2, Đặc trưng của truyền hình 10



tải về 1.25 Mb.
trang3/17
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.25 Mb.
#13034
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

2.1.4, Sử dụng camera


Video camera có rất nhiều loại khác nhau, do vậy việc sử dụng đúng và không để xảy ra các hư hỏng đáng tiếc, kéo dài tuổi thọ của chúng và khai thác có hiệu quả tính năng của camera; trước khi dùng cần đọc kỹ các tài liệu hướng dẫn sử dụng (đi kèm theo máy). Tốt nhất là nên nhờ những người có kinh nghiệm, có kỹ thuật kiểm tra và hướng dẫn trước.

Trong tài liệu hướng dẫn chỉ rõ:



  • Các thông số kỹ thuật như: độ nhạy, độ chiếu sáng tối thiểu, chuẩn), độ phân giải, hệ màu, nguồn điện nuôi, công suất tiêu thụ, kích thước, trọng lượng, điều kiện làm việc cho phép,..

  • Các phụ kiệ kèm theo máy hoặc cần mua thêm nếu muốn mở rộng khả năng hoạt động của máy.

  • Vị trí, chức năng các bộ phận, các chuyển mạch, phím bấm, vận hành máy.

  • Các ghép nối máy, các phương thức, quy trình khai thác máy.

  • Cách bảo quản và các hiện tượng trục trặc kỹ thuật thường gặp và cách xử lý,…


2.2, Máy ghi hình (Video cassetle recorder)

Trong kỹ thuật truyền hình hiện nay để ghi tín hiệu video phần lớn đều dùng máy ghi hình từ tính (Video tape recorder hoặc video recorder) ghi lên băng từ (video tape). Nguyên lý ghi đọc trên băng từ của máy ghi hình về cơ bản giống như máy ghi âm. Song do đặc điểm của tín hiệu Video có giải tần số rất rộng so với dải tần số của tín hiệu âm thanh nên trong nguyên tắc làm việc và kết cấu máy có nhiều điểm khác biệt so với máy ghi âm như:



  • Trong các máy ghi hình đều có hệ thống mạch điện từ xử lý đặc biệt đối với tín hiệu Video (đen trắng và màu) trước khi ghi lên băng từ hoặc đọc băng từ ra.

  • Các đầu từ ghi đọc tín hiệu (video head) có kích thước rất nhỏ, mảnh, khe từ hẹp và gắn trên trống đầu từ quay với tốc độ 25 hoặc 30 vòng/giây.

  • Trên băng từ tín hiệu Video được ghi thành những vệt từ có bề rộng rất nhỏ và nằm trên một góc anpha từ 5 - 7 độ so với mép băng.

  • Tín hiệu âm thanh được ghi dọc theo một mép băng từ. Còn dọc theo mép băng thứ hai được ghi tín hiệu điều khiển (CLT) dùng để làm chuẩn điều chỉnh tốc độ kéo băng khi đọc.

  • Có hệ thống tự động ổn định tốc độ kéo băng và tốc độ quay trống đầu từ (hệ thống servo) đảm bảo cho tín hiệu video được ghi chính xác ở những vị trí nhất định trên băng từ và các đầu từ video đọc đúng vệt từ đã ghi.

  • Có hệ thống dàn băng để kéo băng từ hộp ra, ôm lấy trống đầu từ khi ghi, đọc băng và thu băng vào hộp băng khi dừng máy.

  • Có hệ thống điều chỉnh tự động nhờ một IC điều khiển các hoạt động của máy thực hiện chính xác, nhịp nhàng. Ngoài ra trong các máy ghi hình dân dụng để thuận tiện cho người sử dụng, người ta còn lắp thêm đông hồ điện tử, bộ phận hẹn giờ, bộ thu tín hiệu truyền hình…

Trên thế giới hiện nay tồn tại rất nhiều máy ghi hình do nhiều hãng sản xuất và ngay trong cùng một hãng cũng sản xuất nhiều loại. Chúng có thể khác nhau về nhiều mặt: về cỡ băng (độ rộng băng) sử dụng, như hệ thống Umatic dùng ¾ inch (1 inch = 2,54cm), hệ VHS, Betamax dùng băng ½ inch (12,7mm), hệ video dùng băng 8mm; các hệ máy này còn khác nhau về kết cấu máy, các mạch điện tử xử lý tín hiệu, hệ màu, hệ thống dàn băng, kích thước đầu từ video,…

Do vậy, một băng được ghi ở hệ máy, hệ tiêu chuẩn kỹ thuật nào thì chỉ có thể đọc được trên các máy có hệ tiêu chuẩn cùng loại.

Vì có quá nhiều loại máy ghi hình, nên khi sử dụng cần tìm hiểu kỹ qua các tài liệu hướng dẫn sử dụng của máy hoặc nhờ những người có chuyên môn, kinh nghiệm hướng dẫn cụ thể.

Trong việc sử dụng máy ghi hình càn lưu ý tránh để máy bị bẩn bụi. Đặc biệt là vấn đề bảo quản băng cần tránh để bị rách, ướt, ẩm; nếu bị ẩm, băng dễ bị dính, mốc, rã bột từ; khi bột từ bị rã, mốc có thể bịt kín khe làm việc của đầu từ vốn đã rất hẹp, khiến cho không thể ghi, đọc được.

Băng để ở nơi nóng quá cũng dễ làm cho mép băng bị quăn, khiến việc ghi đọc tín hiệu điều khiển không được hoặc sai, dẫn tới tốc độ kéo băng sai, chất lượng hình bị xấu, thậm chí bị hỏng.

Đầu từ video cũng rất dễ gãy, nên cần lưu ý kỹ thuật lau đầu từ.


2.3, Kỹ thuật dựng băng Video

Dựng băng video (video editing) là một công đoạn trong quy trình sản xuất phim hoặc chương trình video.

Mục đich của việc dựng băng video là loại bỏ những hình ảnh, cảnh quay không sử dụng như cảnh mất nét, khuôn hình xấu, chất lượng hình ảnh không chấp nhận được và sắp xếp lại hình ảnh đã ghi được theo một trình tự mong muốn trong phim.

Trong kỹ thuật truyền hình, không thể dùng phương pháp cắt xén và cắt dán trực tiếp các khuôn hình như trong kỹ thuật dựng phim nhựa của điện ảnh, mà phải dùng các thiết bị video chuyên dùng.

Trường hợp đơn giản nhất là dùng máy ghi hình để đọc băng đã ghi, một máy thứ hai để ghi những hình ảnh đã chọn trên một băng mới. Việc thao tác chọn các điểm đầu và điểm cuối của từng cảnh và ghép nối các hình ảnh lại với nhau bằng cách bấm trên bàn điều khiển, dựng băng hoặc trực tiếp trên các máy ghi hình. Nhờ các mạch điều khiển ở trong máy, các mạch chức năng sẽ tự động điều khiển hai máy ghi, đọc hoạt động nhịp nhàng, chính xác. Có hai chế độ dựng băng:
2.3.1, Dựng nối tiếp (Assemble Editing)

Đây là cách dựng đơn giản, chỉ là cách in lại các cảnh đã quay được chọn trên băng gốc sang các băng trắng khác và sắp xếp lại theo trình tự hợp lý đúng với kịch bản phim.

Ở chế độ dựng này, cả ba tín hiệu: tín hiệu hình, tín hiệu âm thanh và tín hiệu điều khiển đều được ghi lại trên băng mới.
2.3.2, Dựng xen kẽ (Insert Editing)

Chế độ này chỉ thực hiện trên các máy ghi hình có chức năng dựng xen kẽ.

Chức năng dựng xen kẽ (Insert Editing) cho phép ta thay thế một cảnh mới vào một cảnh đã ghi trước đó (vá hình), trong khi tiếng cũ vẫn có thể giữ nguyên.

Hoặc ngược lại ta có thể thay thế một âm thanh cũ bằng một âm thanh mới trong khi vẫn giữ nguyên hình.

Ở chế độ này, việc xác định các điểm dựng vào và điểm dựng ra đòi hỏi phải chính xác, hai máy phải làm việc đồng bộ với nhau.

Trên băng muốn vá hình hoặc vá tiếng thì đường tín hiệu hình hoặc tín hiệu tiếng cũ có thể bị xóa để ghi mới, song đường tín hiệu điều khiển (CTL) vẫn được giữ nguyên.

Việc thao tác máy để dựng băng video không khó, song đòi hỏi phải chuẩn xác để tránh xóa nhầm vào những cảnh hoặc tiếng cần giữ.

Do vậy, phải có thời gian làm quen với từng loại máy cụ thể và thuần thục sử dụng máy.


2.4, Âm thanh

Trong một phim video ngoài hình ảnh, âm thanh cũng là một yếu tố quan trọng. Âm thanh dù là lời thuyết minh, tiếng động hay đối thoại đều phải rõ ràng, dễ nghe, khớp với hình ảnh, âm nhạc nếu dùng phải hay và phù hợp với nội dung phim.

Hầu hết các video camera lưu động đều có gắn một micro trên thân camera. Điều đó cho phép thu âm thanh đồng bộ với hình ảnh. Tuy nhiên, phần lớn các loại micro có sẵn trên máy chỉ thu tốt trong phạm vi vài ba mét. Càng xa nguồn âm, chất lượng âm thanh thu được càng kém, mặt khác chúng cũng dễ dàng thu các tạp âm, tiếng ồn xung quanh.

Để thu được âm thanh chất lượng tốt nên dùng một micro ngoài rồi cắm vào lỗ Exmic (micro ngoài) trên camera hoặc vào máy ghi hình.

Có rất nhiều loại micro khác nhau, micro định hướng, micro không định hướng, micro điện động, micro tụ,..

Để đi ghi lưu động nên dùng loại micro điện động vì loại này bền hơn, không cần pin cấp điên cho micro, tránh được tình trạng tiếp xúc pin xấu hoặc khi pin yếu ảnh hưởng đến chất lượng thu thanh.

Cũng nên chọn loại micro định hướng nếu muốn tránh tiếng ồn xung quanh. Trong các phim ghi hình lưuđộng nên cố gắng ghi được tiếng hiện trường đồng thời với hình ảnh. Trường hợp cần ghi tiếng thuyết minh, lời bình luận hoặc thêm nhạc thì có thể thực hiện trong phòng thu qua bàn pha âm (Audio Mixer) để trộn chúng với nhau và điều chỉnh các to nhỏ cho hợp lý.
2.5, Quay phim

Người quay phim về truyền thông phải nắm bắt được nội dung chủ đề thể hiện bằng ngôn ngữ hình ảnh trong các thể loại.


2.5.1, Đối với thể loại có cốt truyện

Để cho câu chuyện diễn ra thật tự nhiên và hợp lí, chúng ta phải thay đổi khoảng cách và góc độ: Có thể để camera ở cùng một vị trỉ rồi dùng ống kính thay đổi tiêu cự lấy toàn cảnh rồi zoom vào trung cảnh, zoom vào cận cảnh, zoom vào đặc tả. Bốn cú máy này thực hiện cùng một vị trí của camera, ví dụ: khi chúng ta cách 200m in vào một chủ thể đang nói về vấn đề an toàn giao thông để nói và ý thức của người tham gia giao thông, với camera ở vị trí cố định thì chúng ta chỉ bó chặt khuôn hình quanh một chủ thể liên tục bành trướng, kích thước. Mọi vật thể trong bối cảnh vẫn giữ nguyên các vị trí tương đối của chúng. Kết quả là chúng ta nhìn thấy chủ thể mỗi lúc một lớn mà không có cảm giác rằng mình đang thật sự đến gần chủ thể.


2.5.2, Khi quay những cảnh phỏng vấn

Tránh để khuôn hình cắt ngang nhân vật ở những khớp nối tự nhiên. Nên chọn những điểm cắt ở giữa đường chân trời luôn nằm ngang khuôn hình, theo nguyên tắc phân ba, đólà hai đường thẳng ngang trong khuôn hình, và hai đường thẳng đứng. Nên đặt các nhân vật chính ở đường giao tuyến này.

Khi bố cục khuôn mặt để quay phỏng vấn nên bố trí sao cho đôi mắt nhân vật nằm ở 1/3 khuôn hình từ trên nhìn xuống, nhớ dành khoẻng không gian để thu hình chọn mái tóc. Khi quay gương mặt trông nghiêng này hãy bố trí nhân vật khuôn hình sao cho phía trước của nhân vật có nhiều khoảng trống hơn phía sau.

Chú ý hậu cảnh nhất là khi quay phỏng vấn không để gối đầu họ lên cột đèn, thân cây, nhánh cây. Chỉ cần dịch chuyển camera là dễ dàng tránh được những hậu cảnh này.

Góc độ thu hình là tầm nhìn của camera hướng tới chủ thể thêm vào đó để cảnh quay chuyển tiếp mượt mà dễ hiểu từ cú máy này sang cú máy khác. Chúng ta luôn luôn nhớ những gì trước đoạn phim bạn đang quay và những gì tiếp sau đó, dựa trên bốn góc độ camera cơ bản để sử dụng chúng: ngang tầm mắt, góc độ thấp, góc độ cao – qua vai, đây là kĩ thuật tiêu biểu chuẩn bị khi quay một cuộc đối thoại hai người.

Thông thường, camera hướng ống kính về phía người trả lời qua vai người phỏng vấn, chúng ta có thể cho người xem thấy dáng của người phóng viên, một phần gương mặt trông nghiêng của người phỏng vấn từ sau lưng tới. Có lúc bạn muốn trình bày phản ứng của người nghe trước những lời của người nói, trong trường hợp này bạn đổi cách quay bàng cách đảo vị trí đã nói trên và thu hình trọn gương mặt của người nghe.

Hoặc có thể di chuyển tới lui thu hình hết qua vai người này đến qua vai người kia. Để tránh sai trục hình ảnh bạn phải nhớ lại đúng vị trí mà bạn đã đứng trước đây. Ví dụ: Nếu bạn khởi đầu bằng cú bấm máy quay từ phía bờ vai bên trái của cùng nhân vật thì cứ trở lại vị trí đó. Nếu bạn đổi qua vị trí bờ vai bên phải của cùng nhân vật đó thì khi xem lại sẽ thấy nhân vật của bạn bất ngờ đổi chỗ. Nếu bạn muốn thay đổi vị trí camera hay của các chủ thể thì hãy báo cho người xem biết bạn sắp làm điều đó. Cách tốt nhất để thực hiện sự thông báo này là di chuyển camera theo chiều ngang lưới qua của chủ thể trong khi quay, hoặc ta có thể đạo diễn cho các chủ thể, hoặc thay đổi vị trí trong cú bấm máy trong khi camera vẫn giữ nguyên ở một chỗ.

Trong bố cục nhiều nhân vật nên bố trí trong hoàn cảnh thoải mái để hợp vị trí của họ trong khuôn hình được tự nhiên. Nếu phù hợp với mục đích nội dung câu chuyện thì chúng ta nên sắp xếp cho đầu các nhân vật ở những độ cao khác nhau và khuôn mặt nhìn theo những hướng khác nhau, tránh xếp nhiều nhân vật theo một hàng ngang, tất cả đều nhìn về phía camera.

Khi quay phong cảnh mà lia máy ngang, trong lúc đang thu hình động tác đưa camera phải trơn tru, nên để camera trên chân máy có ổ bi để đảm bảo cho chuyển động được êm và ổn định. Nếu giữ camera bằng tay thì đứng thật vững, nếu lia máy phải chuẩn bị trước tư thế đứng. Nếu tĩnh nên có điểm tì để giữ camera khỏi rung, cảnh lia cũng như cảnh tĩnh phải rõ ràng, dứt khoát điểm đầu và điểm cuối, cú lia quay trong cảnh nên có tiền cảnh để tạo chiều sâu.

Sắp xếp khuôn hình khi đổi cảnh dựng thì đổi cỡ cảnh (toàn, trung, cận, đặc tả) đổi góc độ camera từ cú máy này sang cúmáy khác.

Mức khác biệt giữa toàn cảnh và trung cảnh, cận cảnh phải rõ ràng, phân biệt chứ không mơ hồ, do dự. Việc thay đổi góc độ đột ngột quá khiến khán giả khó chịu. Đừng bao giờ đảo ngược tầm nhìn của bạn đối với chủ thể mà không cung cấp những thông tin hình ảnh báo trước cho người xem, là bạn đổi hướng nhìn; và đừng bao giờ dùng một thủ pháp cho hai cú máy riêng lẻ liên tiếp nhau.

Sự liên tục của các hoạt động, các cảnh trước, song phải nhất quán nghĩa là hãy giữ cho hành động chuyển từ cú máy quay này sang cú máy quay khác theo một phong thái hợp lí và rõ ràng trong một trình tự liên tục của hành động, các mấu nối động tác ở khuôn hình sau phải liên tục ở khuôn hình trước dù khuôn hình có thay đổi những phần chọn lọc của hành động.

Các mấu nối phải đồng trực, muốn phá trục hình ảnh phải có cảnh truyền. Màu sắc giữa hai khuôn hình không được tương phản lớn cũng như hành động ở cú quay trước, hành động của cú quay sau. Nếu hành động thay đổi đột ngột thì phải nhớ thay đổi một số thông tin hình ảnh, có thể là bằng một cú quay phụ để báo cho người xem biết trước.
2.5.3, Hướng chuyển động

Đừng làm người xem bối rối vì chuyển động của nhân vật trong phim chuyển hướng bất thình lình. Khi một chủ thể đi ra phía trái khuôn hình thì hãy cho nhân vật đi từ phía phải trong các cú quay sau. Cần nhớ là khán giả chỉ thấy những gì trên màn ảnh chứ không thấy toàn bộ cảnh trí của bạn. Người quay phim, nếu chiều hướng của chuyển động thay đổi thì bạn phải giải thích bằng hình ảnh lí do đổi hướng.


2.5.4, Tính nhất quán của nguồn sáng

Nguồn sáng không đồng nhất cũng có thể gây khó chịu như nhân vật đột nhiên thay đổi mà không thấy tiến trình thay đổi giữa cảnh đêm và ngày, nên có cảnh đệm. Nếu quay phim trong nhà thì ta dễ bố trí nguồn sáng cho nhất quán. Khi quay ngoài trời, cố gắng thu hình ở cùng giờ giấc trong ngày với những ánh sáng chiếu cùng một hướng ở mỗi cú quay.Tất nhiên không có thể điều khiển được thời tiết cho nên đôi lúc chúng ta phải tìm giải pháp thoả hiệp.


2.6, Ánh sáng

Video – Camera có khả năng tạo ra chất lượng hình ảnh tối ưu dưới nhiều tình huống ánh sáng biến đổi, các chế độ mở ống kính tự động, kích sáng … sẽ họat động để nâng cao hình ảnh tự động hay điều chỉnh bằng tay. Những cơ chế nói trên chỉ kiểm soát được lượng sáng chứ không quyết định được tính thẩm mỹ của ánh sáng. Độ sáng mục tiêu đầu tiên của chúng ta là cung cấp cho camera một lượng sáng thích hợp để tạo hình ảnh rõ, trong sáng, chú ý đừng để thừa sáng hoặc thiếu sáng, hoặc thiếu chiều sâu. Khi chiếu sáng phải phải tạo được khối, chi tiết bị tối và người xem không nhìn thấy được, và tạo ra được khối và chi tiết nâng tính thẩm mỹ của ánh sáng.


2.6.1, Nguồn sáng pha trộn

Nên tránh những nguồn sáng pha trộn bởi vì nó làm cho màu sắc của hình ảnh không đúng, còn để tái tạo lại hình ảnh chúng ta có thể dùng kính lọc xanh kêt hợp với giấy tản sáng.

Ánh sáng bố trí thường cần bốn nguồn sáng cơ bản: đèn chủ quang, đèn phụ quay, đèn ven, đèn phông.
2.6.2, Ánh sáng thiên nhiên

Nguồn sáng ngoài trời thông thường là mặt trời, tính chất của nguồn sáng này thường biến đổi rất lớn từ ánh nắng trực tiếp, tương phản sang ánh sáng hoàn toàn phân tán của bầu trời đầy mây.


2.6.3, Ngược sáng

Tránh dùng nguồn sáng ngược làm nguồn sáng duy nhất trừ khi bạn muốn ghi hình chủ thể thành bóng đen. Nhưng ánh sáng ngược có thể trở nên hấp dẫn khi ta dùng nguồn sáng phụ hay tấm phản quang. Mặt trời chếch sau chủ thể cho ánh sáng xem rất đẹp. Mặt trời lúc này là ánh sáng chính còn đằng trước chủ thể có thể dùng phản quang.



LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỀN HÌNH
Có thể nói, hiện nay truyền hình là phương tiện truyền thông phổ biến nhất thế giới. Hầu hết mọi người không có cơ hội trực tiếp gặp mặt các nguyên thủ quốc gia, du hành tới mặt trăng, chứng kiến một cuộc chiến hay xem một trận thi đấu thể thao…với truyền hình, họ có được cơ hội làm những việc đó. Không chỉ là một phương tiện truyền thông, phương tiện giải trí thuần tuý, ngày nay truyền hình còn được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống hiện đại. Bộ phận an ninh sử dụng truyền hình như một công cụ bảo vệ, giám sát. Ngành tàu điện ngầm dùng truyền hình để quản lý hệ thống đường tàu điện hay ngầm hay để điều khiển con tàu từ xa. Các bác sĩ khám nội tạng bệnh nhân bằng camera hiển vi thay vì mổ. Ngành giáo dục tiến hành đào tạo từ xa cũng thông qua truyền hình.

Truyền hình là loại hình phương tiện thông tin đại chúng mới xuất hiện từ khoảng giữa thế kỷ XX, nhưng đã phát triển rất nhanh chóng, mạnh mẽ và được phổ biến hết sức rộng rãi trong vòng vài ba thập niên trở lại đây. Thế mạnh đặc trưng của truyền hình là cung cấp thông tin dưới dạng hình ảnh (Kết hợp âm thanh và ở mức độ nhất định cả với chữ viết) mang tính hẫp dẫn sinh động, trực tiếp và tổng hợp. Từ đó, loại hình phương tiện truyền thông độc đáo, đặc biệt này tạo nên được ở người tiếp nhận thông tin hiệu quả tổng hợp tức thời về nhận thức và thẩm mỹ, trước hết là ở trình độ trực quan, trực cảm.

Bằng sự kết hợp các chức năng phản ánh- nhận thức thẩm mỹ- giải trí với nhau, truyền hình ngày càng thu hút được nhiều khán giả. Vai trò, vị trí, ảnh hưởng và tác động của truyền hình đối với công chúng nói chung, quá trình hình thành và định hướng dư luận xã hội nói riêng đã và đang tăng lên nhanh chóng.
1.Truyền hình thế giới.

Truyền hình là hệ thống phát và thu hình ảnh và âm thành bằng những thiết bị truyền dẫn tín hiệu từ qua cáp, sợi quang và quan trọng nhất là sóng điện từ.

Những hệ thống truyền hình thật sự đầu tiên bắt đầu đi vào hoạt động chính thức trong thập niên 40 của thế kỷ này, không lâu sau khi khái niệm "truyền hình" được sử dụng với nghĩa như chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Ngành truyền hình thế giới đã phải trải qua một thời gian dài phát triển mới có được thành tựu đó.

Năm 1873, nhà khoa học người Scotland James Cleck Maxwell tiên đoán sự tồn tại của sóng điện từ, phương tiện chuyền tải tín hiệu truyền hình.

Cùng năm này, nhà khoa học người Anh Willoughby Smith và trợ lý Joseph May chứng minh rằng điện trở suất cảu nguyên tố Selen thay đổi khi được chiếu sáng. Phát minh này đã đưa ra khái niệm "suất quang dẫn", nguyên lý hoạt động của ống vidicon truyền ảnh. 15 năm sau, năm 1888, nhà vật lý người Đức Wihelm Hallwachs tìm ra khả năng phóng thích điện tử của một số vật liệu. Hiện tượng này được gọi là "phóng tia điện tử", nguyên lý của ống orthicon truyền ảnh.

Mặc dù nhiều phương thức chuyển đổi ánh sáng thành dòng điện tử đã được phát minh và hoàn thiện nhưng hệ thống truyền hình đầu tiên vẫn chưa đủ điều kiện để ra đời. Vấn đề cốt yếu là dòng điện tạo ra còn yếu và chưa tìm sđược một phương pháp khuyếch đại hiệu quả. Mãi cho tới năm 1906, khi Lee De Forest, một kỹ sư người Mỹ đăng ký sáng chế ống triode chân không thì vấn đề mới được giải quyết.


1.1, Đĩa Nipkow

Năm 1884, kỹ sư Paul Nipkow chế tạo thành công thiết bị thực nghiệm truyền hình đầu tiên, đĩa Nipkow. Ông đặt chiếc đĩa có đục lỗ theo hình xoáy ốc phía trước một bức tranh được chiếu sáng. Khi quay đĩa, lỗ thủng đầu tiên quét qua điểm cao nhất của bức tranh, lỗ thứ hai quét thấp hơn lỗ đầu tiên một chút, lỗ thứ 3 lại thấp hơn chút nữa,… và cứ như vậy cho tới tâm bức tranh. Để thu được hình ảnh, Nipkow quay chiếc đĩa, sau mỗi vòng quay, tất cả các điểm của bức tranh lần lượt hiện lên. Những chiếc đĩa tương tự quay ở điểm nhận. Khi tốc độ quay đạt 15 vòng/'giây, ánh sáng đi qua hệ thống đĩa tái tạo được hình ảnh tĩnh của bức tranh.

Thiết bị của Nipkow được sử dụng mãi tới thập kỷ 20 của thế kỷ này. Sau đó kỹ thuật truyền ảnh tĩnh dựa trên hệ thống đĩa Nipkow được Jenkins và Baird tiếp tục hoàn thiện. Những hình ảnh thu được tuy còn thô nhưng đã có thể nhận ra. Thiết bị thu vẫn sử dụng đĩa Nipkow đặt phía trước một ngọn đèn được điểu khiển độ sáng bằng tin hiệu từ bộ phận cảm quang phía sau đĩa ở thiết bị phát. Năm 1926 Baird công bố một hệ thống truyền ảnh tĩnh sử dụng đĩa Nipkow 30 lỗ.

Kỹ thuật này được gọi là phương pháp quét cơ học, hay phương pháp phân tích cơ học.


1.2, Truyền hình điện tử.

Đồng thời với sự phát triển của phương pháp phân tích cơ học, năm 1908 nhà sáng chế người Anh Campbell Swinton đưa ra phương pháp phân hình điện tử. Ông sử dụng một màn ảnh để thu nhận một điện tích thay đổi tương ứng với hình ảnh, và một súng điện tử trung hoà điện tích này, tạo ra dòng biến tử biến thiên. Nguyên lý này được Zworykin áp dụng trong ống ghi hình iconoscope, bộ phận quan trọng nhất của camera. Về sau, chiếc đèn orthicon hiện đại hơn cũng sử dụng một thiết bị tương tự như vậy.

Năm 1878, nhà vật lý và hoá học người Anh, William Crookes phát minh ra tia âm cực. Tới năm 1908, Campbell Swinton và Boris Rosing, người Nga, độc lập nghiên cứu những kết qủa thu được của hai ông lại tương đồng. Theo đó, hình ảnh được tái tạo bằng cách dùng một ống phóng tia âm cực (cathode-rays, tube-CRT) bắn phá màn hình phủ phóphor. Trong suốt những năm 30, công nghệ CRT được kỹ sư điện tử người Mỹ tên là Allen DuMont tập trung nghiên cứu. Phương pháp tái hiện hình ảnh của DuMont về cơ bản giống phương pháp chúng ta đang sử dụng ngày nay.

Ngày 13/1/1928, nhà phát minh Emst Alexanderson cho ra đời chiếc máy thu hình áp dụng phương pháp phân hình điện tử đầu tiên trên thế giới tại Schenectady, New York, Mỹ. Hình ảnh trên màn hình 76 mm (3 inch) xấu và không ổn định nhưng máy thu hình vẫn phổ biến ở nhiều gia đình. Nhiều máy thu kiểu này đã được sản xuất và bán tại Schenectady. Cũng tại đây, ngày 10/5/ 1928, đài WGY bắt đầu phát sóng đều đặn.


1.3, Phát hình công cộng.

Trong khi đó chương trình truyền hình công cộng đầu tiên lại xuất hiện ở London năm 1936. Những buổi phát hình này do 2 công ty cạnh tranh với nhau thực hiện. Marconi- EMI phát bằng hình ảnh 405 dòng quét ngang với 25 mành hình/ giây (25 frame/s) và hãng truyền hình Baird phát bằng hình ảnh 240 dòng quét ngang cũng với 25 frame/s. Đầu năm 1937, hệ Marconi với chất lượng hình ảnh tốt được chọn làm chuẩn. Năm 1941, Mỹ chấp nhận chuẩn 525 dòng quét với 30 frame/s cho bộ phận giải của mình. Thánh 11/1937, BBC thực hiện buổi phát hình ngoài trời đáng chú ý đầu tiên. Đó là buổi phát hình lễ đăng quang của vua George VI tại công viên Hyde, London. BBC đã sử dụng một máy phát xách tay đặt trên chiếc xe đặc biệt. Vài ngàn khán giả đã chứng kiến buổi phát hình này.


1.4, Truyền hình màu.

Ngay từ năm 1904 người ta đã biết rằng có thể chế tạo thiết bị truyền hình màu bằng cách sử dụng 3 màu cơ bản là đỏ, lục và xanh. Năm 1928, Baird cho ra mắt truyền hình màu dùng 3 bộ đĩa Nipkow quét hình ảnh. 12 năm sau, Peter Goldmark chế tạo được hệ thống truyển hình màu với khả năng lọc tốt hơn. Năm 1951 buổi phát hình màu đầu tiên đã sử dụng hệ thống của Goldmark. Tuy nhiên, hệ thống này không thích hợp với truyền hình đơn sắc nên cuối năm đó thí nghiệm bị hủy bỏ. Cuối cùng thì hệ thống truyển hình màu thích hợp với truyền hình đơn sắc cũng ra đời năm 1953. Một năm sau, phát hình màu công cộng lại xuất hiện.

Những bước phát triển tiếp theo của nghành truyền hình thế giới chỉ là hoàn thiệt chất lượng truyền hình bằng những màn hình lớn hơn, công nghệ phát và truyền dẫn tín hiệu truyền hình tốt hơn mà thôi. Những màn hình đầu tiên chỉ đạt 18 hoặc 25 cách mạng (7 hoặc 10 inch) kích thước đường chéo. Màn hình ngày nay có kích thước lớn hơn rất nhiều. Với sự ra đời của máy chiếu, mán ảnh truyền hình có thể phục vụ những mán hình có kích thước đường chéo lên tới 2m. Nhưng các nhà sản xuất cũng không quên phát triển máy thu hình để nhỏ gọn, chẳng hạn một máy thu hình cỡ 3 inch (7,6 cm)

Ngày nay, ngành truyền hình thế giới đang từng bước chuyển dần từ công nghệ tương tự (hay tuần tự- analog) sang truyền hình kỹ thuật số (digital). Từ thập kỷ 80, hệ truyền hình độ nét cao (high-definition television - HDTV) sử dụng kỹ thuật số bắt đầu được nghiên cứu.


1.5, Các giai đoạn phát triển của truyền hình thế giới

Truyền hình có mối liên hệ mất thiết với một số loại hình truyền thống hay nghệ thuật khác như phát thanh, điện ảnh…Tuy nhiên, chỉ sau một vài thập kỷ sơ khai, truyền hình đã tiến hành những bước dài và thực sự tách ra khỏi các loại hình khác, trở thành phương tiện truyền thông độc lập và có sức mạnh to lớn trong việc tạo dựng và định hướng dư luận. Việc phát sóng truyền hình đầu tiên ở Mỹ được bắt đầu từ những năm 1930, và truyền hình chỉ thực sự phổ biến từ những năm 1950. Những đài phát thanh như NBC, CBS, ABC… sau khi phát triển thêm hệ thống truyền hình đã thực sự lớn mạnh và trở thành những tập đoàn phát thanh - truyền hình tầm cỡ thế giới.

Trên thực tế, sự hình thành và phát triển của truyền hình gắn liền với các sự kiện khoa học - công nghệ cũng như các sự kiện chính trị - xã hội khác. Ngay từ đầu những năm 1920, người ta đã chú ý đến truyền hình do họ nhận thức được vai trò của truyền hình trong việc tuyên truyền, quảng bá trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội…có thể điểm qua một vài mốc quan trọng trong niên đại truyền hình như sau.

1887: Heinrich Hertz (người Đức) chứng minh những tính chất của sóng điện từ.

1890-1895: Edouart Branly (người Pháp), Oliver Lodge (người Anh) và Alexandre Popov (người Nga) hoàn chỉnh điện báo vô tuyến.

1895: Guglielmo Marconi (người Ý) ứng dụng những công trình nghiên cứu về vô tuyến điện.

Tháng 3/1899: Liên lạc vô tuyến quốc tế đầu tiên ra đời ở Anh và Pháp, dài 46 Km

1923: Vladimir Zworykin (người Nga) phát minh ra ống iconoscop, cho phép biến năng lượng ánh sáng thành năng lượng điện.

1929: Chương trình phát hình đâu tiên của BBC được thực hiện từ kết quả nghiên cứu của John Baird về quét cơ học.

Tháng 4/1931: Chương trình phát hình đầu tiên được thực hiện ở Pháp dựa trên những nghiên cứu của René Barthélemy.

1934: Vladimir Zworykin hoàn chỉnh nghiên cứu về iconoscop và bắt đầu ứng dụng vào việc xây dựng và phát sóng truyền hình.

1935: Pháp đặt máy phát trên tháp Eiffel

1936: Thế vận hội Berlin được truyền hình tại một số thành phố lớn.

1939: Truyền hình Liên Xô phát đều đặn hàng ngày

1941: Mỹ chấp nhận 525 dòng quét với bộ phân giải của mình



tải về 1.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương