Số lượng bản tin nhắn SMS phục vụ đo kiểm
Số lượng bản tin phục vụ đo kiểm được tính như sau:
z1-α/2 là 1-α/2 phần trăm của phân bố chuẩn
s là độ lệch chuẩn kỳ vọng của thời gian set-up cuộc gọi
mean(x) là giá trị trung bình kỳ vọng của thời gian set-up cuộc gọi
a là độ chính xác tương đối
Ngay cả khi không có yêu cầu cung cấp độ lệch chuẩn, nên có ước lượng dùng cho công thức trên. Bảng A.1 dưới đây đưa ra số mẫu cần thiết cho mức độ tin cậy 95% (z1-α/2 =1.96 ) và a = 2%
Bảng A.1 Sự phụ thuộc của số lượng bản tin vào s/mean(x)
s/mean(x)
|
n (số lượng quan sát)
|
< 0,1
|
100
|
> 0,1 đến 0,3
|
1000
|
> 0,3 đến 0,5
|
2500
|
> 0,5 đến 0,7
|
5000
|
> 0,7 đến 0,9
|
7500
|
> 0,9
|
10000
|
Thông thường các kết quả đo thường được lấy ở khoảng độ tin cậy 95% với độ chính xác tương đối 2% và nếu s/mean(x) trong khoảng từ 0,1 đến 0,3 thì số mẫu là 1000.
Lựa chọn phương pháp đo mô phỏng Các phương pháp đo kiểm
Phổ biến nhất là hai phương pháp đo kiểm chất lượng dịch vụ đó là:
-
Đo kiểm dựa trên phương pháp mô phỏng thông qua các công cụ như drive-test;
-
Đo kiểm dựa trên phương pháp thống kê dữ liệu thu thập tại OMC.
Hai phương pháp này bù trù nhau, trên thực tế cùng được sử dụng để giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến chất lượng và hiệu suất mạng. Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng. Một trong những lợi ích rõ nhất trong việc sử dụng đo kiểm dựa trên phương pháp thống kê dữ liệu đó là ngồi một chỗ, thu thập dữ liệu mà không tốn nhiều chi phí. Các cuộc gọi có thể thu thập và phân tích trong một vùng hoặc toàn bộ mạng. Việc kiểm tra như vậy cho phép có cái nhìn tổng quan về bức tranh tổng thể, như tình trạng tải. Dữ liệu cho phép phân tích tình trạng sử dụng dung lượng, như tìm kiếm các vùng mà đang đối mặt với tình trạng nghẽn để có kế hoạch điều chuyển dung lượng từ nơi thừa về nơi thiếu. Tóm lại, dữ liệu thu thập từ OMC có thể hữu hiệu khi đưa ra các kết luận về chất lượng dịch vụ trên các vùng địa lý lớn mà hành vi mạng là đã được biết rõ.
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, người ta cần các thông tin chi tiết hơn liên quan đến giao diện vô tuyến air-interface, mà chỉ có thể thông qua drive-test hay walk-test. Các phép đo đầu cuối đến đầu cuối không có giá trị trong phương pháp thống kê dữ liệu hoặc phải rất tốn kém trong việc tìm kiếm, tương quan dữ liệu trong gigabyte dữ liệu, điều này làm mất nhiều thời gian và chi phí. Đo kiểm dựa trên việc mô phỏng cho phép phân tích sâu sắc và hiệu chỉnh sau đó vấn đề có thể gây nên từ nhiễu loạn hoặc truyền dẫn đa đường. Phương pháp này mô phỏng tình trạng thực tế mà khách hàng trải qua, do vậy những kết quả mang lại gần với những cảm nhận, nhận thức của khách hàng hơn về chất lượng dịch vụ.
Cách tiếp cận drive-test có những ưu điểm sau:
-
Đo mang từ một điểm bên ngoài như là từ phía người sử dụng và như vậy không phụ thuộc vào bất cứ chức năng hiệu chỉnh nào của mạng để cho phép thực hiện phép đo;
-
Cùng một hệ thống kiếm tra có thể sử dụng để so sánh các kết quả cho các mạng khác nhau và như vậy khả năng so sánh của các kết quả tại cùng một vị trí và thời gian đo là cao, cho dù các kết quả không nhất thiết phải đại diện nhiều cho hiệu suất toàn bộ mạng;
-
Các vị trí không được phủ sóng cũng được tính đến đầy đủ trong kết quả đo.
-
Tuy vậy, cách tiếp cận này cũng có những nhược điểm:
-
Các cấu hình kiểm tra (tức là đầu cuối và phương pháp sử dụng nó ) không biểu thị cách thức người sử dụng xử lý đầu cuối của họ như thế nào;
-
Để đạt được đủ độ chính xác (đại điện cho toàn bộ mạng) cho các mục đích so sánh, một số lớn các mẫu là cần phải thu thập.
Có một vài vấn đề liên quan đến việc chọn tuyến, đại diện cho hành vi người sử dụng ở cả vị trí và thời gian. Cả mật độ người sử dụng và độ phức tạp của việc cung cấp dịch vụ trong các vùng khác nhau đều thay đổi, và việc drive-test không nhất thiết phải đại diện cho hiệu suất toàn bộ mạng. Điều này có nghĩa càng đại diện nhiều hơn thì càng phải drive-test nhiều và lâu hơn và các phần khác nhau của drive-test nên được đánh trọng số khác nhau.
Phương pháp dựa trên thống kê dữ liệu cũng có những ưu điểm:
-
Bao hàm cả những ảnh hưởng đến cuộc gọi và như thế cung cấp khả năng so sánh tốt hơn về những sự cố và tình trạng tắc nghẽn mạng.
-
Tính cả đến những thay đổi ở các đầu cuối và hiệu suất thực sự đạt được bởi những đầu cuối thực sự của người sử dụng.
-
Các chỉ tiêu chất lượng có thể cho toàn bộ mạng cũng như các vùng và các chu kỳ khác nhau ngoài một cơ sở dữ liệu.
Những nhược điểm là:
-
Các toán tính gọi thực hiện ngoài vùng phủ sóng không được tính đến vì mạng không nhận được thông tin;
-
Kết quả đo phụ thuộc vào các thuật toán phần mềm bên trong các switch và bộ điều khiển BS thực thi các bộ đếm và thuật toán từ các nhà sản xuất khác nhau có thể khác nhau cũng như khác nhau bởi các phiên bản thuật toán.
Bảng B.1 dưới đây so sánh ưu nhược điểm của hai phương pháp này.
Bảng B.3 So sánh ưu nhược điểm của mỗi phương pháp đo kiểm
|
Drive/Walk Tests
(intrusive)
|
Statistic Collection
(non-intrusive)
|
Thu thập dữ liệu
|
Đắt
|
Có thể trong hạ tầng mạng lõi
|
Các thống kê
|
Kiểm soát đầy đủ các mẫu kể cả các cell không sử dụng
|
Nhìn chung, sử dụng hiệu quả
|
Dữ liệu
|
Chỉ xử lý dữ liệu nào quan tâm
|
Một lượng lớn dữ liệu, việc khó khăn cho việc tương quan các nguồn dữ liệu khác nhau
|
Địa lý
|
Theo các điểm
|
Theo các vùng BTS/BSC
|
Đầu cuối – Đầu cuối
|
Kiểm soát đầy đủ cả hai đầu, kể cả các mong muốn của người sử dụng
|
|
Lấy điểm chuẩn
|
Cùng các điều kiện cho tất cả các mạng
|
Truy nhập vào dữ liệu mạng mang tính cạnh tranh là khó khăn
|
Các dịch vụ mới
|
Thực thi nhanh
|
|
Lần vết vấn đề/cuộc gọi
|
Chi tiết được
|
Tổng quát
|
Chất lượng in-band
|
Kiểm soát đầy đủ dữ liệu in-band/pay-load. Có thể sử dụng các thuật toán chuẩn, chính xác
|
|
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |