CƠ SỞ LÝ luận về khiếu kiện hành chíNH, LỊch sử VÀ thực trạNG khiếu kiện hành chính ở NƯỚc ta 6


Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HÒAN THIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA



tải về 0.66 Mb.
trang8/9
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích0.66 Mb.
#1942
1   2   3   4   5   6   7   8   9

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HÒAN THIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA

3.1. Mô hình tài phán hành chính thuộc Chính phủ


Để khắc phục một phần nào các hạn chế cuả cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính hieän haønh, thực hiện sự chỉ đạo cuả Thủ tướng Chính phủ, vưà qua Thanh tra Chính phủ đã có đề án đề nghị thành lập hệ thống TPHC thuộc Chính phủ tại Việt Nam[14] .

Theo đề án này, một hệ thống cơ quan TPHC thuộc Chính phủ được tổ chức thành 3 cấp: TPHC trung ương- TPHC vùng- TPHC khu vực sẽ thay thế các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trong việc giải quyết các KKHC.

Cơ quan TPHC trung ương đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, có thẩm quyền:

- Giải quyết các khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC cuả bộ trường, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND cấp tỉnh.

- Tư vấn cho Chính phủ về những vấn đề trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, khắc phục sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

- Hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ xét xử cho cơ quan TPHC cấp dưới.

Cơ quan TPHC vùng được thành lập ở 3 miền Bắc, Trung, Nam có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC cuả giám đốc sở hoặc tương đương thuộc các tỉnh trong khu vực (TPHC miền Bắc còn có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC cuả Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ). Tư vấn cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý, điều hành đã được phát hiện qua hoạt động xét xử.

Cơ quan TPHC khu vực (từ 3 đến 5 huyện thành lập một cơ quan tài phán) có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC cuả chủ tịch UBND cấp huyện, trưởng phòng thuộc UBND cấp huyện, chủ tịch UBND cấp xã. Tư vấn cho các sở, ngành, UBND cấp huyện khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý, điều hành đã được phát hiện qua hoạt động xét xử.

Để việc giải quyết KKHC được nhanh chóng, chính xác, kịp thời phù hợp với tính chất, đặc điểm, nội dung cuả từng loại khiếu kiện, trong cơ quan TPHC sẽ có những bộ phận chuyên biệt để giải quyết những khiếu kiện về thuế, sở hữu trí tuệ, đất đai…

Trường hợp không đồng ý với phán quyết cuả cơ quan TPHC, các đương sự có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án để xem xét theo thủ tục giám đốc.

Việc nghiên cứu, đề xuất mô hình TPHC như trên cuả Thanh tra Chính phủ thể hiện được sự cố gắng cuả cơ quan này trong việc tìm tòi, để đổi mới, hòan thiện mô hình giải quyết KKHC. Mô hình tổ chức này phù hợp với vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn cuả Chính phủ là tổ chức và lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại hành chính được Hiến pháp quy định, tạo ra được một cơ chế tài phán gắn liền với công tác quản lý, điều hành cuả Chính phủ cho phép duy trì và tăng cường kỷ cương hành chính, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt cuả hệ thống hành chính nhà nước. Do nằm trong hệ thống hành chính nên mô hình TPHC này không chỉ có quyền phán xét về tính hợp pháp cuả QĐHC, HVHC mà còn có điều kiện xem xét cả tính hợp lý cuả các QĐHC, HVHC bị khiếu kiện. Do nằm trong hệ thống hành chính nhà nước, TPHC sẽ có mối quan hệ mật thiết với các cơ quan hành chính nhà nước đặc biệt là với Thủ tướng Chính phủ và quyền lực cuả Thủ tướng Chính phủ là điều kiện thuận lợi bảo đảm cho việc thực hiện các phán quyết cuả TPHC. Là một bộ phận cuả hệ thống hành chính nên ngoài việc xét xử các KKHC, TPHC còn có thể tham mưu, tư vấn cho thủ trưởng các cơ quan hành chính những vấn đề trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, khắc phục sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, góp phần nêng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, theo chúng tôi việc tổ chức mô hình TPHC như trên vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế:



Một là việc thành lập thêm hệ thống các cơ quan TPHC làm bộ máy hành chính nhà nước thêm cồng kềnh.

Hai là cơ quan TPHC được thành lập nhưng lại không thay thế việc GQKN cuả người có thẩm quyền GQKN lần đầu, cũng không thay thế việc giải quyết vụ án hành chính cuả Tòa án mà là thêm một khâu mới trong quy trình giải quyết KKHC. Điều này làm quy trình giải quyết KKHC thêm phức tạp và do đó thời gian giải quyết khiếu kiện bị kéo dài thêm.

Ba là tại đề án ban sọan thảo chưa nêu ra được trường hợp quyết định giải quyết của TPHC bị Tòa án hủy bỏ thì KKHC được tiếp tục giải quyết ra sao? Theo chúng tôi chỉ có thể có hai cách giải quyết hoặc là đưa về TPHC giải quyết lại hoặc là người khiếu kiện có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án trực tiếp giải quyết lại khiếu kiện ( Tương tự như quy định việc giải quyết lại tranh chấp kinh doanh thương mại sau khi có Bản án của Tòa án hủy bỏ quyết định trọng tài -Khỏan 6 Điều 53 Pháp lệnh Trọng tài thương mại ngày 25/02/2003) và cho dù chọn cách nào trong hai cách nêu trên thì vụ việc cũng bị kéo dài, tốn rất nhiều thời gian, chi phí của nhà nước và các bên đương sự.

Bốn là quyền hành pháp và quyền tư pháp cuả Thủ tướng Chính phủ dễ bị lẫn lộn hoặc bị lạm dụng. Đặc biệt dưới quyền lực cao nhất thuộc về Thủ tướng Chính phủ, nguyên tắc độc lập xét xử cuả TPHC khó có khả năng thực hiện.

3.2. Vấn đề hòan thiện mô hình tài phán hành chính ở nước ta


Để khắc phục các hạn chế cuả mô hình TPHC hiện hành ở nước ta, trên cơ sở lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động TPHC, đặc biệt là việc nghiên cứu về mục đích, yêu cầu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động cuả TPHC với chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cuả Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hòan thiện mô hình tổ chức và hoạt động giải quyết các KKHC ở nước ta.

3.2.1 Các quan điểm cần quán triệt


Cải cách mô hình tổ chức toà án để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đó có các KKHC là một nội dung quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ ra một số phương hướng sau:

- Sẽ mở rộng thẩm quyền xét xử cuả Tòa án đối với các KKHC. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục tố tụng hành chính; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án.

- Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án cuả Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết cuả Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành .

- Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Việc thành lập Toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử cuả từng cấp Tòa án, từng khu vực…

Theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo thì phương hướng cải cách tư pháp được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW là căn cứ quan trọng hàng đầu để nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nhằm hòan thiện mô hình tổ chức và hoạt động TPHC ở nước ta.

Dưới góc độ phát triển, đổi mới mô hình tổ chức TPHC là xu hướng, là đòi hỏi tất yếu của một xã hội dân chủ, một nhà nước văn minh nhưng đổi mới không đơn giản là tổ chức một mô hình TPHC khác mà đổi mới cần phải được hiểu cả về nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, cả về hình thức lẫn nội dung, cả về số lượng và chất lượng. Đổi mới không có nghiã là bỏ cũ thay mới mà đổi mới phải được thực hiện trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các yếu tố còn phù hợp của mô hình cũ. Đổi mới phải bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ yếu cuả tài phán hành chính ở nước ta, đặc biệt là nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả; phát huy được vai trò cuả tài phán hành chính đối với nền hành chính quốc gia trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, các nguyên tắc trên là các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh tổ chức và họat động của TPHC ở nước ta.

Tùy theo quan điểm về TPHC cũng như các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể các quốc gia trên thế giới đã lựa chọn cho mình một hình thức tổ chức TPHC phù hợp. Mỗi một hình thức tài phán ( thuộc chính phủ, thuộc Tòa án tư pháp hoặc độc lập) đều chứa đựng trong nó những yếu tố tích cực cùng các hạn chế. Đổi mới mô hình TPHC phải đứng trên quan điểm khai thác triệt để ưu điểm cuả các mô hình TPHC của các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt là các ưu điểm về mô hình tổ chức cuả các nước phát triển (Mỹ, Pháp, Đức…) và các nước có các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá tương đối tương đồng với chúng ta (Trung quốc, Thái Lan….)[4,Tr12].

Như đã trình bày ở chương trước, các mô hình tổ chức TPHC ở nước ta hiện nay vẫn chứa đựng trong nó nhiều yếu tố chưa phù hợp. Do vậy đổi mới mô hình TPHC ở nước ta phải khắc phục được hoặc hạn chế đến mức thấp nhất các nhược điểm đã gặp cuả mô hình TPHC hiện hành.


3.2.2. Mô hình tài phán hành chính được đề xuất


3.2.2.1. Mô hình tổ chức

Nhằm tăng cường tính chất chuyên môn hóa của họat động TPHC, trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và họat động của TPHC, các quan điểm về đổi mới và sự tiếp thu có chọn lọc về mô hình TPHC của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới, chúng tôi đề nghị nên giao tòan bộ quyền TPHC cho ngành tòa án nhân dân đảm trách.

Giao toàn bộ quyền TPHC cho Toà án vừa là biểu hiện cuả sự phát triển đúng quy luật về phân công lao động và chuyên môn hoá hoạt động xét xử; vừa khắc phục được các hạn chế cuả cơ chế giải quyết khiếu nại hiện hành cũng như các hạn chế cuả cơ chế TPHC thuộc Chính phủ[3] , như:

- Bảo đảm các tranh chấp phát sinh trong việc thực hiện các quan hệ pháp luật đều được giải quyết bởi cơ quan xét xử chuyên nghiệp cuả Nhà nước ( Tòa án);

- Bảo đảm sự tách bạch, rõ ràng về chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước (Quốc hội: Lập pháp, Chính phủ: Hành pháp, Toà án: Tư pháp);

- Không làm tăng thêm số lượng các cơ quan hành chính nhà nước;

- Hạn chế sự lẫn lộn, lạm dụng quyền hành pháp cuả Thủ tướng chính phủ trong việc thực hiện quyền TPHC;

- Tạo điều kiện cho cơ quan hành chính nhà nước có thời gian tập trung làm tốt chức năng quản lý, điều hành.

Một trong những vấn đề làm cho nhiều người lo ngại khi trao toàn bộ quyền giải quyết KKHC cho Toà án đó là trong các khiếu kiện có những khiếu kiện có nội dung liên quan đến bí mật quốc gia hoặc bí mật về an ninh quốc phòng việc xét xử công khai cuả Toà án có thể không bảo đảm được các bí mật này. Theo chúng tôi vấn đề lo lắng trên có thể giải quyết được bằng cách đưa vào thủ tục tố tụng hành chính quy định như: Việc tổ chức các phiên toà không công khai, việc giữ bí mật cuả những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng khi toà án giải quyết các KKHC liên quan đến các thông tin thuộc về bí mật theo quy định cuả pháp luật.

Một vấn đề nưã cũng được đặt ra là: Liệu ngành Toà án có bảo đảm đủ các điều kiện về vật chất cũng như con người để đảm nhận giải quyết được toàn bộ các tranh chấp hành chính phát sinh khi cơ quan hành chính nhà nước không còn thẩm quyền nhận và giải quyết các khiếu kiện này. Đặc biệt là việc tổ chức mô hình giải quyết KKHC cuả Toà án như thế nào để bảo đảm sự khách quan, vô tư cuả Toà án. Theo chúng tôi được biết, ngay từ khi được trao thẩm quyền giải quyết một số loại KKHC (1/7/1996) ngành Toà án nhân dân đã chuẩn bị khá đầy đủ nguồn nhân lực cũng như cơ sở vật chất để tiếp nhận công việc mới này, ví dụ: Về nhân sự Toà hành chính Toà án nhân dân thành phố hiện nay có 10 thẩm phán và 12 thư ký nghiệp vụ, các thẩm phán và thư ký này đều có trình độ cử nhân luật và đều có kinh nghiệm về chuyên môn, nhưng trung bình mỗi năm Toà hành chính – TAND.TPHCM chỉ giải quyết khoảng 100 vụ án hành chính các loại, số còn lại là các loại án khác ( khoảng 800 vụ). Với đội ngũ cán bộ, công chức hiện có cộng với số cán bộ mới được điều động từ bộ phận giải quyết khiếu nại các cơ quan hành chính chuyển qua (sau khi đã được đào tạo, bồi dưỡng và bố trí công việc theo các tiêu chuẩn chức danh cuả ngành toà án), theo chúng tôi lực lượng cán bộ cuả Toà án sẽ đủ sức đảm đương các nhiệm vụ được giao.

Về trụ sở và các phương tiện làm việc cuả Toà án, chúng ta cũng có thể xắp xếp được trên cơ sở tận dụng cơ sở vật chất hiện có cuả ngành Toà án và cuả các cơ quan hành chính nhà nước khác sau khi bố trí lại chức năng, nhiệm vụ phù hợp.

Theo chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020 cuả Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, trong thời gian sắp tới nếu chúng ta xắp xếp lại các Toà án cấp huyện để thành lập các Toà án sơ thẩm khu vực trên cơ sở dự tính lượng án sẽ thụ lý cuả mỗi điạ phương, với số lượng trụ sở dư ra sau khi thành lập các Toà án khu vực thì việc bố trí trụ sở làm việc cho các Toà hành chính là một vấn đề không quá khó khăn.

Về mô hình tổ chức: Như chúng ta đã biết, việc tổ chức giải quyết KKHC hiện nay cuả ngành Toà án có nhiều điểm hạn chế như đã phân tích ở phần trên. Để khắc phục các hạn chế đó, chúng ta cần thay đổi mô hình hiện nay bằng việc thành lập hệ thống Tòa hành chính độc lập thuộc Tòa án nhân dân, bao gồm: Tòa hành chính tối cao; Tòa hành chính vùng, miền và Toà hành chính khu vực để giải quyết các KKHC., cuï theå:

+ Tòa hành chính tối cao: Là một Tòa chuyên trách thuộc TANDTC có thẩm quyền xem xét lại các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật cuả Toà hành chính vùng và Toà hành chính khu vực theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Pháp luật cuả hầu hết các quốc gia đều trao quyền giám đốc thẩm, tái thẩm cho TANDTC. Tuy nhiên, ở nước ta thẩm quyền này cuả TANDTC đã được trao cho các Toà chuyên trách (Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà hành chính, Toà lao động) cuả TANDTC thực hiện. Do đó, cùng với việc tổ chức lại hệ thống Toà hành chính cần phải bỏ quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cuả Hội đồng thẩm phán TANDTC để Hội đồng thẩm phán tập trung vào việc hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật.

+ Tòa hành chính vùng: Vị trí điạ lý, điều kiện tự nhiên, phong tục, tập quán sinh hoạt cuả vùng, miền, đặc biệt là lịch sử phát triển cuả đất nước đã tạo ra trên đất nước ta 3 vùng miền với nhiều yếu tố mang nét đặc trưng riêng trong một đại gia đình Việt Nam, tương ứng với 3 vị trí cụ thể trên bản đồ quốc gia: Miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Tại 3 vùng này, Toà án nhân dân tối cao đã thành lập tại mỗi vùng 1 Toà phúc thẩm để xét xử phúc thẩm toàn bộ các vụ án sơ thẩm cuả các Toà án nhân dân cấp tỉnh trong vùng bị kháng cáo, kháng nghị. Căn cứ vào vị trí, điều kiện điạ lý, dân số và số lượng các cơ quan hành chính trong các vùng, miền này, căn cứ thực tế tổ chức các Toà phúc thẩm cuả Toà án nhân dân tối cao, theo chúng tôi, tại mỗi vùng, miền trên, chúng ta cũng tổ chức một Toà hành chính vùng, miền (Toà hành chính miền Bắc, Toà hành chính miền Trung, Toà hành chính miền Nam).

Toà hành chính vùng, miền là toà chuyên trách độc lập có thẩm quyền giải quyết phúc thẩm những vụ án hành chính mà bản án, quyết định sơ thẩm cuả các Toà hành chính khu vực thuộc vùng, miền đã giải quyết chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục tố tụng.

+ Tòa hành chính khu vực: tuỳ thuộc vị trí điạ lý cuả các địa bàn cấp huyện; tùy thuộc số lượng quận, huyện, thành phố, thị xã, phường, xã, thị trấn; tùy theo dân số trong khu vực và số lượng, quy mô các cơ quan, tổ chức trong khu vực, có thể từ 8 đến 10 quận, huyện hoặc từ 10 đến 15 huyện thì thành lập một Tòa hành chính khu vực. Để để hạn chế sự phụ thuộc cuả thẩm phán và Toà hành chính khu vực vào các cơ quan hành chính nhà nước, bảo đảm sự khách quan vô tư cho cơ quan Toà án, việc thành lập Toà hành chính khu vực phải bảo đảm nguyên tắc không có trường hợp lãnh thổ thuộc phạm vi thẩm quyền xét xử cuả Tòa hành chính khu vực trùng hòan tòan với lãnh thổ cuả một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Toà hành chính khu vực là toà chuyên trách độc lập có thẩm quyền:

- Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các khiếu kiện hành chính đối với các QĐHC, HVHC cuả cơ quan, cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước cấp xã và cấp huyện thuộc khu vực.

- Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các khiếu kiện hành chính đối với các QĐHC, HVHC cuả cơ quan, cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước cấp trung ương hoặc cấp tỉnh, thành phố nơi mà người khởi kiện có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi làm việc cùng lãnh thổ với Tòa hành chính khu vực đó.

Toà hành chính các cấp có con dấu riêng, được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động, trụ sở, trang thiết bị làm việc.

Bộ máy nhân sự cuả Toà gồm chánh toà, các phó chánh toà, thẩm phán, thư ký và các nhân viên khác. Chaùnh Tòa, các phó chánh Tòa, thẩm phán Tòa hành chính các cấp do Chaùnh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm.

Phiên toà hành chính sơ thẩm cuả Toà hành chính khu vực được tiến hành tại trụ sở cuả toà.

Để tạo thuận lợi cho các đương sự khi tham dự phiên tòa có thể đi về trong cùng một ngày, nên quy định phiên Tòa hành chính phúc thẩm được tiến hành tại trụ sở cuả Toà hành chính vùng, miền, nếu khoảng cách từ tỉnh lỵ nơi người khởi kiện có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi làm việc đến tỉnh lỵ nơi đặt trụ sở cuả Toà hành chính vùng, miền thuộc phạm vi bán kính l00km (đây là khoảng cách tối đa đủ để các đương sự có thể tham dự phiên toà và đi về trong cùng một ngày). Trường hợp khoảng cách lớn hơn, thì phiên Tòa hành chính phúc thẩm được tiến hành tại trụ sở cuả Toà hành chính khu vực nơi người khởi kiện có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi làm việc.

3.2.2.2. Các giải pháp đồng bộ

Những nội dung dưới đây của mục này nằm ngòai phạm vi đề tài, nhưng là cần thiết vì việc thực hiện nó sẽ làm rõ các cơ sở pháp lý và tạo thêm các điều kiện vật chất bổ trợ cho họat động của mô hình TPHC được đề xuất. Do đó, ở đây chúng tôi chỉ nêu các giải pháp mà không đi sâu phân tích.

1) Về thủ tục tố tụng

Mặc dù thủ tục tiền tố tụng có những ưu điểm như đã phân tích ở phần trên nhưng bản thân thủ tục này cũng hàm chứa các yếu tố hạn chế làm ảnh hưởng đến quyền khởi kiện vụ án hành chính cuả các đương sự. Do đó, theo chúng tôi, không nên quy định thủ tục tiền tố tụng là một điều kiện bắt buộc phải thực hiện trước khi khởi kiện, mà chỉ quy định nó với tư cách là một điều khoản tuỳ nghi, tức là nên quy định người khởi kiện có quyền thực hiện việc khiếu nại đến người, cơ quan có QĐHC, HVHC bị khiếu kiện trước khi khởi kiện hoặc khởi kiện thẳng đến cơ quan TPHC mà không cần phải qua thủ tục khiếu nại. Điều này còn có ý nghĩa mở rộng quyền tự do, dân chủ - một yêu cầu chủ yếu của nhà nước pháp quyền, phù hợp với tiền lệ ( Trước đây , vào năm 1997 Chính phủ cũng từng có Nghị định số 47-CP ngày 03/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, tại Điều 3 Nghị định này có quy định việc: Công dân có quyền lựa chọn hoặc khởi kiện trực tiếp đến Tòa án để đòi bồi thường hoặc khiếu nại đến cơ quan nhà nước, cơ quan đã tiến hành tố tụng để đòi bồi thường trước khi quyết định việc khởi kiện) và phù hợp thông lệ của một số quốc gia trong cùng khu vực (Trung Quốc [39,Tr123], Singapore [46,Tr37]…) .

Thủ tục tố tụng cuả toà được thực hiện chủ yếu bằng hình thức văn bản (tố tụng viết), được tống đạt hoặc chuyển giao thông qua bưu điện, cơ quan thi hành án hoặc thưà phát lại (nếu có).

Cần bỏ quy định về việc việc khởi tố vụ án hành chính và quy định về tham gia phiên toà hành chính cuả Viện kiểm sát, bởi lẽ việc quy định Viện kiểm sát nhân dân khởi tố vụ án hành chính, tham dự phiên toà hành chính là một hình thức can thiệp cuả Nhà nước trong hoạt động tố tụng. Trong điều kiện hiện nay, với trình độ dân trí đã tương đối phát triển, công dân có thể tự định đoạt được việc kiện và tham gia tố tụng cuả mình. Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi thì người đại diện theo pháp luật cuả họ cũng có thể tự định đoạt được việc kiện và tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người mà họ đại diện. Do đó, sự can thiệp cuả Nhà nước trong hoạt động tố tụng như trên là một việc không còn cần thiết.

2) Về cơ chế bảo đảm thực hiện phán quyết

Theo quy định cuả pháp luật hiện hành thì việc tổ chức cưỡng chế thi hành bản án, quyết định cuả Toà án được trao cho nhiều cơ quan, như : phần dân sự tại bản án, quyết định cuả Toà án do Cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ tư pháp chiụ trách nhiệm tổ chức thi hành ; phần buộc chấp hành hình phạt tử hình tại bản án, quyết định cuả Toà án do Toà án đã xét xử sơ thẩm kết hợp với Viện kiểm sát, cơ quan công an tổ chức thi hành ; phần buộc chấp hành hình phạt tù không thời hạn, tù có thời hạn do cơ quan công an chịu trách nhiệm tổ chức thi hành …; phần quyết định buộc cơ quan, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước không được tiếp tục thực hiện các hành vi hành chính trái pháp luật hoặc phải thực hiện công vụ, nhiệm vụ cuả bản án hành chính do thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp theo dõi giám sát việc thi hành .

Theo chúng tôi, công tác tổ chức thi hành án cũng cần phải được chuyên nghiệp và chuyên môn môn hoá, tức là cần phải thành lập một hệ thống cơ quan thi hành án chung, có nhiệm vụ tổ chức thi hành thống nhất các bản án hình sự, dân sự, hành chính. Cơ quan thi hành án có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết theo quy định cuả pháp luật nhằm thực hiện phần phán quyết về hành chính trong bản án hành chính đã có hiệu lực thi hành trong trường hợp các đương sự không tự nguyện thi hành. Trong thời gian chưa tổ chức được cơ quan thi hành án như trên thì tổ chức bộ phận thi hành án hành chính (phần phán quyết về hành chính trong bản án hành chính) thuộc Toà hành chính khu vực để theo dõi và tổ chức thực hiện việc thi hành bản án hành chính. Ngoài ra, cơ quan thi hành án còn có thể đảm nhiệm thêm các nhiệm vụ như tống đạt các văn bản cuả Toà án cho các đương sự và thi hành các quyết định khác cuả Toà án nếu có.

Quản lý nhà nước là chức năng riêng có cuả bộ máy hành chính nhà nước. Toà án không có quyền làm thay các công việc này cuả bộ máy hành chính. Cho nên trường hợp các phán quyết hành chính cuả Toà án không được các các cơ quan, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thi hành thì phán quyết đó sẽ trở thành vô nghiã. Do đó, để bảo đảm bản án hành chính cuả Toà án phải được chấp hành nghiêm chỉnh, cần bổ sung quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức trong trường hợp cố tình không thi hành các bản án hành chính có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định có hiệu lực thi hành cuả Toà hành chính các cấp, trong đó bao gồm cả hình thức cách chức hoặc buộc thôi việc. Trong một chừng mực nhất định nào đó như: Việc cấp giấy phép, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… có thể quy định trong thời gian chờ cơ quan nhà nước giải quyết cấp các lọai giấy tờ trên theo bản án của Tòa án, người yêu cầu có quyền sử dụng bản án của Tòa án làm chứng thư thay thế.

3) Về công tác cán bộ

Để bảo đảm nâng yêu cầu về chuyên môn đủ để giải quyết các khiếu kiện hành chính có liên quan, phải xây dựng tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán Tòa hành chính các cấp theo hướng:

- Thẩm phán Toà hành chính ngoài các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn thẩm phán hiện hành còn phải có bằng cử nhân hành chính. Trường hợp không có bằng cử nhân hành chính thì phải có giấy chứng nhận đã hòan thành chương trình đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước cho chuyên viên (đối với thẩm phán Toà hành chính khu vực), chuyên viên chính (đối với thẩm phán Toà hành chính vùng, miền), chuyên viên cao cấp (đối với thẩm phán Toà hành chính tối cao).

Thẩm phán không đơn thuần là một chức danh công vụ mà còn là một nghề nghiệp chuyên môn, nên thẩm phán Tòa án nói chung và thẩm phán Tòa hành chính nói riêng cần phải được bổ nhiệm vô thời hạn.

Khi xét xử thẩm phán có quyền ban hành bản án nhân danh Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam. Để bảo đảm sự tôn nghiêm và trân trọng cuả xã hội đối với thẩm phán, cần phải có sự bảo hộ pháp lý cuả Nhà nước đối với thẩm phán bằng cách đưa vào luật quy định: Việc bắt giữ thẩm phán phải được sự phê chuẩn cuả Chành án Tòa án nhân dân tối cao, trừ trường hợp thẩm phán bị bắt giữ do phạm tội quả tang.

Hiện nay, việc đào tạo thẩm phán được Nhà nước giao cho Học viện tư pháp đảm nhiệm. Trong thời gian qua, Học viện tư pháp đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán. Tuy nhiên, để đáp ứng các yêu cầu chuyên môn cho đội ngũ thẩm phán cần phải củng cố, hòan thiện thêm chương trình đào tạo thẩm phán cuả Học viện tư pháp theo hướng đào tạo chung và đào tạo chuyên sâu theo từng loại thẩm phán chuyên trách. Định kỳ có những khoá bồi dưỡng nhằm cập nhật kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và các kiến thức có liên quan khác cho thẩm phán hành chính[11,Tr23].

Bảng lương hiện hành của cán bộ ngành Tòa án còn nhiều nhiều bất cập, ví dụ: Cử nhân luật về công tác tại Tòa án nhân dân các cấp với chức danh Thư ký Tòa án được hưởng lương Thư ký Tòa án với bảng lương giống như bảng lương chuyên viên (bảng lương cuả các đối tượng đã tốt nghiệp đại học). Sau 5 năm công tác trong ngành Tòa án, sau khi đã tốt nghiệp khoá đào tạo thẩm phán (1 năm) tại Học viện tư pháp (Tổng cộng tối thiểu là 6 năm kể từ khi tốt nghiệp đại học), thư ký Tòa án có thể được bổ nhiệm làm thẩm phán Tòa án cấp huyện với mức lương và ngạch lương không thay đổi (lương cuả thẩm phán cấp huyện bằng bảng lương cuả Thư ký Tòa án và chung bảng lương với chuyên viên). Trước mắt, để bảo đảm nguyên tắc về tiền lương, cần phải xây dựng lại khung bảng lương cho thẩm phán và thư ký Tòa án theo hướng:

- Lương thư ký Tòa án có bằng cử nhân luật bằng bảng lương ngạch chuyên viên.

- Lương thẩm phán cấp huyện phải cao hơn bảng lương Thư ký Tòa án.

- Lương thẩm phán cấp tỉnh phải cao hơn lương ngạch chuyên viên chính.

- Lương thẩm phán tối cao phải cao hơn lương ngạch chuyên viên cao cấp.

Về nguyên tắc, thu nhập cuả thẩm phán tối thiểu phải bảo đảm đạt mức trung bình khá so với mặt bằng thu nhập chung cuả dân cư.

4) Về chế độ trách nhiệm

Do tính chất đặc thù của công việc, thẩm phán hành chính được pháp luật trao quyền nhân danh nhà nước để giải quyết các tranh chấp hành chính. Phán quyết của Tòa án do thẩm phán công bố có giá trị pháp lý cuối cùng, bắt buộc mọi người phải thực hiện nghiêm chỉnh. Do vậy, cần phải có các quy định cụ thể về quy chế công vụ và chế độ trách nhiệm cá nhân của thẩm phán, tạo các hành lang pháp lý cho thẩm phán thực hiện công vụ và nâng cao được tinh thần trách nhiệm của thẩm phán đối với công vụ đó. Quy chế công vụ và chế độ trách nhiệm cuả thẩm phán khi thi hành công vụ neân theo hướng:

- Khi thi hành công vụ thẩm phán chỉ được quyền làm những gì mà pháp luật có quy định.

- Thẩm phán có thể bị miễn nhiệm, cách chức nếu vi phạm kỷ luật, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp không bảo đảm.

- Tuỳ tính tính chất và mức độ vi phạm pháp luật, thẩm phán phải chiụ trách nhiệm theo quy định cuả Pháp lệnh cán bộ công chức, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định cuả pháp luật.

- Thẩm phán phải bồi hoàn cho nhà nước các thiệt hại gây ra do lỗi công vụ theo quy định cuả pháp luật.

5) Về cơ chế giám sát

Để bảo đảm có thể kiểm sóat được sinh hoạt và bảo đảm sự an toàn, an tâm công tác cho thẩm phán cần xây dựng nhà ở công vụ hoặc quy hoạch các khu vực nhà ở dân cư theo hướng thẩm phán Tòa án được ở trong khu vực nhà ở tập trung (có thể ở riêng hoặc ở cùng gia đình). Phải trang bị đồng phục cho cán bộ, công chức Toà hành chính theo hướng: Thể hiện được sự tôn nghiêm của nghề nghiệp, màu sắc, kiểu dáng, phù hiệu phải đặc trưng , không nhầm lẫn với các ngành khác, đối tượng khác.

Ngoài ra, để Toà án làm tốt hơn nưã vai trò tài phán hành chính theo chúng tôi cần phải tăng cường hơn nữa pháp chế XHCN, bảo đảm pháp luật phải được hiểu và áp dụng thống nhất trong toàn quốc, đặc biệt là giữa cơ quan hành chính với cơ quan Tòa án, giữa Tòa án cấp sơ thẩm với Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tránh trường hợp cùng một quy định nhưng mỗi cơ quan hiểu theo một hướng khác nhau.

Cần sưả đổi các quy định cuả luật theo hướng điều chỉnh trực tiếp các hành vi cụ thể, hạn chế trường hợp các bộ luật, luật hoặc nghị quyết cuả Quốc hội chưa thể thi hành được vì thiếu văn bản hướng dẫn.

Tăng cường hoạt động giải thích pháp luật cuả Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hoạt động hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật cuả Hội đồng thẩm phán TANDTC.

Sưả đổi Hiến pháp năm 1992 theo hướng tách hoạt động lập hiến cuả Quốc hội ra khỏi hoạt động cuả Quốc hội hiện hành (bầu cử Quốc hội lập hiến để sưả đổi Hiến pháp trong trường hợp cần thiết) làm cơ sở cho việc thành lập Toà bảo hiến để xét xử các văn bản quy phạm pháp luật vi hiến.

Có quy định về chế độ trách nhiệm và chế tài đối với các trường hợp lạm dụng quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.

Cần sớm nghiên cứu và ban hành các quy định để giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết khiếu kiện hành chính cuả Tòa án như: Quan hệ giữa lãnh đạo các cấp Đảng, chính quyền với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, cũng như các quy định nhằm bảo đảm các nguyên tắc như: Đảng lãnh đạo; Tập trung dân chủ; Trong xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, mối quan hệ giữa các nguyên tắc và xử lý các tình huống để không phát sinh mâu thuẫn giữa các nguyên tắc này.

Khôi phục mô hình thưà phát lại (Một tổ chức bổ trợ tư pháp tư đã từng được tổ chức tại miền Nam Việt Nam trước tháng 4/1975) để thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp như: Hỗ trợ việc thi hành án; Chuyển giao các văn bản, tài liệu qua lại giữa Tòa án và các đương sự; Xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu cuả các đương sự .

Thành lập lực lượng cảnh sát tư pháp để bảo vệ, giữ trật tự phiên toà và thi hành các quyết định có liên quan cuả Tòa án.

Củng cố tổ chức giám định tư pháp, luật sư, công chứng, thi hành án dân sự…



Quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính, mức phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến hoạt động tố tụng cuả Tòa án.


tải về 0.66 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương