Đề Tài: gvhd : LÊ thị kim oanh svth : LÊ thị LỆ thu nguyễn lê phưƠng uyên huỳNH thị MĨ trang



tải về 1.71 Mb.
trang7/14
Chuyển đổi dữ liệu25.03.2018
Kích1.71 Mb.
#36580
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   14

Hình 2.9 Nước ô nhiễm chưa xử lý mà thải trực tiếp ra sông

Lượng nước mặt cung cấp cho sinh hoạt chiếm70% tổng lượng nước cấp.Tuy nhiên hiện nay các nguồn nước mặc đều đã bị ô nhiễm và đang ở mức đáng báo động. Theo kết quả quan trắc chất lượng nguồn nước trên hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai, nơi cung cấp nước thô để sản xuất nước sạch cho sinh hoạt của người dân thành phố cho thấy: Suốt từ năm 2004 đến nay, nguồn cấp nước trên sông Sài Gòn chỉ đạt chuẩn nguồn nước loại B, trong đó mức độ ô nhiễm vi sinh (Coliform) đã vượt chuẩn loại B từ 1-15 lần.

Trên sông Đồng Nai, chất lượng nước đoạn từ thượng nguồn Hóa An đến hạ nguồn Cát Lái nồng độ dầu và ôxy hòa tan cũng chỉ đạt tiêu chuẩn loại B và Coliform thì đã vượt chuẩn cho phép của nước loại B từ 2,3-50 lần.

Chưa dừng lại ở mức độ ô nhiễm nguồn nước thô nghiêm trọng này, theo kết quả quan trắc quý I/2009 của Chi cục Bảo vệ môi trường, nhiều hàm lượng tạp chất gây ô nhiễm tiếp tục tăng lên, trong đó nguồn nước tại 4/6 trạm quan trắc có mức độ nhiễm Coliform tăng từ hơn 1,6-21,3 lần.

Đặc biệt, tình trạng ô nhiễm vi sinh tại Trạm Phú Cường vượt quy chuẩn cho phép tới 278 lần! Mặc dù nguồn nước ô nhiễm như vậy nhưng hằng ngày vẫn có hơn 1 triệu mét khối nước sạch được sản xuất từ nguồn nước thô loại B này để phục vụ sinh hoạt cho hàng triệu người dân thành phố.

Chất lượng nước kênh rạch trên địa bàn cũng chẳng khá hơn khi nồng độ nhiễm Coliform tại hầu hết các khu vực được giám sát đều vượt tiêu chuẩn nhiều lần và chưa có dấu hiệu giảm; tình trạng ô nhiễm hữu cơ thông qua kết quả đo đạc vẫn còn đến một nửa số mẫu nước kênh rạch vượt chuẩn cho phép lúc nước lớn và 100% số mẫu vượt chuẩn khi nước cạn.

Cụ thể, nguồn nước kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè đo tại cầu Lê Văn Sỹ, tình trạng ô nhiễm hữu cơ cao xảy ra cả 2 thời điểm nước lớn và nước cạn, nướccó màu rất đen và có mùi hôi thối ,vượt tiêu chuẩn cho phép từ 5,9 - 6,9 lần; khu vực cầu Oâng Buông, Hòa Bình trên kênh Tân Hóa - Lò Gốm tình trạng ô nhiễm vi sinh vượt chuẩn cho phép tới 14,5 lần; cầu Chà Và trên kênh Tàu Hũ - Bến Nghé hàm lượng vi sinh cao gấp 23 lần mức cho phép.Kết quả quan trắc của Chi cục Bảo vệ môi trường (Sở Tài nguyên - môi trường TP.HCM) gần đây cho thấy hàm lượng dầu trên sông Đồng Nai tại trạm Hóa An (khu vực lấy nước cho Nhà máy nước Thủ Đức) dao động từ 0,03 - 0,04mg/l, không đạt tiêu chuẩn nguồn cấp nước (0 mg/l).

Tương tự, hàm lượng dầu tại trạm Nhà Bè (sông Nhà Bè) cũng vượt tiêu chuẩn cho phép 1,4 lần. Ngoài ra, tình trạng ô nhiễm hữu cơ, vi sinh tại hai trạm đầu nguồn là Hóa An và trạm Phú Cường (sông Sài Gòn) cũng rất cao, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước.



b. Ô nhiễm nguồn nước ngầm



Hình 2.10 Nước ngầm bị nhiễm asen Hình 2.11 Nước ngầm bị nhiễm phèn, sắt

Nước ngầm cung cấp cho sinh hoạt chiếm 30% tổng lượng nước cấp. Lượng nước ngầm khai thác tại thành phố hiện nay khoảng 524.456m³/ngày, trong đó cho sản xuất khoảng 300.000m³/ngày, còn lại là nước sinh hoạt (các công ty khai thác nước ngầm, khai thác khoảng 100.000m³/ngày), người dân khai thác khoảng 125.000m³/ngày. Trong những năm gần đây do khai thác quá mức nên mạch nước ngầm tại tp. Hồ Chí Minh đã bị ô nhiễm các chất hữu cơ và gây sụt lún. Ở các vùng ven biển nước giếng khoan đã hóa mặn và tình trạng nhiễm mặn ngày càng gia tăng. Theo chi cục Bảo vệ môi trường cũng cho biết kết quả tại 11 vị trí quan trắc nước ngầm thuộc các khu vực bãi rác Đông Thạnh (huyện Hóc Môn), Tân Tạo, Bình Hưng Hòa (Q.Bình Tân), Đông Hưng Thuận (Q.12), Gò Vấp, Thủ Đức... cho thấy nước ngầm cũng bị nhiễm mặn, nhiễm sắt, nhôm...

Nhiều giếng khoan của dân cư ở khu vực Hóc Môn, quận 12, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ gặp phải tình trạng giếng cạn, nhiễm phèn mặn hoặc nhiều cặn. Người dân sống ở Hóc Môn cho biết, năm nay giếng "xấu" sớm, mọi năm đến giữa mùa nóng giếng mới bị nhiễm mặn.Xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh là một trong những nơi đang cực kỳ khan hiếm nước ngọt. Phần lớn hộ gia đình ở đây dùng giếng khoan, nhưng cứ 10 giếng thì chỉ có 1-2 cái có thể sử dụng được, số còn lại bị nhiễm phèn hoặc mặn. Có những xóm gần 50 hộ gia đình mà chỉ còn duy nhất một giếng khoan có nước ngọt.

2.2.3 Tình hình ngập úng ở thành phố

Theo thống kê của sở giao thông công chánh ( tính đến tháng 1/ 2006 cho thấy toàn thành phố có đến 5 khuc vực ngập, trong đó có đến 105 điểm ngập, gấp 105 lần so với số liệu cũ.Bùng binh Cây Gõ- Tân Hóa Đông- Lò Gốm (thuộc lưu vực Tân Hóa- Lò Gốm, Q.6), Bình Thạnh, Ngã tư Bốn Xã, khu vực kênh Ba Bò (Q. Thủ Đức) được xem là những “vùng rốn lũ” trong đô thị.



- Nguyên nhân gây ngập úng.

+
Hình 2.12 Bùng binh Cây Gõ "Vùng rốn lũ trong đô thị".


Quá trình đô thị hóa : Tân Hóa (Q.Tân Bình) thì khu vực này cũng bị ngập do kênh rạch không thoát nổi lượng nước tràn về từ thượng Khu vực bùng binh Cây Gõ - Tân Hòa Đông - Lò Gốm (Q.6) được coi là điển hình ngập do kênh rạch bị lấn chiếm, bồi lắng, không còn khả năng thoát nước…Tại đây, mực nước dâng trong kênh rạch cao hơn nhiều so với mực thủy triều tại các cửa sông và đó là nguyên nhân gây ngập phổ biến nhất. Nước mưa trong khu vực bị ứ lại gây nên tình trạng ngập sâu từ 0,3 - 0,6m. Sau khi thủy triều xuống và dứt mưa, phải cần từ 6 tiếng đến 18 tiếng mới có thể hết ngập. Điều đáng nói ở đây, tình trạng ngập xảy ra ngay cả khi chỉ có mưa ở thượng lưu kênh lưu. Tuyến kênh Tân Hóa dài khoảng 7,6 km, bắt đầu từ láng Bàu Cát và kết thúc tại vị trí giao với kênh Tàu Hủ. Tuy nhiên, từ khi khu vực Bàu Cát trở thành khu đô thị hóa, diện tích đất thấm tự nhiên bị thu hẹp, cộng thêm tình trạng lấn chiếm kênh rạch ngày một gia tăng khiến tình hình ngập ở khu vực này ngày càng nặng hơn.

+ Do triều cường: Bình Thạnh được xem là khu vực ngập điển hình do triều cường và ngập nặng hơn khi triều cường trùng với mưa. Ở đây, mực nước ngập sâu, nước rút rất chậm do hệ thống thoát nước không đủ (thường là khoảng 3 - 6 giờ). Bình Thạnh tuy không sánh bằng “vùng lũ” bùng binh Cây Gõ nhưng lại ngập trên diện rộng và gần như ngập thường xuyên kể cả trời không mưa.

 
Hình 2.13 Cảnh ngập lụt ở mọi con đường thành phố


Khu vực Ngã tư Bốn Xã (Q.Bình Tân) là một khu đô thị mới nhưng không được đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước đồng bộ. Nên khi triều cường dâng lên hoặc trời mưa, thời gian ngập ở đây kéo dài hơn một ngày, thậm chí vài ba ngày sau vẫn còn ngập. Khu vực kênh Ba Bò (Q.Thủ Đức) lại gánh chịu hậu quả của sự phát triển khu vực lân cận từ Bình Dương, làm tình hình ô nhiễm nơi đây trở nên rất nghiêm trọng.

+ Do quản lý chưa tốt: Làm cho hệ thống sông, kênh rạch bị lấn chiếm tự phát, tình trạng xả rác, chất thải rắn trực tiếp xuống sông kênh rạch. Quy hoạch phát triển đô thị không chú ý đúng mức đến cốt san nền cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đễn tình trạng ngập nghiêm trọng như hiện nay.

- Gải pháp chóng ngập úng

Theo kỹ sư Phan Khánh - chuyên gia cao cấp về thuỷ lợi: "Chống ngập úng cho bất cứ vùng nào, trước hết phải là ngăn nước ngoại lai tràn vào, kết hợp với tiêu thoát từ trong ra. Nếu không thể phối hợp, thì ngăn nước ngoại lai phải làm trước. Giáo sư Nguyễn Ân Niên (Hội Thuỷ lợi TPHCM) cho rằng: "Phải chống triều trước, sau đó chống ngập mưa tiếp theo.Theo quy hoạch tổng thể thoát nước TPHCM đến năm 2020 đã được Tổ chức Jica (Nhật Bản) tài trợ nghiên cứu và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 752/QĐ-TTg, ngày 19.6.2001. Quy hoạch tổng thể này vạch ra lộ trình đầu tư, cải tạo, nâng cấp hệ thống thoát nước TPHCM cho giai đoạn 2001-2020, nhằm xoá bỏ tình trạng ngập úng của TPHCM. Khoảng 60.000 tỉ đồng sẽ được chi ra để thực hiện bằng được mục tiêu này. Theo đó, quy hoạch thoát nước có diện tích 650km2, chia làm 6 tiểu lưu vực. Khoảng 300km kênh rạch sẽ được nạo vét, 2.250km cống chính và 3.750km mương hở sẽ được sửa chữa, xây dựng mới.



2.2.4 Hiện trạng quản lý

Tăng cường quản lý thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải là những nội dung trọng tâm mà các nhà hoạch định chiến lược tài nguyên nước thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tập trung nghiên cứu, đề xuất trong Dự thảo Chiến lược Tài nguyên nước giai đoạn 2006-2020 trình Chính phủ phê duyệt.





Каталог: file -> downloadfile8 -> 219
downloadfile8 -> Đề tài: Kỹ thuật truyền số liệu trong mạng máy tính cục bộ Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện
downloadfile8 -> CHƯƠng I: TỔng quan về audio- video số TỔng quan về audio số
downloadfile8 -> Lời ngỏ của giáo sư Nguyễn Lân Dũng Cùng bạn đọc
downloadfile8 -> NGƯỜi coi thi đ ĐỀ chính thứC
downloadfile8 -> Đề Tài Liên hệ thực tiễn việc áp dụng các học thuyết Phương Đông ở doanh nghiệp Toyota tại Việt Nam hiện nay
downloadfile8 -> Phát triển các hình thức liên doanh với nước ngoài trong sản xuất hàng xuất khẩu ở Nghệ An MỞ ĐẦU
downloadfile8 -> Luận văn TÌnh hình thưƠng mại giữa việt nam và CÁc nưỚc khối nam mỹ
downloadfile8 -> Đề tài Thái độ của người hâm mộ sau khi kết thúc giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam năm 2012
219 -> Xử lý nước thải sinh hoạt từ nhà hàng khách sạn công suất 350 m3 / ngày đêm LỜi mở ĐẦU
219 -> Đề tài Tìm hiểu về lipid trong thực phẩm phần mở ĐẦU

tải về 1.71 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương