1. Kết quả nghiên cứu ban đầu về động vật có xương sống trên cạn ở vùng hồ Quan Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội 97


Kết quả nghiên cứu ban đầu về động vật có xương sống trên cạn ở vùng hồ Quan Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội



tải về 343.44 Kb.
trang2/20
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích343.44 Kb.
#31619
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20

1. Kết quả nghiên cứu ban đầu về động vật có xương sống trên cạn ở vùng hồ Quan Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội

Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Xuân Huấn, Hoàng Trung Thành

Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN

Vùng hồ Quan Sơn thuộc huyện Mỹ Đức, Hà Nội, chỉ cách Hà Nội khoảng 50 km về phía Tây-Nam. Do có địa hình phức tạp với nhiều thung và các khu rừng trên các đồi, núi bao quanh hồ nên khu hệ động vật có xương sống ở cạn của vùng này tương đối giàu có và khá đa dạng. Dựa trên kết quả của 2 đợt khảo sát vào tháng 5 và tháng 7, năm 2010, chúng tôi đã xác định được 16 loài ếch nhái thuộc 6 họ trong 1 bộ; 28 loài bò sát thuộc 11 họ trong 2 bộ; 66 loài chim thuộc 31 họ trong 14 bộ; và 21 loài thú thuộc 14 họ trong 6 bộ. trong số này có 20 loài được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (2008), gồm 6 loài cấp EN; 9 loài cấp VU; 4 loài cấp CR và 1 loài cấp LR. Đây là những số liệu đầu tiên về động vật có xương sống ở cạn của vùng hồ Quan Sơn.

The preliminary results of survey on terrestrial vertebrates

in the area of Quan Son Lake, My Duc District, Hanoi

Nguyen Thi Lan Anh, Nguyen Xuan Huan, Hoang Trung Thanh

Faculty of Biology, Hanoi University of Science, VNU

Quan Son lake area is located in My Duc district, Hanoi, about 50 km away from Hanoi to southwest. Due to the complex terrain with many valleys, and forests on mountains and hills surrounding the lake, the fauna of terrestrial vertebrates in the area is relatively rich and rather diverse. Based on results of two surveys carried out in May and July, 2010 we identified 16 amphibian species of 6 families in 1 order; 28 reptilian species of 11 families in 2 orders; 66 bird species of 31 families in 14 orders; and 21 mammal species of 14 families in 6 orders. Among them, there are 20 species enlisted in Vietnam Red Data Book, including 4 species at CR, 6 species at EN, 9 species at VU and 1 species at LR. This is the first data on terrestrial vertebrates in the area of Quan Son lake.



2. Tác dụng chống ung thư của hai chất GE-2 và CB-8

trên chuột mang khối u sarcoma-180

Nguyễn Thị Ngọc Ánh1, Bùi Thị Vân Khánh1, Phan Văn Kiệm2,

Nguyễn Xuân Cường2, Hoàng Thị Mỹ Nhung1 và Nguyễn Thị Quỳ1

1Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN

2Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, Viện Khoa học và Công nghệ Quốc gia

Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm đánh giá hoạt tính kháng u trên chuột thí nghiệm của hai chất GE-2 và CB-8. GE-2 là một tritecpenoid saponin dạng tinh thể được chiết xuất và tinh chế từ rễ cây Bòn bọt Glochidion eriocarpum - Champ. CB-8 có tên là cibotiumbarosides A cũng ở dạng tinh thể được chiết xuất từ rễ cây Cẩu tích Cibotium barometz (L.) J. Sm. 6-Mercaptopurin (6-MP) là một loại thuốc điều trị nhiều loại ung thư mô liên kết được sử dụng làm đối chứng dương. Chuột nhắt dòng Swiss sau khi cấy ghép với tế bào ung thư được điều trị bằng chế phẩm GE-2, CB-8 và thuốc 6-MP với liều tương ứng là 130 mg/kg, 182 mg/kg và 48 mg/kg. Kết quả cho thấy GE-2, CB-8 có khả năng ngăn cản sự tạo thành khối u trên chuột tương ứng là 15% và 40% trong khi 6-MP không có tác dụng này. Theo thang đánh giá hiệu lực kháng u của H. Itokawa, GE-2, CB-8 và thuốc 6-MP đều đạt hiệu lực kháng u (+) với độ tin cậy tương ứng là 95%, 78% và 90%. GE-2, CB-8 làm tăng thời gian sống thêm của chuột ung thư sau điều trị lên 24,8% và 17,2%. Hai chất này có ảnh hưởng đến chỉ tiêu máu chuột thí nghiệm: GE-2 có xu hướng làm tăng bạch cầu, nhất là bạch cầu trung tính và bạch cầu lympho, trong khi CB-8 thì thể hiện xu hướng giống với 6-MP là duy trì các chỉ tiêu này của chuột thí nghiệm ở mức bình thường như chuột khỏe mạnh.

Anti-cancer effect of GE-2 and CB-8

on mice bearing sarcoma-180 tumor

Nguyen Thi Ngoc Anh1, Bui Thi Van Khanh1, Phan Van Kiem2,
Nguyen Xuan Cuong2, Hoang Thi My Nhung1, Nguyen Thi Quy1

1Faculty of Biology, Hanoi University of Science, VNU

2Institute of Natural products Chemistry, VAST

We carried out this experiment in order to examine anti-tumor potential of two new compounds: GE-2 and CB-8. GE-2 is a crystallized tritecpenoid saponine which is extracted and purified from the root of Glochidion eriocarpum -Champ. CB-8 was an abbreviation for cibotiumbarosides A compound in crystal form which is extracted from the root of Cibotium berometz (L.) J. Sm. 6-Mercaptopurin (6-MP) which is conventionally applied to treat many kinds of sarcoma was used as a positive control. Swiss mice, subsequently to be intraperitoneally injected with sarcoma-180 cell line in order to induce tumor, was treated orally with GE-2 and CB-8 using dosage of 130mg/kg, 182mg/kg, respectively. The obtained results have shown that GE-2 and CB-8 have ability to inhibit tumor formation in mice with the rate of 15% and 40%, respectively. Based on anti-tumor effectiveness scale of H. Itokawa, both GE-2 and CB-8 resulted as positive in anti-tumor effectiveness with confidence level of 95%, 78% and 90%, respectively. Tumor-bearing mice treated with GE-2 and CB-8 have increased post-treatment life time up to 24.8% and 17.2%, respectively. These two compounds have different effect on blood testing index: GE-2 inclined to increase leukocytes quantity, especially neutrophils and lymphocytes, meanwhile CB-8 maintain these indexes on experiment mice at normal level as in healthy mice.

3. Phản ứng của tế bào ung thư bạch cầu người dưới tác dụng của dịch chiết các chất có hoạt tính sinh học

ở nấm dược liệu nhiệt đới

Trịnh Thị Tam Bảo1, Katrin Litsche2, Trịnh Tam Kiệt3, Hans Peter Saluz2

1Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN

2Viện Hóa các hợp chất tự nhiên và sinh học lây nhiễm, Viện Hans Knoell, Jena

3Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học, ĐHQGHN

Tuy hiện thời đã lưu hành nhiều liệu pháp điều trị ung thư, các nhà khoa học vẫn đang dày công nghiên cứu nhằm tìm ra một cách tiếp cận hiệu quả và an toàn hơn đối với chứng bệnh này. Nhiều tác nhân chống ung thư đã được phát hiện từ kho tàng y dược cổ truyền đông phương. Bên cạnh các loài động thực vật, nấm cũng là nguồn cung cấp đáng kể các hợp chất có hoạt tính sinh học. Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng nấm có khả năng kích thích sự hoạt hóa tế bào bạch cầu đơn nhân, sự gia tăng số lượng của tế bào là lách và biểu hiện của các cytokine; không những thế còn kiểm soát các tác dụng kìm hãm sinh trưởng ở nhiều loại ung thư; điều hòa chu trình tế bào và gây ra quá trình apoptosis ở các dòng tế bào ung thư.

Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi xem xét đặc tính dược liệu của các loài nấm thuộc chi Ganoderma và chi Phellinus bằng nhiều phép phân tích phân tử sử dụng dòng tế bào bạch cầu người HL-60. Sự tích lũy các nguyên tố nặng ở các nấm này đều nằm trong mức an toàn đối với tế bào và không ảnh hưởng đến tác dụng của dịch chiết nấm. Ở những nồng độ nhất định, dịch chiết nước của nấm không có tác dụng gây độc tế bào nhưng lại kìm hãm sinh trưởng dựa trên cơ chế kích thích xảy ra apoptosis. Ngoài ra, đáng thuyết phục là dịch chiết của Phellinus sp. kích thích apoptosis ở tế bào bạch cầu người bằng cách hoạt hóa một loạt các enzyme caspase bằng cả hai con đường: con đường liên quan đến thụ thể death receptor và con đường liên quan đến ty thể. Biểu hiện của nhiều protein điều hòa quá trình apoptosis cũng được xác định. Thêm vào đó, chúng tôi cũng phát hiện được những thay đổi đáng kể trong biểu hiện của bộ máy miRNA dưới tác dụng của dịch chiết nấm.



tải về 343.44 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương