CƠ SỞ LÝ luận về khiếu kiện hành chíNH, LỊch sử VÀ thực trạNG khiếu kiện hành chính ở NƯỚc ta 6


Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam



tải về 0.66 Mb.
trang7/9
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích0.66 Mb.
#1942
1   2   3   4   5   6   7   8   9

2.2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam

2.2.1. Thực trạng pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam


2.2.1.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính

Như trên đã nói, trong luận văn này khái niệm “tài phán hành chính” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm GQKN hành chính và giải quyết vụ án hành chính.

Theo quy định cuả Luật 1998, đã được sưả đổi, bổ sung theo Luật sưả đổi, bổ sung một số điều cuả Luật KN, TC ngày 29/11/2005 (Luật 2005) thì việc GQKN được thực hiện theo 2 cấp: Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền GQKN lần đầu đối với QÑHC, HVHC cuả chính mình hoặc cuả cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý cuả mình; Thủ trưởng cơ quan cấp trên cuả cơ quan có QÑHC, HVHC bị khiếu nại có thẩm quyền GQKN tiếp theo đối với các khiếu nại mà hết thời hiệu GQKN lần đầu nhưng không được giải quyết hoặc thủ trưởng cơ quan cấp dưới đã GQKN lần đầu nhưng người khiếu nại vẫn không đồng ý. Riêng khiếu nại đối với QÑHC, HVHC cuả bộ trưởng hoặc khiếu nại đối với QÑHC, HVHC cuả UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh mà nội dung QÑHC, HVHC đó không thuộc lĩnh vực quản lý cuả bộ, ngành kinh tế, kỹ thuật thì việc GQKN chỉ có một cấp. Nếu không đồng ý với quyết định GQKN lần đầu cuả bộ trưởng hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thì người khiếu nại chỉ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án và không có quyền khiếu nại tiếp theo nếu pháp luật không quy định khác (Điều 39 Luật 2005 ).

+ Về thủ tục khiếu nại:

Người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại đến người có QÑHC, HVHC bị khiếu nại nếu đó là người có thẩm quyền mà Luật 1998 quy định; trong trường hợp người đã có QÑHC, HVHC bị khiếu nại không phải là người có thẩm quyền mà Luật 1998 quy định thì cần khiếu nại đến thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm quản lý người đó.

Người khiếu nại chỉ được quyền khiếu nại khi: thời hiệu khiếu nại vẫn còn; QÑHC, HVHC phải liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp cuả người khiếu nại. Hiện nay về vấn đề thời hiệu khiếu nại, pháp luật vẫn có những quy định khác nhau, ví dụ theo quy định của Luật KNTC thì thời hiệu khiếu nại là 90 ngày kể từ ngày nhận được QÑHC hoặc biết được HVHC (Điều 31 Luật KNTC) khiếu nại quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc là 15 ngày (Điều 49 Luật KNTC). Nhưng theo quy định của Luật đất đai năm 2003 thì thời hiệu khiếu nại là 30 ngày (điểm c khỏan 2 Điều 138 Luật đất đai năm 2003)... Tùy theo tính chất của quan hệ pháp luật hành chính mà nhà nước quy định về thời hiệu khiếu nại khác nhau nhưng việc quy định nhiều thời hiệu khác nhau này làm cho vấn đề thời hiệu trở nên phức tạp, khó nhớ. Ngòai ra, Luật KNTC chỉ quy định thời hiệu khiếu nại là 90 ngày (không quy định «  trừ trường hợp pháp luật có quy định khác ») nhưng Luật đất đai năm 2003 lại quy định về thời hiệu khiếu nại khác Luật KNTC là một biểu hiện của sự không nhất quán trong việc ban hành quy phạm pháp luật.

Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, người có thẩm quyền GQKN phải thụ lý để giải quyết vụ việc. Tuỳ theo ở điều kiện vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn hay vùng bình thường, vụ việc phúc tạp hay đơn giản mà từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày thụ lý, người có thẩm quyền GQKN phải giải quyết xong vụ việc.

Khi GQKN, người có thẩm quyền GQKN lần đầu có quyền giữ nguyên, sưả đổi hoặc huỷ bỏ một phần hay toàn bộ QÑHC, chấm dứt HVHC bị khiếu nại, giải quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại.

Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền GQKN lần đầu hoặc hết thời hạn GQKN lần đầu mà khiếu nại đó không được giải quyết người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính hoặc khiếu nại đến người có thẩm quyền GQKN lần hai.( Điều 39 Luật 2005). Theo luật năm 2004 thì « Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền, người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của pháp luật» Luật 2005 đã bỏ cụm từ «  theo quy định của pháp luật”. Điều đó có nghĩa là người khởi kiện có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với mọi QÑHC nếu không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc hết thời hạn GQKN lần đầu mà khiếu nại đó không được giải quyết.

Theo quy định tại Luật năm 2004 nếu không đồng ý với quyết định GQKN của người có thẩm quyền GQKN lần 2 hoặc hết thời hạn GQKN lần 2 mà khiếu nại đó không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền GQKN tiếp theo. Luật năm 2005 (Điều 46) đã sửa đổi và quy định lại việc GQKN tối đa chỉ còn 2 cấp. Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN của người có thẩm quyền GQKN lần 2 hoặc hết thời hạn GQKN lần 2 mà khiếu nại đó không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính. Đây cũng là một quy định mới nhằm mở rộng quyền khởi kiện vụ án hành chính của người khiếu nại.

Theo quy định cuả Luật 2004 (khỏan 2 Điều 45 ): Khi GQKN tiếp theo người có thẩm quyền GQKN tiếp theo có quyền sưả đổi QÑHC cuả cấp dưới - tức là có quyền thay thế cấp dưới để ban hành một QÑHC khác để giải quyết vụ việc bị khiếu nại. Quy định này có ưu điểm là bằng việc sưả đổi QÑHC cuả cấp dưới, người có thẩm quyền GQKN tiếp theo có thể khắc phục ngay được các sai lầm của cấp dưới. Tuy nhiên, việc ban hành QÑHC thay thế này của người có thẩm quyền GQKN tiếp theo như trên xét dưới góc độ về phân định thẩm quyền quản lý nó đã xâm phạm đến quyền ban hành quyết định của cấp dưới.

Trong lần sửa đổi bổ sung năm 2005, tại khỏan 2 Điều 45 Luật 2005 đã sưả lại thẩm quyền cuả người có thẩm quyền GQKN lần 2: Khi GQKN, người có thẩm quyền GQKN lần hai có quyền kết luận nội dung khiếu nại là đúng hay sai. Trường hợp khiếu nại là sai một phần hoặc toàn bộ thì yêu cầu người có QÑHC, HVHC bị khiếu nại phải sưả đổi, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ QÑHC, chấm dứt HVHC bị khiếu nại. Đây là một tiến bộ cuả pháp luật khiếu nại hiện hành so với các quy định trước đó vì nó bảo đảm được nguyên tắc tôn trọng thẩm quyền đã được pháp luật quy định cuả từng cơ quan nhà nước, ngăn chặn được tình trạng cấp trên làm thay cấp dưới.

Ngoài ra, pháp luật hiện hành về khiếu nại còn quy định: Trong quá trình GQKN, người có thẩm quyền GQKN có quyền tạm đình chỉ thi hành QÑHC bị khiếu nại.

Qua các quy định nêu trên chúng ta có thể thấy pháp luật về khiếu nại không ngừng mở rộng các quyền cuả người khiếu nại, kể cả quyền được khởi kiện vụ án hành chính. Tuy nhiên, sự mở rộng quyền khởi kiện này lại bị chính các quy định cuả pháp luật về tố tụng vụ án hành chính thu hẹp lại (vấn đề này sẽ được nói rõ hơn ở mục tiếp theo).

Tại Điều 15 Nghị định số 67/1999/NĐ-CP ngày 07/8/1999 cuả Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều cuả Luật 1998 và Điều 22 Nghị định số 53/2005/NĐ-CP cuả Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều cuả Luật 1998 và Luật 2004 (thay thế Nghị định số 67/1999/NĐ-CP), còn quy định người đã ra quyết định GQKN nại cuối cùng khi phát hiện quyết định đó có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích cuả Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp cuả công dân, cơ quan, tổ chức thì phải tự xem xét lại để việc giải quyết lại đúng quy định cuả pháp luật, việc xem xét lại này không bị hạn chế về thời gian. Xét theo ý nghĩa tích cực đây là một quy định nhằm bảo đảm tính đúng đắn cuả quyết định GQKN cuối cùng. Tuy nhiên, xét theo ý nghĩa tiêu cực thì quy định trên đây lại làm cho việc GQKN không có điểm dừng, trong một chừng mực nhất định quy định này rất dễ bị lợi dụng để người đã ban hành quyết định GQKN cuối cùng có thể ban hành quyết định thay thế vì mục đích tư lợi, cá nhân.

Bằng chứng trong thực tế theo Báo cáo tổng kết 7 năm thi hành Luật 1998 (1999-2005) cuả Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh[84,Tr10] có những vụ việc đã có GQKN cuối cùng từ hàng chục năm trước vẫn được mang ra giải quyết lại và có quyết định thay thế. Theo tìm hiểu cuả chúng tôi có những vụ án người có thẩm quyền còn ban hành rất nhiều GQKN thay thế lẫn nhau và có nội dung trái ngược nhau. Tại lần sửa đổi bổ sung gần đây nhất (ngày 29/11/2005) Luật 2005 đã bỏ khái niệm “quyết định giải quyết cuối cùng” nhưng Luật đất đai hiện hành (khỏan 2 Điều 136 và điểm a khỏan 2 Điều 138 Luật đất đai năm 2003) vẫn còn quy định về quyết định giải quyết cuối cùng . Ñoàng thôøi phaùp luaät hiện hành có liên quan cũng không có quy định nào cấm người đã ban hành quyết định giải quyết cuối cùng không được ban hành quyết định giải quyết cuối cùng khác để thay thế ,nên trong thực tế việc lợi dụng quyền xem xét lại các quyết định giải quyết cuối cùng rất có thể vẫn còn xảy ra. Trong thực tế nước ta hiện nay, đa số các KKHC đều tập trung ở lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai [ 84,85] thì vieäc xem xeùt laïi caùc quyeát ñònh giải quyết cuối cùng là một vấn đề có ảnh hưởng raát lôùn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi được xác định tại quyết định giải quyết cuối .



2.2.1.2. Thực trạng pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính

Ngày 28/10/1995 Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sưả đổi bổ sung một số điều cuả Luật tổ chức Tòa án (Luật này được thông qua ngày 06/10/1992 và sưả đổi bổ sung lần đầu ngày 28/12/1993), trong đó thiết lập Toà hành chính tại Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh bên cạnh các Tòa hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và trao cho Tòa án nhân dân chức năng xét xử những vụ án hành chính. Song song ñoù, ngaøy 21/5/2006 UÛy ban thöôøng vuï Quoác hoäi nöôùc ta cuõng thoâng qua Phaùp leänh thuû tuïc giaûi quyeát caùc vuï aùn haønh chính quy ñònh veà thaåm quyeàn vaø trình töï, thuû tuïc toá tuïng ñeå giaûi quyeát caùc KKHC taïi Toøa aùn.

Bằng việc trao cho Tòa án nhân dân xét xử các KKHC, pháp luật Việt Nam đã mở ra một phương thức mới trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển cuả Nhà nước XHCN Việt Nam pháp luật đã thưà nhận quyền khởi kiện vụ án hành chính ra trước Tòa án đối với các QÑHC, HVHC cuả các cơ quan công quyền.

Thông qua nghiên cứu pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính, chúng tôi có một số nhận xét nhö sau :



1) Tính chất hoạt động xét xử cuả Toà án nước ta:

- Tòa án xét xử là nhân danh Nhà nước. Do đó, việc xét xử cuả Tòa án có tính dứt khóat, có nghĩa là Tòa án là cơ quan được pháp luật trao quyền phán quyết cuối cùng. Chỉ có Tòa án cấp trên mới có quyền xem xét lại bản án cuả Tòa án cấp dưới theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Những phán quyết cuả Tòa án là sự phán quyết mang tính quyền lực nhà nước. Khi các phán quyết này có hiệu lực pháp luật thì bắt buộc các đương sự phải chấp hành nghiêm chỉnh, trường hợp đương sự không tự giác chấp hành sẽ có các biện pháp cưỡng chế buộc họ phải chấp hành.

- Hoạt động xét xử cuả Tòa án là một hoạt động sáng tạo. Khi xây dựng pháp luật, nhà làm luật không thể dự kiến hết được mọi sự việc, tình tiết các hành vi sẽ diễn ra trong đời sống xã hội. Do đó, khi xét xử Hội đồng xét xử phải nghiên cứu kỹ, đánh giá toàn diện, khách quan các tình tiết, hòan cảnh, điều kiện liên quan đến vụ án để tìm ra phương án giải quyết phù hợp với quy định cuả pháp luật.

2) Đặc trưng của hoạt động xét xử cuả Toà án nước ta:

- Chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử. Ngoài Tòa án không có cơ quan nhà nước nào được thực hiện việc xét xử. Tòa án căn cứ vào pháp luật đưa ra phán xét, quyết định cuối cùng nhằm kết thúc vụ án.

- Hoạt động xét xử được thực hiện bởi những phương thức được quy định cụ thể trong pháp luật.

- Là hoạt động mang tính dưới luật. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo pháp luật.

- Là hoạt động được thực hiện theo thủ tục chặt chẽ, nghiêm ngặt được quy định trong các văn bản pháp luật.

- Là hành động thể hiện thái độ cuả Nhà nước trong việc đánh giá một vụ việc cụ thể, căn cứ vào pháp luật Tòa án xác định trách nhiệm pháp lý áp dụng chế tài phù hợp. Đây cũng là hành động thể hiện thái độ dứt khoát cuả Nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Là sự biểu hiện cuả công lý và quyền lực nhà nước trong quan hệ qua lại hưũ cơ với nhau.



3) Tổ chức xét xử các khiếu kiện hành chính và thẩm quyền xét xử các khiếu kiện hành chính cuả Tòa án:

Để giải quyết các KKHC tại Tòa án nhân dân, pháp luật hiện hành cuả chúng ta quy định ( Điều 12 và Điều 70 Pháp lệnh 2006):

- Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cuả các Tòa phúc thẩm, Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân tối cao bị kháng nghị.

- Tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cuả Tòa án cấp tỉnh bị kháng nghị.

- Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cuả Tòa án cấp huyện bị kháng nghị.

- Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định cuả Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

- Tòa hành chính Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định cuả Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc xét xử sơ thẩm các KKHC đối với các QÑHC, HVHC cuả các cơ quan trung ương hoặc cán bộ, công chức thuộc các cơ quan cấp trung ương nơi người khởi kiện cư trú, làm việc hoặc có trụ sở, hoặc xét xử sơ thẩm các KKHC đối với các QÑHC, HVHC thuộc thẩm quyền cuả Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh đó mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.

- Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các KKHC đối với các QÑHC, HVHC cuả cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước thuộc cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống có cùng lãnh thổ với Tòa án nhân dân cấp huyện.

Mặc dù trong thực tiễn quản lý nhà nước có thể có rất nhiều loại KKHC khác nhau, nhưng khi mới bắt đầu được trao quyền giải quyết các KKHC Tòa án chỉ có quyền giải quyền đối với 7 lọai KKHC cụ thể là (Điều 11 Pháp lệnh 1996):

1. Khiếu kiện quyết định XPVPHC, quyết định áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép đối với nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố;

2. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính;

3. Khiếu kiện quyết định về buộc thôi việc, tröø caùc quyết định về buộc thôi việc trong quân đội nhân dân và các quyết định về sa thải theo quy định cuả Bộ luật lao động;

4. Khiếu kiện QÑHC, HVHC trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý đất đai;

5. Khiếu kiện quyết định trưng dụng, trưng mua tài sản, quyết định tịch thu tài sản;

6. Khiếu kiện quyết định về thu thuế, truy thu thuế;

7. Khiếu kiện quyết định về thu phí, lệ phí;

8. Khiếu kiện các QÑHC, HVHC theo quy định cuả pháp luật.

Với quy định như trên, chúng ta có thể thấy rằng khi mới được trao quyền giải quyết các KKHC Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện đối với 7 lọai quyết định về buộc thôi việc vaø 1 loïai HVHC cuï theå.

Ngày 25/12/1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh sưả đổi, bổ sung Pháp lệnh 1996 (Pháp lệnh 1998), theo đó thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính cuả Tòa án đã được mở rộng hơn nhiều. Từ chỗ Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết chủ yếu là các vụ kiện đối với các QÑHC, Pháp lệnh 1998 trao cho Tòa án được thụ lý, giải quyết đối với hầu hết các khiếu kiện đối với các HVHC cuøng nhoùm vôùi các QÑHC mà Tòa án đã được trao quyền giải quyết từ khi có Pháp lệnh 1996 (Điều 11 Pháp lệnh năm 1998).

Nhằm quán triệt quan điểm cuả Đảng về cải cách tư pháp đã được ghi trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII và đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 cuả Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 cuả Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và thể chế hoá đường lối, chủ trương cuả Đảng và cụ thể hoá các quy định cuả Hiến pháp, ngày 05/4/2006 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sưả đổi bổ sung một số điều cuả Pháp lệnh 1996 (Pháp lệnh 2006), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006. Pháp lệnh năm 2006 trao cho Tòa á n thẩm quyền giải quyết đối với 22 lọai khiếu kiện. Cụ thể, ngòai các lọai việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như các quy định trước đây, Tòa án còn được trao thêm thẩm quyền giải quyết đối với một số lọai khiếu kiện sau (Điều 11 Pháp lệnh năm 2006):



Một là Khiếu kiện việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính( khoản 2 Điều 11 Pháp lệnh 2006). Theo quy định tại Điều 43 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành, các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính gồm có:

- Tạm giữ người;

- Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

- Khám người;

- Khám phương tiện vận tải, đồ vật;

- Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

- Bảo lãnh hành chính;

- Quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất;

- Truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp bỏ trốn.

Hai là khiếu kiện việc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC (khoản 3 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Ba là khiếu kiện QÑHC, HVHC trong việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề hoặc QÑHC, HVHC khác liên quan đến hoạt động kinh doanh, tài chính của thương nhân (khoản 6 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Bốn là khiếu kiện QÑHC, HVHC liên quan đến thương mại hành hoá quốc tế hoặc trong nước (khoản 7 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Năm là khiếu kiện QÑHC, HVHC liên quan đến chuyển giao tài chính trong nước và quốc tế, dịch vụ và cung ứng dịch vụ (khoản 8 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Sáu là khiếu kiện QÑHC, HVHC trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế (khoản 9 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Bảy là khiếu kiện QÑHC, HVHC trong việc áp dụng phí; thu tiền sử dụng đất (khoản 11 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Tám là khiếu kiện QÑHC, HVHC trong quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (khoản 12 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Chín là khiếu kiện QÑHC, HVHC trong quản lý nhà nước về đầu tư (khoản 13 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Mười là QÑHC, HVHC của cơ quan hải quan, cán bộ công chức hải quan (khoản 14 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Mười một khiếu kiện QÑHC, HVHC về quản lý hộ tịch (khoản 15 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Mười hai khiếu kiện QÑHC, HVHC trong việc từ chối công chứng, chứng thực (khoản 16 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Mười ba khiếu kiện QÑHC, HVHC về quản lý đất đai trong trường hợp: Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; Bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư; Cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Gia hạn thời hạn sử dụng đất (khoản 17 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Mười bốn khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử trái bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (khoản 18 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Mười lăm khiếu kiện quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố thuộc trung ương GQKN đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư (khoản 20 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Mười sáu khiếu kiện quyết định GQKN về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh (khoản 21 Điều 11 Pháp lệnh 2006).

Mặc dù pháp luật tố tụng quy định Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với 22 loại khiếu kiện nhưng thực tế Toà án chỉ có thẩm quyền giải quyết đối với 21 loại khiếu kiện cụ thể, còn loại khiếu kiện ở mục 22 nêu trên chỉ là quy định mang tính dự phòng. Đối chiếu quy định trên với Luật 2005 có thể nhận thấy luật cho phép người người khiếu nại được chọn Toà án là cơ quan có quyền phán quyết cuối cùng đối với tất cả các loại KKHC .Việc pháp luật về tố tụng vụ án hành chính chỉ cho phép Toà án thụ lý, giải quyết đối với 21 loại khiếu kiện đã bộc lộ sự thiếu đồng bộ cuả pháp luật, làm hạn chế quyền khởi kiện vụ án hành chính hợp pháp cuả người khiếu nại. Ngòai ra gần đây , Ngày 08/3/2007Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (Điều 2) trong đó hủy bỏ hình thức quản chế hành chính. Ngày 29/6/2006 Quốc hội đã thông qua Luật luật sư theo quy định của luật này thì chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố không còn thẩm quyền GQKN đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư ( khỏan 2 Điều 86 luật luật sư). Do đó, chắc chắn trong tương lai các quy định về thẩm quyền giải quyết của tòa án được quy định tại Pháp lệnh năm 2006 đối với khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thực hiện biện pháp quản chế hành chính và khiếu kiện quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố thuộc trung ương GQKN đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư sẽ phải sửa đổi lại cho phù hợp với sự thay đổi của pháp luật liên quan như trên.

Cùng với việc mở rộng thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với một số lọai khiếu kiện hành chính, theo Pháp lệnh năm 2006 thẩm quyền của Tòa án đối với từng lọai khiếu kiện cũng được mở rộng, cụ thể: trước khi có Pháp lệnh năm 2006, Pháp luật chỉ cho phép Tòa án giải quyết các KKHC nếu khiếu kiện đó chưa có quyết định GQKN của người có thẩm quyền GQKN tiếp theo. Nay theo quy định của Pháp lệnh năm 2006 những khiếu kiện được quy định từ khoản 1 đến khoản 16 Điều 11 Pháp lệnh 2006 người khởi kiện được khởi kiện sau khi hết thời hạn GQKN mà khiếu nại đó không được giải quyết hoặc sau khi nhận được quyết định GQKN lần đầu hoặc lần hai mà không đồng ý với quyết định đó.

Đối với các khiếu kiện được quy định tại các khoản 18, 20 và 21 Điều 11 Pháp lệnh 2006 do pháp luật không quy định quyền khiếu nại tiếp theo của đương sự nên đương sự được quyền khởi kiện vụ án sau khi hết thời hạn GQKN lần đầu mà khiếu nại đó không được giải quyết hoặc sau khi nhận được quyết định GQKN lần đầu mà không đồng ý với quyết định đó.

Đối với các khiếu kiện được quy định tại các khoản 17 và 19 Điều 11 Pháp lệnh 2006 do pháp luật quy định quyết định GQKN tiếp theo( lần 2) là quyết định giải quyết cuối cùng (điểm a khỏan 2 Điều 138 Luật đất đai năm 2003) hoặc quy định là quyết định có hiệu lực thi hành và không quy định quyền khởi kiện vụ án hành chính (Điều 54 Luật 2005) nên đương sự không có quyền khởi kiện vụ án hành chính nếu vụ việc đã có quyết định GQKN lần 2.

Đối với khiếu kiện quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc, khiếu kiện QĐHC,HVHC về quản lý đất đai do tính chất phức tạp của vụ việc, cần phải được người có thẩm quyền GQKN lần đầu xem xét giải quyết trước nên người khởi kiện chỉ được quyền khởi kiện sau khi có quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền GQKN lần đầu.



4) Thủ tục giải quyết vụ án hành chính:

+ Trước khi khởi kiện đến Tòa án, người khởi kiện phải khiếu nại đến người có thẩm quyền GQKN lần đầu (Điều 2 Pháp lệnh năm 2006). Với quy định này, chúng ta có thể thấy, theo pháp luật hiện hành khiếu nại trước khi khởi kiện là một thủ tục bắt buộc (thủ tục tiền tố tụng). Quy định này cuả pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì:



Một là, tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước chủ động tự sưả chưã những sai sót trong hoạt động quản lý vốn rất phức tạp, đa dạng.

Hai là, tạo điều kiện cho các công dân, do chưa nắm chắc thông tin nên đã khiếu nại đối với các QĐHC, HVHC hợp pháp có cơ hội được cơ quan hành chính giải thích, từ đó có thể rút đơn kiện, đỡ làm tốn kém thời gian, công sức và tiền bạc cuả công dân.

Ba là, về nguyên tắc, Toà án chỉ có quyền phán xét về tính hợp pháp cuả QĐHC, HVHC còn cơ quan hành chính nhà nước thì có quyền xem xét cả tính hợp pháp và tính hợp lý cuả QĐHC, HVHC.

Bốn là, quy định này cũng phù hợp với thông lệ cuả một số quốc gia trên thế giới. (Ở một số quốc gia trên thế giới pháp luật cuả các quốc gia này cũng quy định thủ tục này là một yêu cầu bắt buộc-Mỹ, Pháp, Đức, Thuỵ Điển…)[42,Tr713].

Tuy nhiên, việc quy định thủ tục tiền tố tụng bắt buộc như trên cũng có một số hạn chế:



Một là, trong trường hợp người có thẩm quyền GQKN giải quyết không đúng, người khiếu nại không đồng ý và tiếp tục khởi kiện hoặc trong trường hợp người khởi kiện muốn kiện ngay ra toà thì việc bắt buộc phải khiếu nại trước khi khởi kiện làm cho vụ việc cuả đương sự bị kéo dài.

Hai là, trong một số trường hợp, quy định điều kiện tiền tố tụng như trên đã hạn chế quyền khởi kiện hợp pháp cuả đương sự, ví dụ: Đối với một số loại việc pháp luật quy định người khởi kiện chỉ được kiện sau khi đã có quyết định GQKN lần đầu, nhưng người có thẩm quyền GQKN lần đầu không ra quyết định GQKN.

Ngoài ra, người khởi kiện chỉ được quyền khởi kiện khi: Thời hiệu khởi kiện vẫn còn, vụ việc thuộc thẩm quyền cuả Tòa án, đơn kiện phải đủ nội dung, đúng hình thức và không thuộc các trường hợp trả lại đơn kiện theo quy định cuả pháp luật.

Một vấn đề có thể nhận thấy là việc quy định thời hiệu khởi kiện cuả Toà án rất phức tạp, mỗi loại, nhóm loại khiếu kiện lại có các thời hiệu khác nhau và thường là rất ngắn, ví dụ thời hiệu khởi kiện đối với khiếu kiện về danh sách cử tri là 5 ngày ( điểm d khỏan 2 Điều 30 Pháp lệnh năm 2006), khiếu kiện đối với quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc là 30 ngày (điểm đ khỏan 2 Điều 30 Pháp lệnh năm 2006), khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC trong lĩnh vực quản lý đất đai là 45 ngày ( điểm c khỏan 2 Điều 30 Pháp lệnh năm 2006)… Trong điều kiện dân trí như hiện nay việc quy định thời hiệu như trên là rất khó nhớ, dễ dẫn tới sự nhầm lẫn hoặc làm mất quyền khởi kiện cuả đương sự vì khi biết được thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu này đã hết.

+ Người khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm nếu không thuộc trường hợp không phải nộp án phí. Theo quy định hiện hành thì mức tạm ứng án phí và án phí hành chính sơ thẩm là 50.000đ, mức án phí này bằng với mức án phí không giá ngạch trong trường hợp kiện về các tranh chấp dân sự. Việc đặt ra án phí và tạm ứng án phí ngòai ý nghĩa là sự đóng góp vật chất của đương sự để trang trải các chi phí của nhà nước liên quan đến việc giải quyết khiếu kiện còn thể hiện sự cảnh báo của nhà nước đòi hỏi đương sự phải cân nhắc kỹ về tính đúng đắn của yêu cầu khởi kiện trước khi khởi kiện ( kiện sai sẽ phải chịu án phí, rút đơn kiện trước khi Tòa án xét xử vụ án sẽ bị mất số tiền tạm ứng đã nộp - khỏan 3 Điều 29 và khỏan 1 Điều 30 Nghị định 70/Cp ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án). Tuy nhiên với mức án phí và tạm ứng án phí hành chính phải nộp như trên xem ra ý nghĩa của án phí khó mà đạt được ( Với số tiền 50.000đ chắc chắn không thể bù đắp được các chi phí mà nhà nước đã bỏ ra để giải quyết vụ án đồng thời cũng không làm cho đương sự phải cẩn trọng cân nhắc kỹ về sự đúng đắn của yêu cầu khởi kiện của mình trước khi khởi kiện).

Các thủ tục tố tụng tiếp theo mà Tòa án phải thực hiện như: Thông báo việc thụ lý vụ án , xác minh, thu thập chứng cứ , áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời , ban hành quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử, mở phiên toà xét xử vụ án Bản án hành chính sơ thẩm, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết sơ thẩm , kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cơ bản giống như pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, do tính chất bất bình đẳng của quan hệ pháp luật hành chính và các quy định chặt chẽ của pháp luật trong việc ban QĐHC hoặc thực hiện HVHC nên trong quan hệ tố tụng hành chính pháp luật quy định không có thủ tục hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như trong quan hệ tố tụng dân sự.

Khi xét xử vụ án hành chính, Tòa án có quyền (Mục 17 Nghị quyết số 04/2006/NQHĐTP ngày 04/8/2006 cuả Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao) :

- Bác yêu cầu của người khởi kiện;

- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện (tuyên huỷ một phần hoặc toàn bộ QĐHC trái pháp luật; buộc cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trách nhiệm công vụ theo quy định của pháp luật; tuyên bố một số hoặc tòan bộ các HVHC là trái pháp luật; buộc cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước chấm dứt HVHC trái pháp luật; buộc cơ quan hành chính nhà nước bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do QĐHC, HVHC trái pháp luật gây ra; tuyên huỷ quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật; Buộc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thực hiện trách nhiệm công vụ theo quy định của pháp luật; Buộc bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân do quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật gây ra).

Với quy định về thẩm quyền phán quyết của Tòa án như trên, ta có thể thấy trong việc giải quyết các vụ án hành chính, Tòa án hiện diện như là một công cụ pháp lý của nhà nước để phán quyết về tính hợp pháp của các QĐHC, HVHC nhưng Tòa án không có quyền thay thế các cơ quan hành chính để ban hành các QĐHC trực tiếp giải quyết vụ việc.

+ Một vấn đề nưã cũng cần phải nói tới đó là theo quy định cuả pháp luật hiện hành thì việc giải quyết các vụ án hành chính cuả toà án bị lệ thuộc quá nhiều vào Viện kiểm sát; ví dụ: Pháp luật quy định Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên toà hành chính và phát biểu quan điểm cuả mình về việc giải quyết vụ án, trường hợp viện kiểm sát không dự phiên toà thì Toà án không được tiến hành phiên toà, Trường hợp viện kiểm sát có tham dự phiên toà nhưng không phát biểu quan điểm cuả mình về việc giải quyết vụ án thì Toà án không được thực hiện việc nghị án và tuyên án (khoản 3 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 02/4/2002 và tiểu mục 24.1 mục 24 Nghị quyết số 04/2006/NQHĐTP ngày 04/8/2006 cuả Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao).


2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam


2.2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính

Qua thực hiện Luật 1998 các cơ quan hành chính nhà nước đã tích cực giải quyết được một lượng lớn đơn, thư khiếu nại đạt tỷ lệ cao. Nhìn chung, qua thực tế GQKN hành chính có thể nhận thấy đa phần khiếu nại không đúng hoặc chỉ đúng một phần (Xem bảng 2.1). Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong việc GQKN vẫn tồn tại một số vấn đề cần phải rút kinh nghiệm, đó là:

- Mặc dù các cơ qua hành chính nhà nước đã tích cực giải quyết nhưng số lượng đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan hành chính nhà nước vẫn ngày càng gia tăng, tính chất, mức độ cuả khiếu nại cũng phức tạp và gay gắt hơn.

- Việc GQKN hành chính thường kéo dài, không đảm bảo thời hạn luật định, nhiều tầng nấc, không có điểm dừng. Có những vụ việc đã có quyết định GQKN có hiệu lực thi hành từ hơn 10 năm, nay đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại và khiếu nại này vẫn được cơ quan hành chính nhà nước thụ lý, giải quyết.

- Việc áp dụng pháp luật giữa các cơ quan nhà nước và cuả cùng một người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước trước, sau hoặc trong cùng một loại việc không nhất quán với nhau.

- Có những trường hợp, người có thẩm quyền đã ban hành nhiều quyết định GQKN cuối cùng hoặc quyết định có hiệu lực thi hành đối với một vụ việc nhưng nội dung lại khác nhau.

- Có nhiều quyết định GQKN được ban hành sai về thẩm quyền, thủ tục và hình thức văn bản.

- Còn có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm GQKN giữa các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tranh chấp về thẩm quyền GQKN giữa các cơ quan.

- Đơn khiếu nại tồn đọng ở các cơ quan hành chính còn nhiều, nhiều đơn đã quá hạn nhưng chưa được giải quyết. Thời gian GQKN cuả các cơ quan hành chính còn kéo dài quá thời hạn luật định. Việc theo dõi, cập nhập hồ sơ khiếu nại chưa khoa học nên chưa theo dõi và trả lời kịp thời được cho người khiếu nại về tiến độ giải quyết.

- Việc tổ chức thực hiện các quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật tuy có chuyển biến nhưng vẫn còn chậm hoặc chưa được thực hiện.

Xem xét tình hình thực tiễn GQKN cuả các cơ quan hành chính nhà nước, ta có thể rút ra một số nguyên nhân cuả tình trạng trên như sau:

- Cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến việc khiếu nại và GQKN còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tế. Thậm chí có một số vấn đề mới phát sinh nhưng chúng ta chưa kịp thời có văn bản pháp luật điều chỉnh.

- Thẩm quyền giải quyết KKHC cuả Tòa án còn nhiều hạn chế.

- Ở một số điạ phương các cấp chính quyền chưa thực sự quan tâm nhiều đến công tác GQKN, chưa coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, chưa kịp thời giải quyết những thắc mắc cuả người dân để cho các thắc mắc này ứ đọng lại thành phức tạp.

- Nhiều nơi, cơ quan có thẩm quyền chậm ra quyết định GQKN, chậm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cuả người khiếu nại làm phát sinh các khiếu nại mới.

- Còn nhiều trường hợp không thể tổ chức thực hiện quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật được vì phải chờ ý kiến hoặc chờ phối hợp cuả các bộ, ngành liên quan.

- Về phía người khiếu nại, vẫn còn tình trạng không chấp hành quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật, tiếp tục khiếu nại vượt cấp, khiếu nại đến nhiều nơi.

2.2.2.2. Thực trạng hoạt động giải quyết các vụ án hành chính

Số lượng các vụ án hành chính mà ngành Tòa án nhân dân thụ lý, giải quyết không nhiều. Nhìn chung, khi nhận được đơn khiếu kiện đúng thẩm quyền, ngành Tòa án đã tích cực giải quyết và giải quyết đạt tỷ lệ rất cao.Việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án được thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tố tụng. Nội dung các phán quyết bảo đảm được các quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự (xem các bảng 2.2. và 2.3). Tương tự như kết quả GQKN hành chính, trong tổng số các vụ án đã giải quyết, số án tuyên bác yêu cầu khởi kiện của các đương sự thường chiếm tỷ lệ cao. Nguyên nhân là do đa số các QĐHC, HVHC được thực hiện đúng các quy định của pháp luật ( thực tế có nhiều văn bản pháp luật hiện hành chưa phù hợp với tình hình, điều kiện cụ thể của cuộc sống nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, từ đó dẫn đến việc KKHC có thể là không hợp lý nhưng lại hợp pháp, như : Quy định về giá bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, thời điểm áp giá để tính tiền sử dụng đất… ). Một số trường hợp sai sót nhưng không cơ bản, không gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự như chậm giao biên bản, quyết định XPVPHC, QĐHC ghi thiếu mục quyền khiếu nại, khởi kiện của đương sự. Hoặc trong một số trường hợp nếu thấy QĐHC bị kiện chưa đúng pháp luật thì người ban hành thường ra quyết định huỷ bỏ trước khi Tòa án mở phiên Tòa. Trong trường hợp này nếu người khởi kiện vẫn yêu cầu Tòa án huỷ bỏ QĐHC đó thì Tòa án sẽ bác yêu cầu của đương sự.

Tuy nhiên, việc giải quyết các vụ án hành chính vẫn bộc lộ một số nhược điểm:

- Trong một số trường hợp việc giải quyết chưa đúng thủ tục tố tụng, áp dụng pháp luật về nội dung chưa chính xác dẫn đến vụ án bị kháng cáo, kháng nghị, bản án bị cấp phúc thẩm huỷ, sưả gây ảnh hưởng đến niềm tin cuả các đương sự đối với Tòa án.

- Còn trường hợp áp dụng pháp luật, đánh giá chứng cứ chưa thống nhất giữa các cấp Tòa án.

- Tòa án vẫn còn thái độ dè dặt, ngại đụng chạm đến người bị kiện là các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, đã phát sinh tư tưởng ngại giải quyết các vụ án hành chính và coi mỗi vụ án hành chính là một gánh nặng khi thụ lý giải quyết.

- Do chưa có các quy định cụ thể về mối quan hệ giữa các nguyên tắc Đảng lãnh đạo, tập trung dân chủ, cấp trên chỉ đạo cấp dưới, khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nên nhiều cấp Tòa án còn lúng túng khi kết hợp các nguyên tắc này, đặc biệt là những trường hợp có ý kiến khác nhau về cách giải quyết vụ án giữa thẩm phán được giao trách nhiệm giải quyết vụ án với lãnh đạo Tòa án[9,Tr1].



2.2.3. Các hạn chế cuả mô hình tổ chức và hoạt động tài phán hành chính ở nước ta hiện nay

Mặc dù cơ chế và thực tế giải quyết khiếu kiện hành chính hiện nay ở nước ta cũng có nhiều ưu điểm, cơ bản đã giải quyết được phần lớn các KKHC. Tuy nhiên cơ chế này vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.



2.2.3.1. Các hạn chế cuả cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính

Việc trao quyền GQKN hành chính cho các cơ quan hành chính nhà nước có các hạn chế:

- Không bảo đảm tính công khai, minh bạch cuả hoạt động GQKN hành chính và quyền tranh tụng cuả các đương sự.

- Tạo ra tình trạng cơ quan nhà nước“vưà đá bóng, vưà thổi còi”, gây tâm lý nghi ngờ cuả người khiếu nại về sự khách quan, vô tư và thực tế giải quyết cũng khó tránh khỏi sự thiếu khách quan vô tư.

- Chúng ta đang đứng trước một yêu cầu khách quan cuả sự phát triển chung, đó là yêu cầu về tính chuyên môn hoá và yêu cầu phải có một sự phân công lao động rõ ràng thì sự không phù hợp trong việc giao quyền TPHC cho chính các cơ quan hành chính nhà nước càng bộc lộ rõ như:

+ Việc GQKN cuả cơ quan hành chính không bảo đảm tính chuyên nghiệp nên hiệu quản không cao;

+ Cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính không được trang bị kiến thức cần thiết để giả GQKN, trong khi đó các khiếu nại thường rất đa dạng, phức tạp làm các cơ quan hành chính mất quá nhiều thời gian, công sức vào việc GQKN nên không đủ thời gian và điều kiện để thực hiện nhiệm vụ chính là quản lý, điều hành.

- Trình tự, thủ tục GQKN cuả cơ quan hành chính còn phức tạp, thiếu dân chủ, công khai, minh bạch. Việc khiếu nại phải được tiến hành qua nhiều cấp, tại nhiều cơ quan. Khiếu nại đã có quyết định giải quyết cuối cùng vẫn được xem xét lại làm cho việc khiếu nại kéo dài không có điểm dừng gây xáo trộn hoạt động quản lý điều hành, lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc cuả Nhà nước cũng như cuả người khiếu nại.

- Thủ tục khiếu nại bị pha tạp giữa thủ tục hành chính và thủ tục tố tụng gây khó khăn cho việc thực hiện cuả cả người khiếu nại và người có thẩm quyền GQKN, không có sự tách bạnh giữa thủ tục khiếu nại QĐHC, HVHC với thủ tục đòi bồi thường thiệt hại.

- Mặc dù pháp luật về khiếu nại quy định: Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền, người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính nếu pháp luật không quy định khác. Nhưng với quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính cuả Tòa án theo pháp luật hiện hành thì có rất nhiều loại KKHC, người khiếu kiện không thể khởi kiện đến Tòa án vì pháp luật không trao quyền cho Tòa án giải quyết. Nói cách khác quyết định GQKN cuả cơ quan hành chính chính là quyết định giải quyết khiếu kiện cuối cùng (không được quyền khởi kiện tại Toà án). Trong những trường hợp này quyền TPHC là quyền riêng có cuả cơ quan hành chính. Như vậy, nhìn phiến diện quyền quyết định cuối cùng về tài phán hành chính tưởng như chỉ thuộc về cơ quan Tòa án nhưng thực chất chúng ta vẫn tồn tại song song hai hệ thống cơ quan nhà nước cùng có chức năng giải quyết các KKHC. Việc tồn tại song song hai hệ thống cơ quan TPHC làm cho bộ máy nhà nước cồng kềnh, trùng lắp, lãng phí nhân, tài lực, trong nhiều trường hợp còn tạo ra sự lẫn lộn, tranh chấp không cần thiết về thẩm quyền giải quyết giữa hai hệ thống cơ quan này.



2.2.3.2. Các hạn chế cuả mô hình Tòa hành chính hiện hành

Việc pháp luật Việt Nam cho phép các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với các QĐHC, HVHC cuả cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước ra trước Toà án một bước phát triển đáng kể trong việc xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghiã, là bằng chứng cụ thể cuả một xã hội dân chủ, với mục tiêu xây dựng một nền tư pháp vững mạnh, không ngừng bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp cuả công dân. Mặc dù từ năm 1996 đến nay, nhà nước ta liên tục có các điều chỉnh về pháp luật để hoạt động giải quyết các vụ án hành chính cuả Toà án phát huy được vai trò cuả mình, nhưng mô hình tổ chức giải quyết các KHHCcuả Toà án hiện hành vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.



Một là, pháp luật về khiếu nại không hạn chế quyền khởi kiện cuả các đương sự đối với QĐHC, HVHC nhưng pháp luật về tố tụng vụ án hành chính lại hạn chế quyền khởi kiện này cuả các đương sự. Điều này thể hiện sự không thống nhất giữa các văn bản pháp luật khác nhau về cùng một vấn đề có liên quan, thể hiện sự vi phạm nguyên tắc pháp chế trong lĩnh vực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cuả Nhà nước. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả và hạn chế vai trò cuả Tòa án trong việc giải quyết KKHC.

Hai là, tổ chức hệ thống Tòa án hiện hành, trong đó có Tòa hành chính, tương ứng với cấp hành chính đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp với thực tiễn, cụ thể:

+ Mặc dù cách tổ chức này đã tạo những điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp công tác giữa cơ quan Tòa án với chính quyền điạ phương cùng cấp, nhưng khi phát sinh vụ án hành chính mà bị đơn là chính cơ quan nhà nước hoặc những người có thẩm quyền thì mối quan hệ nêu trên lại trở thành một áp lực có khả năng làm ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử cuả Tòa án.

+ Ngòai ra, khách thể cuả quản lý nhà nước là các hoạt động cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức, do vậy số lượng và tính chất cuả các vụ kiện ra Tòa hành chính phụ thuộc rất nhiều vào số lượng cơ quan, tổ chức, dân số cũng như tính chất cuả quan hệ hành chính bị khiếu kiện. Ở Việt Nam chúng ta hiện nay dù cùng đều là một đơn vị hành chính cấp tỉnh hoặc cấp huyện nhưng giữa tỉnh và thành phố hoặc giữa huyện với thị xã, quận, thậm chí giữa các quận, các thành phố trong cả nước cũng có sự chênh lệnh rất lớn về dân số, số lượng các cơ quan, tổ chức; tính chất, mức độ phức tạp cuả khách thể quản lý nhà nước cũng khác nhau nhưng tổ chức cấp Tòa án ở các đơn vị này như nhau. Hệ quả là cùng là Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc cấp huyện nhưng có Tòa án thì thụ lý, giải quyết rất nhiều vụ án nhưng có Tòa án thì rất ít. Nhiều Tòa án, nhất là Tòa án nhân dân cấp huyện các vùng nông thôn, miền núi, từ ngày có Tòa hành chính (1996) nhiều năm không hề thụ lý, giải quyết một vụ án hành chính nào[74-78].

Ba là, theo quy định cuả pháp luật hiện hành, ở các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án cấp huyện không tổ chức bộ phận chuyên trách để giải quyết các khiếu kiện hành chính nên không phát huy được tính chuyên nghiệp, chuyên sâu cuả nghề nghiệp và công việc cuả đội ngũ thẩm phán Tòa án. Đặc biệt với thẩm quyền cuả các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao là giải quyết phúc thẩm các vụ án mà các Tòa chuyên trách cuả các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã xét xử thì mô hình tổ chức các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao như trên càng lộ rõ sự bất hợp lý cuả nó.
*

* *


KKHC là một thực tại khách quan của mọi quốc gia, TPHC chính là cơ chế để giải quyết các khiếu kiện này. Tùy theo điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội cụ thể, mỗi quốc gia có thể có hình thức tổ chức họat động TPHC khác nhau, cách thức của nước này có thể không phù hợp với nước khác. Ở nước ta, việc giải quyết KKHCđược pháp luật trao cho các cơ quan hành chính. Đối với một số khiếu kiện, pháp luật cho phép người dân được quyền lựa chọn hoặc khiếu nại theo thủ tục hành chính hoặc khởi kiện tại Tòa án. Với cơ chế này, thời gian qua chúng ta đã giải quyết được một phần lớn các khiếu kiện phát sinh. Tuy nhiên, trong việc giải quyết khiếu kiện của các cơ quan hành chính cũng như của Tòa án vẫn còn bộc lộ các hạn chế cần phải được tiếp tục nghiên cứu để đổi mới.


tải về 0.66 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương