà nước còn có chức năng tư vấn cho Chính phủ. Các Tòa án hành chính sơ thẩm được tổ chức theo điạ dư tỉnh, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các KKHC.

Khi không đồng ý với một QÑHC, trước hết công dân phải khiếu nại đến cơ quan hành chính đã ban hành QÑHC. Nếu không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại cuả cơ quan này thì được quyền khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên hoặc khởi kiện đến Tòa án hành chính sơ thẩm hoặc Hội đồng Nhà nước (tuỳ theo sự phân định là vụ việc đó thuộc thẩm quyền xét xử cuả Tòa án hành chính sơ thẩm hay cuả Hội đồng Nhà Nước).

Trong quá trình giải quyết, cơ quan TPHC sẽ yêu cầu các bên đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan để xem xét, tuyên án, các đương sự không có quyền tranh tụng trước toà.

Cơ quan tài phán chỉ có quyền định QÑHC bị khiếu kiện là hợp pháp hay bất hợp pháp, có lạm quyền hay không , còn việc giải quyết bồi thường thiệt hại thuộc thẩm quyền cuả Tòa án tư pháp[46,Tr34-35].

3) Mô hình Thái Lan

Quá trình thiết lập cơ quan TPHC ở Thái Lan thể hiện rõ sự tranh luận giữa hai trường phái luật Anglo-Saxon và châu Âu lục điạ.

Hiện nay ở Thái Lan có cơ quan mang tên Hội đồng Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu được thành lập từ những năm 1930 với chức năng tham vấn cho Chính phủ và giải quyết các KKHC.

Ở các điạ phương, các Hội đồng tố tụng cấp vùng cũng thực hiện chức năng TPHC nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về Thủ tướng Chính phủ.

Do Hội đồng Nhà nước Thái lan chưa được tổ chức như một Tòa án độc lập nên thủ tục giải quyết khiếu kiện còn đơn giản, có nhiều điểm giống với tố tụng dân sự, cụ thể:

Khi nhận được khiếu kiện, các cố vấn xét xử hành chính trong một ban chức

năng cuả Hội đồng Nhà nước nghiên cưú và thảo luận nhân danh Hội đồng Nhà nước và quyết định giải quyết theo đa số. Tại phiên xét xử một Uỷ viên Chính phủ sẽ trình bày tóm tắt sự việc, phát biểu ý kiến về các căn cứ pháp lý cho việc giải quyết. Sau đó, Ban tố tụng hành chính sẽ xem xét và đưa ra kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ:

- Ra lệnh cho người đứng đầu cơ quan nhà nước phải buộc cấp dưới thi hành ngay chức trách cuả mình trong trường hợp nhân viên nhà nước đó sao nhãng hoặc chậm trễ thi hành chức trách cuả mình;

- Ra mệnh lệnh huỷ bỏ văn bản bị khiếu kiện hoặc ra lệnh cho cơ quan có thẩm

quyền huỷ bỏ trong trường hợp nhân viên nhà nước lạm quyền hoặc vi phạm pháp luật hay phạm lỗi về hình thức, lỗi về thủ tục nếu hình thức, thủ tục này coi là bắt buộc;

- Ra một mệnh lệnh mới thay thế văn bản bị khiếu kiện hoặc sưả đổi văn bản trong trường hợp khẩn cấp.

Các KKHC chỉ được xem xét tại cơ quan TPHC với điều kiện là người khiếu kiện rõ ràng chiụ hoặc sẽ chiụ thiệt hại.

Thiệt hại phải do nhân viên nhà nước gây ra vì:

- Sao lãng chức trách;

- Chậm trễ thi hành chức trách;

- Vượt quyền;

- Phạm một lỗi về hình thức hoặc thủ tục trong trường hợp hình thức hay thủ tục này là một thể thức quan trọng;

- Đã hành động một cách không đúng đắn.

Cơ quan TPHC không được quyền giải quyết các khiếu kiện liên quan đến:

- Một hành vi có tính chất chính trị mà Chính phủ phải chiụ trách nhiệm trước Quốc hội;

- Một vấn đề mà Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ có quyết định dứt khoát;

- Một việc đã có bản án hoặc quyết định cuối cùng;

- Một việc mà người khiếu kiện chưa tiến hành các thủ tục mà luật quy định bắt buộc phải tiến hành trước khi kiện đến cơ quan TPHC;

- Một việc mà Hội đồng Nhà nước đã có quyết định cuối cùng, trừ trường hợp phát sinh tình tiết mới;

- Một việc mà người khởi kiện đã rút đơn kiện;

- Một việc đã tuyên bố mất quyền khiếu nại[34,Tr15-16].

2.1.3.2. Tổ chức giải quyết khiếu kiện hành chính thuộc hệ thống Toà án tư pháp

Theo mô hình này, chức năng TPHC được giao cho các Tòa án tư pháp đảm nhận. Trong đó, có quốc gia tổ chức TPHC thành một hệ thống thuộc bộ máy Toà án tư pháp như Trung quốc, có quốc gia giao việc giải quyết khiếu kiện cho chính các Tòa án tư pháp đảm nhận như Anh, Mỹ.

+ Ưu điểm chính cuả mô hình này là:

- Bảo đảm các tranh chấp quan trọng cuối cùng đều được xét xử bởi Tòa án.

- Quyền tư pháp và quyền hành pháp được tách bạch.

+ Các hạn chế cuả mô hình:

- Do không tổ chức thành một hệ thống chuyên trách nên các thẩm phán ít có điều kiện tìm hiểu, tích luỹ kinh nghiệm và nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kiến thức pháp luật trong lĩnh vực TPHC.

- Do giải quyết nhiều loại án khác nhau nên trong quá trình giải quyết vụ án dễ phát sinh sự nhầm lẫn giữa quan hệ pháp luật hành chính với các quan hệ pháp luật khác.

1) Mô hình Trung Quốc

Trước đây, cũng như nhiều nước XHCN khác, Trung Quốc không xây dựng hệ thống TPHC mà trao quyền tài phán này cho chính các cơ quan hành chính nhà nước. Từ năm 1982, luật pháp Trung Quốc đã cho phép công dân có thể kiện ra toà án những khiếu kiện liên quan đến những lĩnh vực mà pháp luật hành chính quy định.

Năm 1990 Trung Quốc ban hành Luật tố tụng hành chính và tổ chức các Toà hành chính nằm trong Toà án nhân dân các cấp để giải quyết các KKHC. Toà án nhân dân Trung Quốc được chia thành 4 cấp:

- Các Toà án cơ sở, được tổ chức ở cấp huyện;

- Các Toà án trung cấp (đệ nhị cấp), được tổ chức ở cấp tỉnh;

- Các Toà án cao cấp, được tổ chức ở cấp vùng;

- Cấp cao nhất là Toà án nhân dân tối cao ở trung ương.

Về thủ tục tiền tố tụng, Luật tố tụng hành chính Trung Quốc không quy định điều kiện khiếu nại đến cơ quan, người đã có QÑHC, HVHC là một thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện (trừ trường hợp luật hoặc văn bản pháp quy có quy định khác) [39,Tr123].

Luật tố tụng hành chính Trung Quốc cũng cho phép Tòa án khi giải quyết các KKHC, trong một số trường hợp , Ví dụ như khiếu kiện đối với quyết định XPVPHC, Tòa án có quyền sửa đổi quyết định xử phạt nếu thấy quyết định này « rõ ràng » là thiếu công bằng. Nói cách khác bản án của Tòa án sẽ thay thế QÑHC [39,tr127]. Quy định về quyền phán quyết thay thế của Tòa án là sự bảo hộ về pháp lý để bảo đảm phán quyết của Tòa án thực sự là quyết định cuối cùng, trong một chừng mực nhất định nó khắc phục được tình trạng phán quyết của Tòa án không thể thi hành được vì các cơ quan hành chính nhà nước không chịu thực hiện. Tuy nhiên, nếu quy định này không được cụ thể, chặt chẽ dễ dẫn tới tình trạng bị lạm dụng, quyền hành pháp và tư pháp bị lẫn lộn làm ảnh hưởng ñeán quyền hành pháp.

Qua một số năm hoạt động, việc tổ chức cơ quan TPHC nằm trong hệ thống toà án tư pháp cuả Trung Quốc tỏ ra có nhiều hạn chế, nhất là các thủ tục về xác minh, thu thập chứng cứ và việc thi hành bản án. Vì vậy, hiện nay Trung Quốc đang tiếp tục nghiên cứu nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động cuả TPHC theo hướng thiết lập một hệ thống TPHC độc lập, tách khỏi hệ thống Toà án tư pháp[39,Tr114-115].


2) Mô hình cuả Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là một quốc gia có hình thức cấu trúc liên bang, do đó hệ thống toà án cũng được tổ chức theo liên bang và các tiểu bang[19,Tr6].

Hệ thống Toà án liên bang bao gồm:

- Các Toà án khu vực liên bang, các Toà án chuyên biệt (Toà thương mại quốc tế, Toà khiếu nại, Toà phá sản…);

- Các Toà án phúc thẩm lưu động liên bang;

- Toà án tối cao liên bang.

Hệ thống Toà án cuả các tiểu bang gồm;

- CácToà án sơ thẩm;

- Các Toà án phúc thẩm;

- Toà án tối cao tiểu bang.

Tuỳ theo tính chất, mức độ, quan hệ pháp luật điều chỉnh mà vụ kiện có thể thuộc thẩm quyền giải quyết cuả Toà án liên bang hoặc tiểu bang.

Toà án tối cao liên bang là cơ quan xét xử cao nhất cuả Hoa Kỳ. Các phán quyết cuả nó là cao nhất và cuối cùng.

Toà án tối cao tiểu bang là Toà án cao nhất cuả bang có nhiệm vụ xét xử tất cả các bản án cuả Toà án cấp dưới có kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, bản án cuả Toà án tối cao tiểu bang không phải là cuối cùng. Trong trường hợp nội dung vụ án có liên quan đến vấn đề bị pháp luật liên bang điều chỉnh thì bản án đó có thể bị Toà án tối cao liên bang xem xét lại như một vụ án cuả liên bang[9, Tr50-54].

Theo quy định cuả pháp luật Hoa Kỳ, trước khi khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án tư pháp, người khởi kiện phải khiếu nại trước đến cơ quan “tài phán hành chính” thuộc cơ quan hành chính nhà nước. Trường hợp không đồng ý với phán quyết cuả cơ quan TPHC này, người khởi kiện có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án tư pháp. Khi thụ lý các khiếu kiện này, Tòa án tư pháp chỉ xem xét lại về tính đúng đắn cuả các phán quyết tài phán. Tương tự như pháp luật Trung Quốc, pháp luật Hoa Kỳ cũng trao cho Tòa án tư pháp có quyền đưa ra các phán quyết của mình thay cho quyết định hành chính của cơ quan hành chính nếu thấy cần thiết[19,Tr3].

Mặc dù tại Hoa Kỳ việc giải quyết các KKHC được giao cho Tòa án tư pháp, nhưng do có cơ chế về TPHC tiền tố tụng tư pháp nên dù phán quyết cuả TPHC thuộc cơ quan hành chính nhà nước có thể bị Tòa án tư pháp xem xét lại, nhưng Tòa án ít khi thay đổi các quyết định này, trừ khi Tòa án thấy luật bị áp dụng sai hoặc phiên xử cuả TPHC không được tiến hành công bằng, vô tư.

Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động TPHC cuả Hoa Kỳ cho thấy, hình thức tổ chức giải quyết khiếu kiện bằng TPHC thuộc cơ quan hành chính nhà nước trước khi thực hiện việc khiếu kiện ra Tòa án tư pháp đã làm giảm nhẹ đáng kể khối lượng công việc cuả Tòa án, vì Tòa án sẽ chỉ giải quyết các khiếu kiện đối với các phán quyết cuả TPHC mà thôi. Ví dụ, ở Hoa Kỳ chỉ có khoảng 10% số lượng các quyết định cuả TPHC bị kiện ra Tòa án và chỉ có khoảng 10% trong số này bị Tòa án sưả đổi hoặc lật ngược lại[2,Tr25-27].



2.1.3.3 Mô hình tổ chức Tòa án hành chính độc lập

Theo mô hình này, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết KKHC được tổ chức thành một hệ thống độc lập, tồn tại song song, độc lập với hệ thống Tòa án tư pháp và độc lập với hệ thống hành chính nhà nước. Các quốc gia tiêu biểu theo mô hình này có thể kể đến: Cộng hoà liên bang Đức, Thuỵ Điển …

Mô hình này có các ưu điểm giống như mô hình TPHC trực thuộc hệ thống Toà án tư pháp (bảo đảm các tranh chấp đều được xét xử bởi Tòa án; quyền tư pháp và quyền hành pháp được tách bạch). Ngòai ra, mô hình này còn khắc phục được những hạn chế cuả mô hình TPHC trực thuộc hệ thống Tòa án tư pháp do được chuyên môn hoá cao hơn. Nhưng mô hình này có một hạn chế là làm tăng số lượng các cơ quan nhà nước trong hệ thống các cơ quan tư pháp.

Để hiểu rõ hơn mô hình này, ta có thể xem xét tổ chức và hoạt động tài phán hành chính ở một số quốc gia sau:

1) Mô hình Cộng hòa liên bang Đức

Ở Cộng hoà liên bang Đức không những các cơ quan có chức năng TPHC được tổ chức thành một hệ thống Tòa án riêng biệt, mà các tòa án khác cũng đựơc tổ chức thành các hệ thống riêng biệt. Có 6 loại tòa án cùng tồn tại thành những hệ thống độc lập, đó là:

- Hệ thống các Tòa án tư pháp;

- Hệ thống các Tòa án hiến pháp;

- Hệ thống các Tòa án tài chính;

- Hệ thống các Tòa án lao động;

- Hệ thống các Tòa án xã hội;

- Hệ thống các Tòa án hành chính.

Hệ thống các Tòa án hành chính gồm 52 Tòa án hành chính khu vực, 16 Tòa án hành chính liên khu vực (bang) và 01 Tòa án hành chính liên bang. Đối với hầu hết các vụ án, Tòa án hành chính khu vực là Toà sơ thẩm, Tòa án hành chính bang là Tòa phúc thẩm và Tòa án hành chính liên bang là Toà giám đốc thẩm. Trong một số trường hợp thì Tòa án hành chính bang là Toà xét xử sơ thẩm, Tòa án hành chính liên bang là Tòa xét xử phúc thẩm hoặc Tòa án hành chính liên bang là Toà xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm[44],[34,Tr145-147] .


  1. Mô hình Vương quốc Thụy Điển

Tòa án hành chính được tổ chức thành một hệ thống gồm: Tòa án hành chính sơ thẩm, Tòa án hành chính phúc thẩm và Tòa án hành chính tối cao.

Toà hành chính sơ thẩm có các thẩm phán, các thư ký Tòa và các chuyên gia pháp luật giúp việc. Phiên tòa hành chính sơ thẩm có 01 thẩm phán và 03 hội thẩm. Bản án hoặc quyết định cuả Tòa án hành chính sơ thẩm có thể bị kháng cáo.

Hội đồng xét xử phúc thẩm thuộc Tòa án hành chính phúc thẩm gồm 3 thẩm phán và 2 hội thẩm. Bản án, quyết định cuả Tòa án hành chính phúc thẩm có thể bị khiếu nại đến Tòa án hành chính tối cao.

Tòa án hành chính tối cao có tất cả 18 thẩm phán. Hội đồng xét xử cuả Tòa án hành chính tối cao gồm 05 thẩm phán. Tòa án hành chính tối cao rất ít khi xét xử lại vụ án hành chính đã xét xử phúc thẩm, trừ trường hợp thấy rằng việc xét xử lại sẽ làm án lệ chung hoặc vụ việc có một số tình tiết hoặc lý do đặc biệt.

Để giảm áp lực công việc cho Tòa án và tiết kiệm các chi phí giải quyết, pháp

luật Thuỵ Điển cũng quy định người khởi kiện phải khiếu nại trước đến cơ quan hành chính đã ban hành QÑHC hoặc có HVHC bị khiếu kiện trước khi khởi kiện [46,Tr29-30].

Về mặt thẩm quyền, cũng giống như Tòa án tại Hoa kỳ, khi giải quyết các khiếu kiện hành chính Tòa án hành chính Thụy Điển có quyền hủy bỏ QÑHC bị khởi kiện và ban hành một quyết định khác để thay thế[37,Tr84].

2.1.4. Các quan điểm và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động tài phán hành chính ở nước ta


2.1.4.1. Những quan điểm tổ chức và hoạt động tài phán hành chính

Theo chúng tôi, hoạt động TPHC phải tuân theo các quan điểm chỉ đạo cơ bản sau đây:

+ Phải thể hiện được tinh thần đổi mới cuả Đảng trong đó có các quan điểm chỉ đạo về cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Tinh thần đổi mới không có nghĩa là chỉ cần thay đổi mô hình tổ chức và thủ tục giải quyết KKHC bằng một mô hình và thủ tục tố tụng khác, mà đổi mới cần phải được hiểu cả về nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, cả về hình thức lẫn nội dung. Mô hình TPHC đưa ra phải bảo đảm nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ, không làm cồng kềnh thêm bộ máy hiện có.

+ Phải đặt trong tổng thể cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phải căn cứ vào hiến pháp và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước. TPHC là một trong những nội dung cuả nền hành chính nhà nước. Cùng với những đổi mới về tư duy chúng ta phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động cuả hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy nhà nước, cải cách hành chính nhà nước và cải cách tư pháp, tức là phải đổi mới thiết chế nhà nước, đổi mới về tổ chức, hoạt động cuả bộ máy nhà nước, quy định rõ quy chế công chức, công vụ. TPHC phải thực sự là công cụ kiểm soát hoạt động cuả các cơ quan hành chính và cán bộ công chức nhà nước, bộ máy tổ chức phải gọn nhẹ, thủ tục tố tụng phải chặt chẽ nhưng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, phải bảo đảm được quyền kiểm tra, giám sát cuả nhân dân đối với hoạt động cuả cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.

+ Phải dưạ trên cơ sở tổng kết thực tiễn giải quyết KKHC cuả công dân, cơ quan, tổ chức đối với các QÑHC, HVHC. Việc giải quyết KKHC phải là sự kế thưà và nâng lên một bước cao hơn việc giải quyết các khiếu nại cuả người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu. Trên thế giới có nhiều mô hình tổ chức KKHC khác nhau, có thể nói không có mô hình nào là hòan thiện hơn cả, nó phù hợp ở nước này nhưng chưa hẳn đã phù hợp với nước khác, vì vậy ta không thể sao chép bất kỳ máy móc vào điều kiện cuả nước ta mà phải tiếp thu nó một cách có chọn lọc, vận dụng một cách thích hợp vào hòan cảnh kinh tế- xã hội, đặc điểm nền hành chính và truyền thống pháp lý cuả nước ta.

+ Phải bảo đảm tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; Các đương sự phải bình đẳng khi tham gia tố tụng. Nguyên tắc này liên quan đến việc lưạ chọn mô hình tổ chức, xác định thẩm quyền và thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm việc độc lập cuả cơ quan tài phán khi giải quyết vụ việc. Bảo đảm sự phân định giữa hành chính quản lý và hành chính tài phán. Điều đó có nghĩa là tổ chức TPHC phải thóat khỏi quan hệ mệnh lệnh - phục tùng. Có như vậy hoạt động tài phán mới bảo đảm sự độc lập và bảo đảm sự bình đẳng giữa các cá nhân với pháp nhân, giữa cơ quan nhà nước với cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.

+ Phải đánh giá đúng yếu tố cán bộ và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho tổ chức và hoạt động cuả cơ quan TPHC. Cán bộ quyết định mọi vấn đề, đó là nhân tố chủ yếu, nhân tố hành đầu. Tổ chức cơ quan TPHC phụ thuộc trước hết vào trình độ hiểu biết và năng lực hành động cuả công chức làm việc trong cơ quan tài phán, đặc biệt là những cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác giải quyết khiếu kiện. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của TPHC đòi hỏi cán bộ trực tiếp giải quyết vụ việc phải có phẩm chất, đạo đức chính trị vững vàng, năng lực trí tuệ, năng lực chuyên môn ngang tầm công việc.

+ Phải thể hiện được sự ưu việt cuả mô hình so với các mô hình giải quyết KKHC trước đó. Xã hội loài người luôn vận động và phát triển theo chiều hướng cái sau sẽ hoàn thiện hơn cái trước, mô hình tài phán mới phải bảo đảm khắc phục được những hạn chế cuả các mô hình trước đó. Mô hình này phải đáp ứng được các đòi hỏi cuả công dân đó là phải bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp cuả người khởi kiện; tổ chức phải gọn gàng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xã hội; thủ tục tố tụng phải chặt chẽ nhưng phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện.



2.1.4.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động tài phán hành chính

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cuả TPHC là những tư tưởng, nguyên lý chủ đạo, xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động TPHC.

Việc tuân thủ các nguyên tắc này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, hiệu lực cuả hoạt động TPHC. Các nguyên tắc này là một hệ thống thống nhất, việc thực hiện chúng là điều kiện, tiền đề cho việc thực hiện các nguyên tắc khác. Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ tất cả các nguyên tắc này[27,Tr148].

Việc thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động sẽ bảo đảm cho bộ máy tổ chức tài phán có một cơ cấu hợp lý, gọn nhẹ, tránh được những trùng lắp không cần thiết. Trong hoạt động, việc tuân thủ các nguyên tắc làm cho bộ máy tài phán hoạt động đồng bộ, thông suốt, phát huy được tính chủ động, độc lập cuả đội ngũ cán bộ, công chức, bảo đảm cho pháp luật được áp dụng một cách nhất quán và phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TPHC bao gồm các nguyên tắc chung và các nguyên tắc đặc thù.

1) Những nguyên tắc chung

Những nguyên tắc chung là những nguyên tắc làm cơ sở chỉ đạo tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung, trong đó có TPHC.

+ Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân[41,Tr90].

Nhà nước ta là nhà nước XHCN, là tổ chức để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ cuả mình, là nhà nước cuả dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, trong đó có quyền về tư pháp[21,tr100].

Thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC, thực chất là bảo đảm quyền lực cuả nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Hoạt động TPHC phải bảo đảm cũng là một hoạt động nhằm thực hiện quyền lực nhà nước cuả nhân dân. Điều này có nghiã là nhân dân phải được đóng góp ý kiến cuả mình về mô hình tổ chức TPHC, hoạt động tài phán phải chiụ sự giám sát cuả nhân dân (việc giám sát này có thể được thực hiện thông quá hoạt động giám sát cuả các cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc các hình thức khác như thông qua việc khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị cuả công dân...). Thậm chí nhân dân cũng có thể trực tiếp tham gia vào hoạt động giải quyết khiếu kiện với tư cách là Hoà giải viên, Hội thẩm nhân dân hoặc bồi thẩm đoàn ...

+ Nguyên tắc tập trung dân chủ.

Thực ra, nội dung cơ bản nhất cuả tập trung dân chủ là yếu tố tập trung. Điều này là chân lý do bản chất quyền uy cuả hoạt động quản lý tạo ra, bởi ở đâu có quản lý là ở đó phải có tập trung[31,Tr74]. Tuy nhiên, theo quan điểm tiến bộ thì tập trung phải được thực hiện trên cơ sở phát triển dân chủ, trên nền tảng cuả dân chủ. Yêu cầu cơ bản cuả nguyên tắc này là phải bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất cuả các cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới, giữa thủ trưởng với nhân viên, đồng thời, bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo và khả năng độc lập nhất định trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao cuả các cán bộ, công chức, cơ quan cấp dưới. Đặc biệt là bảo đảm sự độc lập cuả cán bộ, công chức và cơ quan tài phán cấp dưới đối với thủ trưởng cơ quan tài phán, đối với cơ quan tài phán cấp trên hoặc đối với các cơ quan hành chính bị kiện khi giải quyết các KKHC.



+ Nguyên tắc pháp chế XHCN.

Thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động cuả TPHC có nghĩa là mọi cơ quan, cán bộ, công chức khi giải quyết các KKHC cũng như mọi đối tượng khi tham gia vào hoạt động tố tụng cuả TPHC đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và nghiêm minh; bảo đảm sự thống nhất cuả trật tự, kỷ cương, hiệu lực cuả phán quyết; bảo đảm dân chủ và công bằng xã hội. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ góp phần đấu tranh chống các tư tưởng cục bộ, tuỳ tiện, vô chính phủ, đấu tranh có hiệu quả để ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác trong việc giải quyết khiếu kiện.



+ Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo cuả Đảng.

Thông qua hoạt động TPHC, Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo cuả mình đối với xã hội. Sự lãnh đạo cuả Đảng cộng sản nhằm bảo đảm cho ý chí cuả giai cấp lãnh đạo được thực hiện trong thực tế. Vì vậy bảo đảm sự lãnh đạo cuả Đảng là một yêu cầu khách quan đặt ra khi tổ chức cơ quan TPHC. Sự lãnh đạo cuả Đảng không chỉ nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động cuả TPHC được thực hiện theo đúng đường lối, chính sách cuả Đảng mà còn là điều kiện cơ sở để bảo đảm các quyền tự do dân chủ cuả công dân[36,tr111].

2) Những nguyên tắc đặc thù

Đây là những nguyên tắc riêng chỉ đạo tổ chức và hoạt động tài phán hành chính.



+ Tổ chức mô hình phải phù hợp với chức năng tài phán; Phải bảo đảm sự hoàn chỉnh và thống nhất[30,Tr97].

TPHC không phải là hoạt động quản lý, không phải là hoạt động nghiên cứu khoa học, đồng thời cũng không phải là một hoạt động dịch vụ mà là hoạt động trọng tài cuả Nhà nước để giải quyết các tranh chấp liên quan đến QÑHC, HVHC. Do đó, về hình thức, cơ cấu tổ chức cuả TPHC phải bảo đảm làm sao cho phù hợp với chức năng cuả mình, không nên tổ chức một khâu, một bộ phận nào đó cuả tài phán hành chính nếu khâu, bộ phận đó không liên quan đến hoạt động cuả tài phán và không trực tiếp thực hiện hoặc phục vụ cho hoạt động tài phán. TPHC phải có bộ phận chuyên môn để trực tiếp giải quyết khiếu kiện, đồng thời phải có bộ phận phục vụ để bảo đảm cho các hoạt động chuyên môn. TPHC cũng phải được tổ chức thành hệ thống bảo đảm vụ việc khiếu kiện sau khi đã được giải quyết lần đầu phải được xem xét lại bởi một một cấp tiếp theo nếu có đương sự không đồng ý.



+ Phải phân định thẩm quyền rõ ràng[30,Tr98].

Quyền lực nhà nước được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan nhà nước nhưng làm thế nào để không xảy ra sự chồng chéo về thẩm quyền giữa chúng. Vấn đề đặt ra là cần có quy định cụ thể, rõ ràng về thẩm quyền cho từng cơ quan và phải đúng nguyên tắc, phương pháp phân định thẩm quyền. TPHC phải được trao quyền một cách cụ thể, rõ ràng. Các trường hợp có thể có chồng chéo về thẩm quyền thì cần phải chú ý phân định cụ thể.



+ Phải tiết kiệm và hiệu quả[30,Tr99]..

Tiết kiệm và hiệu quả là yêu cầu được đặt ra cho mọi đối tượng, mọi chủ thể trước khi thực hiện một hành vi, thao tác cụ thể. Tiết kiện để bảo đảm sử dụng hợp lý nguồn nhân tài lực đầu tư; thủ tục không quá phức tạp, quá tốn kém một cách không cần thiết; tiết kiệm phải đặt trong mối quan hệ về hiệu quả cuả hoạt động. TPHC phải được tổ chức trên nguyên tắc sử dụng hợp lý các nguồn nhân lực, tài lực với hiệu quả cao. Tiết kiệm kinh phí cho nhà nước và tiết kiệm cho cả các chủ thể khác khi tham gia vào hoạt động tố tụng cuả TPHC.




tải về 0.66 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương