Đúng đắn và sai lầm là mô tả thuộc tính của bản thân các mệnh đề.
Giá trị và thiếu giá trị đề cập đến việc lập luận và được xác định độc lập với tính
đúng hoặc sai lầm của các tiền đề hoặc kết luận của tranh luận
Nếu lý luận có giá trị, một cuộc tranh luận có các tiền đề đúng, thì tranh luận đó chắc chắn có cơ sở, lý luận hợp lý. Nếu không, nó chắc chắn không có cơ sở. Vì thế, tất cả các cuộc tranh luận có cơ sở phải có tính hợp lý, nhưng những lý luận có giá trị vẫn có thể là có kết luận hợp lý hoặc là vô lý.
Một kết luận đạt được bằng các lập luận sai hoặc không giá trị có thể ngẫu nhiên
đúng. Điều này không bắt buộc chúng ta phải chấp nhận -- nó vẫn không có tính hợp lý.
Từ khi chúng ta xác định chỉ có một dạng tranh luận là có kết luận chắc chắn đúng, bạn đọc sẽ băn khoăn tại sao chúng ta lại nên quan tâm đến những tranh luận mà tiền đề của chúng sai. Cho dù là tốt hơn hay xấu hơn, thỉnh thoảng chúng ta ở những tình huống mà chúng ta không biết tiền đề của chúng ta đúng hay không. Vì có thể suy diễn có giá trị,
kết quả đạt được từ những tiền đề nếu đúng cho phép chúng ta đánh giá liệu chúng có đúng
hay không. Tuy nhiên, bằng suy diễn hợp lý, chúng ta có thể rút ra kết luận mà chúng ta biết là sai, sau đó chúng ta có thể chắc chắn ít nhất là một trong những tiền đề của chúng ta là sai, bởi vì một kết luận sai không thể được suy diễn hợp lý từ những tiền đề đúng. Một
ví dụ thú vị từ lịch sử khoa học liên quan đến thuyết ánh sáng. Lúc đầu, thuyết này cho
rằng những phần tử ánh sáng phải đi trên đường thẳng xuyên qua không gian trống. Nhưng cuối cùng người ta nhận ra rằng nếu thuyết này là đúng thì các phần tử ánh sáng di chuyển qua một lỗ tròn trong một vùng mà ánh sáng không thể đi qua sẽ tạo ra một vòng ánh sáng trên một nền sau vùng đó. Tuy nhiên trong một thí nghiệm sau đó sử dụng một lỗ rất nhỏ, hình ảnh được tạo ra trên nền không phải là một vòng tròn ánh sáng, mà gồm những vòng sáng và các vòng tối đồng tâm xen kẽ nhau. Thí nghiệm đã chỉ ra rằng ánh sáng không di chuyển theo những đường thẳng mà là theo hình sóng. Thuyết ánh sáng đi thẳng đã bị thay thế bởi thuyết sóng ánh sáng. Do đó, ta biết rằng một điều gì đó được tạo ra từ một điều khác thậm chí là điều này sai thì nó vẫn có thể có ích lợi to lớn. Theo nghĩa này nếu bạn không hài lòng với một kết luận dường như là được suy ra một cách hợp lý từ một tiền đề, có thể là do bạn không hoàn toàn đồng ý với tiền đề mà kết luận được suy diễn đúng đắn từ đó. Do đó, vấn đề phức tạp có thể nằm ở tiền đề.
Nói một cách khác, khi chúng ta không biết tiền đề là đúng hay sai, chúng ta xem xét cách lý luận; lý luận có giá trị hay không? Trong các lý luận có giá trị và nếu tiền đề đúng, thì kết luận là hợp lý.
-
Tiền Đề
|
+
|
Lý Luận
|
=
|
Kết Luận
|
Đúng
|
+
|
Giá Trị
|
=
|
Hợp Lý
|
Sai
|
+
|
Giá Trị
|
=
|
Không hợp lý
|
Ví dụ, hãy xem xét tranh luận sau:
f) Nạo thai là sự huỷ bỏ bào thai, và sự huỷ bỏ một bào thai là lấy đi sự sống của một con người. Do đó, nếu lấy đi sự sống của một con người là là tội ác thì nạo thai cũng vậy.
Cái gì là tiền đề của của tranh luận này? Cái gì là kết luận?
Kết luận có được ra hợp lý từ những tiền đề không? Làm thế nào bạn có thể phản đối tranh luận này? (TQ hiệu đính: bạn có chập nhận rằng bào thai là sự sống chưa, và ai là người định ra cái điều bào thai là sự sống? Nói cách khác, tiền đề “bào thai là sự sống” có đúng hay không?).
Mẫu những tranh luận được suy diễn có cơ sở thường rất ích. Vì vậy nếu chúng ta lập luận hợp lý từ những tiền đề đúng đắn, chúng ta cần thiết phải đạt được một kết luận đúng mà chúng ta có thể kiểm tra tính đúng đắn của nó trực tiếp hoặc không.
8. Những Tranh Luận Suy Diễn và Quy Nạp
Chúng ta đã phân biệt giữa tranh luận và không phải là tranh luận, tách biệt những tiền đề với kết luận, loại bỏ những rườm rà, cung cấp những bộ phận khuyết thiếu, và làm nổi bật những yếu tố phân tích nghi vấn sau đó, điều để lại cho chúng ta hai câu hỏi quan trọng và cần thiết của một tranh luận: những tiền đề có đúng không, kết luận có thật sự bám sát chúng không?
Đối với câu hỏi thứ nhất, chúng ta muốn biết liệu những sự thật được tuyên bố trong tranh luận có thật sự đúng hay không. Hoặc liệu chúng có thể hiện sai hoặc bóp méo không? Liệu chúng có thành kiến không? Liệu có thể chúng gây ấn tượng sai như đã tuyên bố? Sau tất cả, những tiền đề có phải là nền tảng của tranh luận, nếu nó không đáng tin cậy hoặc yếu, tranh luận mà được xây dựng trên chúng có thể không tốt. Tuy nhiên, có cách khác để một tranh luận có thể đi đến chỗ sai: khi mối quan hệ giữa tiền đề và kết luận trong tình trạng mà những tiền đề thất bại trong việc hỗ trợ kết luận của câu hỏi.
Một tiền đề có thể hỗ trợ kết luận đầy đủ (fully), hoặc bán phần (partially), hoặc chẳng có gì như được chỉ ra dưới đây:
Dạng đầy đủ: Tất cả đàn ông đều sẽ chết. Socrates là đàn ông. Socrates sẽ chết.
Dạng bán phần: Hầu hết những người Scandinavi đều có tóc vàng. Em họ tôi
Christine là dân Scandinavi. Cô ấy cũng tóc vàng.
Hoặc dạng không có gì: “Hãy chắc chắn đánh răng với kem Colgate. Walt Frazier sẽ không nghĩ tới việc đánh răng với loại nào khác.”
Chúng ta hãy xem xét những tranh luận hấp dẫn thuộc dạng ba trong phần hai. Ở đây, chúng ta xem xét hai dạng đầu tiên: dạng thứ nhất được gọi là suy diễn, dạng thứ hai là quy nạp. Tranh luận mang tính suy diễn là tranh luận mà trong đó kết luận được tạo ra nhất thiết phải là kết quả tất yếu của các tiền đề. Mặt khác, những tranh luận mang tính quy nạp là những ý tưởng mà trong đó kết luận được tạo ra có thể chỉ là một kết quả tất yếu của những tiền đề.
Hai ví dụ sẽ giúp minh hoạ sự khác biệt giữa gợi ý nhất thiết và có thể:
a. Suy diễn.
Tất cả những hạt đậu trong cái túi kia là đen. Tất cả những hạt này là từ cái túi đó.
Do đó, tất cả các hạt đậu này đều đen. b. Quy nạp.
Tất cả các hạt đậu này đều từ cái túi đó. Tất cả các hạt đậu này đều đen.
Do đó, tất cả các hạt đậu trong túi đó đen.
Trong hai tranh luận này, chỉ có trường hợp thứ nhất (tranh luận a) có kết luận chắc chắn là kết quả tất yếu của những tiền đề -- tất cả những hạt đậu trong cái túi đó là đen, tôi không thể tìm ra màu khác. Kết luận của tranh luận (b) chỉ là kết quả ở một mức độ có thể của những tiền đề -- có thể có vài hạt đậu trong túi đó không phải là đen, nhưng tôi không định lấy chúng.
Một sự khác biệt giữa những tranh luận có tính suy diễn và quy nạp, mà nó sẽ được quan sát, là những tiền đề của tranh luận suy diễn chứa tất cả các thông tin cần thiết để đạt được kết luận nhất thiết và kết quả tất yếu. Kết luận không đề cập đến cái gì ngoài những tiền đề. Mặt khác, trong kết luận của tranh luận quy nạp, chúng ta phải liều lĩnh dựa vào thông tin được chứa đựng trong những tiền đề. Vì thế, kết luận của chúng ta có thể không bao giờ là chắc chắn, mặc dù khả năng nó đúng là cao.
Đó là bởi vì những tranh luận mang tính suy diễn chắc chắn thành công hoặc thất bại để chứng minh kết luận của chúng để chúng ta có thể nói rằng chúng là hợp lý hay không hợp lý; mặt khác, những tranh luận quy nạp được nhận xét là tốt hay xấu, mạnh hay yếu.
Một ví dụ cổ điển của tranh luận quy nạp làm nổi bật vấn đề về tính chắc chắn.
c) Mặt trời mọc lên hằng ngày kể từ khi thời gian được ghi nhớ. Vì thế, mặt trời sẽ
mọc vào sáng mai.
Chúng ta cảm nhận chắc chắn rằng ngày mai mặt trời sẽ mọc, nhưng phát biểu một cách lo-gic thì mối quan hệ giữa kết luận (ngày mai) với những tiền đề (hôm qua) của nó chỉ là có thể chứ không chắc chắn. (Như nhà lo-gic học nổi tiếng Bertrand Russell đã một lần nêu ra trong tác phẩm “Những Vấn Đề Của Triết Học”, “người đàn ông mà cho gà ăn hàng ngày cả đời anh ta thì cuối cùng cũng vặn cổ nó mà thôi”). Trong những tranh luận quy nạp, chúng ta khẳng định rằng trong kết luận, sự thật bản thân nó không được nêu ra trong những tiền đề. Ví dụ, trong tranh luận (c) ở trên, những tiền đề chỉ chắc chắn cho quá khứ, chúng không chắc chắn cho cái gì sẽ sảy ra trong tương lai. Do đó, những tiền đề không bác bỏ khả năng kết luận là sai, từ lúc chúng tạo ra kết luận mà tính đúng đắn của
kết luận có thể dựa trên cơ sở của những tiền đề hoặc không. Bản chất của tranh luận quy nạp là đưa chúng ta ra ngoài những gì đã được khẳng định trong những tiền đề vì thế chúng ta chỉ thấy được những gì mà tiền đề ám chỉ cho những sự kiện khác. Lập luận suy diễn thì đối lập như thế một cách chắn chắn. Ở đây, chúng ta không cố gắng đi ra ngoài những tiền đề nhưng hiểu sâu sắc cụ thể hơn những gì chúng nêu ra. Trong ví dụ sau, mọi điều được đề cập trong kết luận chỉ được tạo ra một cách chắn chắn từ những thông tin được chuyển tải trong những tiền đề.
d) Nếu có 50,001 người sống trong một thị trấn và nếu không một ai có nhiều hơn
50,000 sợi tóc trên đầu và không có ai trọc lóc. Thì có ít nhất hai người trong thị
trấn có cùng số tóc trên đầu.
Ví dụ này minh hoạ cho tính chất chính xác của những suy diễn có thể. Trong khi những tranh luận quy nạp mở rộng nội dung của những tiền đề bằng cách hy sinh tính nhất thiết, thì những tranh luận suy diễn đạt được tính nhất thiết bằng cách hy sinh việc mở rộng nội dung. Hầu hết những tranh luận mà ta bắt gặp hằng ngày là loại quy nạp, và đó là
những gì chúng ta sẽ đương đầu nhiều nhất trong quyển sách này.
• Một tranh luận suy diễn cố gắng chỉ ra rằng kết luận phải là kết quả tất yếu của những tiền đề; một tranh luận quy nạp có thể chỉ là kết quả của những tiền đề.
• Do đó, những tiền đề của một tranh luận suy diễn phải đưa ra tất cả những dữ liệu hoặc thông tin cần thiết để tạo ra kết luận trong câu hỏi. Những tiền đề của một tranh luận quy nạp chỉ cần chứa đủ thông tin để tạo ta kết luận tương đối -- kết luận này đi ra ngoài những gì được đưa ra một cách chắc chắn trong những tiền đề.
• Vì thế, những tranh luận quy nạp có thể chứa đựng một lượng thông tin lớn, nhưng chúng lại từ bỏ việc chứng minh những kết luận là chắc chắn đúng.
• Những tranh luận suy diễn thường hợp lý hoặc không hợp lý; những tranh luận quy nạp lại thường mạnh hay yếu.
9. Lý Luận và Giáo Dục
Như chúng ta đã nói, nghiên cứu lo-gic giúp chúng ta giải thoát khỏi những suy nghĩ và hành động ngớ ngẩn. Một trong những điều quan trọng khác mà chúng dạy ta là chứng minh một thứ gì đó một cách chắc chắn. Như chúng ta đã thấy, nghiên cứu lo-gic -- đặc biệt là nghiên cứu tính hợp lý -- dạy chúng ta rất nhiều thứ. Vì thế, ví dụ, chúng ta có thể biết chắc chắn rằng tất cả ngôi nhà trên phố đường số 10 lúc nhúc chuột cống chỉ nếu khi chúng ta đã kiểm tra tất cả và phát hiện ra chuột trong mọi ngôi nhà. Chỉ bằng những điều kiện này, chúng ta mới có thể biết điều này chắc chắn đúng. Đây là một suy nghĩ nghiêm túc, từ lúc tất cả xu hướng của chúng ta là tin tưởng điều ngược lại mà chúng ta có thể tạo ra những kết luận chắc chắn trên cơ sở những bằng chứng có vẻ là “vừa đủ” hoặc những bằng chứng đại diện. Hãy nói rằng một hoặc nhiều hơn những điều dưới đây là đúng: chúng ta đã đến phố số 10 mọi ngày thứ hai trong hai tháng và luôn luôn hoặc thường xuyên nhìn thấy chuột cống trên vỉa hè ở đó; chúng ta đã vào tám trong số mười nhà ở phố số 10 và nhìn thấy chuột cống trong tất cả tám ngôi nhà đó; ai đó mà chúng ta tuyệt đối tin tưởng, đảm bảo với chúng ta rằng tất cả những ngôi nhà đó lúc nhúc chuột;
chúng ta vừa đọc một bản kiểm tra của chính phủ tuyên bố là phố số 10 bị tàn phá bởi một lượng cực lớn chuột cống; và bản tin lúc mười một giờ vừa truyền đi sự phơi bày của vấn đề và trình chiếu những đoạn phim chuột cống nhung nhúc có biển báo của phố số 10. Mỗi
một điều hỗ trợ này chứng tỏ rằng có thể mọi ngồi nhà trên phố đều có chuột, nhưng không một điều hỗ trợ nào lại loại bỏ được khả năng một số ngôi nhà không có chuột. Vì vậy, chúng ta sẽ có xu hướng kết luận là chúng ta biết rằng mọi ngôi nhà ở phố số 10 đều lúc nhúc chuột. Để giữ những xu hướng có tính cách kiểm tra là một trong những lợi ích của nghiên cứu lo-gic. Như chúng ta có thể nói, đây cũng là một trong những lợi ích lớn của giáo dục lo-gic.
Vì vậy có thể xác định khi nào thì thích hợp và công bằng để nói một điều gì đó như là chúng ta biết (1+1=2), và khi nào thì thích hợp để nói một điều gì đó như là chúng ta suy nghĩ (đồ ăn chứa nhiều chất béo thường ngày sẽ gây ra ung thư), và cuối cùng, khi nào chỉ thích hợp để nói rằng điều chúng ta tin (Thượng Đế tồn tại -- God exists) -- đấy
chính là điểm nổi bật của một người có giáo dục. (TQ hiệu đính: sự thật, ý kiến và niềm tin là ba chuyện khác nhau. Người có học và có giáo dục là người biết phân biệt ba trường hợp
trên, và áp dụng mỗi trường hợp tùy lúc).
10. Tóm Tắt
Chương này đã khám phá một loại của những quy tắc lo-gic và một vài bộ phận cấu thành của nó là gì. Như chúng ta đã thấy, mặc dù nó là những quy tắc mang tính lý thuyết, lo-gic cũng là một lĩnh vực thực hành của nghiên cứu, nó đưa ra những lợi ích to lớn trong việc cư xử hàng ngày.
Chúng ta đã chú ý rằng lo-gic là nghiên cứu về tranh luận và mọi tranh luận chứa hai thành phần cơ bản: những tiền đề và kết luận. Chúng ta cũng đã thấy đây là điểm phân biệt tranh luận và phi tranh luận. Tuy nhiên, không phải tất cả những tranh luận đều thể hiện kết cấu này một cách đơn giản. Như diễn đạt phổ biến, những tranh luận bị vướng víu bởi rất nhiều sự rườm rà và không ăn nhập và thường dựa trên những phần bị ẩn đi hoặc có
các giả thiết không được diễn đạt. Chúng ta đã học rằng làm thế nào để nhận ra và loại bỏ những phần rườm rà như vậy, làm thế nào phơi bày những bộ phận nghi ngờ và làm sao để nhận biết những giả thiết bị ẩn đi và không được đề cập.
Triển khai những nghiên cứu về tranh luận chúng ta đã nhìn rõ hơn một tranh luận có ba đặc tính cơ bản để đánh giá nó như thế nào. Điều đầu tiên trong chúng là tính đúng đắn hoặc sai lầm của những tiền đề. Thứ hai là tính giá trị hoặc vô giá trị việc lập luận từ những tiền đề. Và đặc tính thứ ba là tính hợp lý, điều mà tồn tại khi những tiền đề là đúng và việc lập luận là có giá trị, hoặc không có cơ sở khi thiếu tính đúng đắn hoặc lập luận có giá trị
Sau đó, chúng ta đã thấy làm thế nào trong những tranh luận suy diễn hợp lý, những tiền đề chứa đựng tất cả các thông tin cần thiết cho kết luận; còn trong những tranh luận quy nạp, kết luận đi ra ngoài những dữ liệu được chứa đựng trong những tiền đề. Vì thế, thậm chí trong những tranh luận quy nạp tốt nhất, kết luận chỉ mang tính tương đối; trong khi kết luận trong một tranh luận suy diễn hợp lý, nhất thiết phải là kết quả tất yếu.
Một trong những bài học quan trọng chúng ta đã học ở đây là một điều (kết luận)
có thể thực sự là kết quả tất yếu của một điều khác (một tiền đề) mà kết luận đó không nhất thiết phải đúng. Kết luận có đúng hay không, phụ thuộc vào bản thân tiền đề có đúng không. Nói ngắn gọn, một kết luận có thể là kết quả tất yếu của một tiền đề nhưng vẫn sai. Cuối cùng, chúng ta đã chú ý rằng một vài lợi ích đến với chúng ta từ việc nghiên cứu lo- gic và được giáo dục thật sự có nghĩa là gì.
Chương 2
Phương Tiện Truyền Đạt của Ngôn Ngữ
Một yếu tố quan trọng trong bất kỳ một lý luận nào đã được đề cập ngắn gọn trong Chương 1. Yếu tố đó là ngôn ngữ hiện hữu mà giả thuyết và kết luận được nêu rõ. Bởi vì những từ ngữ được sử dụng trong lý lẽ mang tính cốt yếu, nó sẽ có lợi cho việc nghiên cứu những nét đặc trưng nào đó của ngôn ngữ mà có thể giúp đỡ hoặc gây trở ngại cho những ý nghĩ rõ ràng. Chúng ta sẽ khảo sát mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, và sẽ minh họa một vài sự nhầm lẫn mà kết quả từ việc sử dụng ngôn ngữ không chính xác. Chúng ta cũng sẽ thấy rằng tất cả ngôn ngữ là tượng trưng và cách sử dụng ngôn ngữ mấu chốt giữa nhiều cuộc tranh luận.
Khi chúng ta đối diện với một lý luận, chúng ta cần biết nó có rõ ràng hay không. Chúng ta phải đồng ý với ý nghĩa của tất cả các từ ngữ và cách diễn đạt của nó, từng cái một trong sự phối hợp. Nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa của những lời trình bày trong lý luận đó, chúng ta có thể tiếp nhận những kết quả sai lệch, hoặc thậm chí vẫn không bị thuyết phục bởi những gì đó được coi như một trường hợp hoàn toàn đúng đắn và hợp lý.
Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp bằng lời nói, vì thế việc nghiên cứu lý luận (study of lo-gic) có liên quan tới chính nó với những cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ. Trong chương này chúng ta sẽ nghiên cứu các phương tiện truyền đạt của ngôn ngữ và tìm hiểu tại sao một số lý luận thành công trong việc chuyển tải ý nghĩa đến chúng ta trong khi một số khác lại không.
1. Ngôn Ngữ và Tư Duy
Francis Bacon, một triết gia đã hết sức thẳng thắn đưa ra sự rõ ràng trong quan sát và tư duy, một lần đã nhận xét người ta "tưởng tượng rằng những ý nghĩ của họ có sự điều khiển của ngôn ngữ, nhưng hay xãy ra trường hợp ngôn ngữ sinh ra những quy tắc lên trên ý nghĩ của họ." Nhận xét của Bacon hữu dụng trong việc nhắc nhở chúng ta rằng ngôn ngữ không chỉ có thể cản trở sự truyền đạt tư duy của chúng ta và ngay cả chính bản thân nó. Do cách thức tự nhiên, từng bước một mà chúng ta thu được ngôn ngữ, rất ít khi chúng ta ngừng quan sát rằng nó là một công cụ và cũng giống như tất cả các công cụ khác, giá trị của nó phụ thuộc vào kỹ năng của người sử dụng.
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là một câu hỏi lâu đời. Trong quá khứ, có hai quan điểm bao quát: một là nắm được vấn đề ngôn ngữ chỉ đơn thuần là phương tiện
truyền bá hoặc chỉ là vỏ bọc bên ngoài của tư duy; hai là xác nhận dòng ngôn ngữ và tư
duy là một, tư duy chỉ là lời nói không có âm thanh.
Gần đây hơn, nghiên cứu hướng về xác nhận quan điểm ngôn ngữ và tư duy được liên kết chặt chẽ, ngôn ngữ không chỉ là âm thanh mà là sự kết hợp giữa âm thanh và tri giác mà các yếu tố đều phụ thuộc vào nhau. Những học thuyết hiện đại nắm được rằng những từ ngữ không có tư duy không thể phân biệt với những âm thanh khác được biết đến trong tự nhiên. Những học thuyết xác nhận như thế, tuy nhiên, mặc dù chúng ta có thể có "những suy nghĩ mơ hồ" hay những ý tưởng chúng ta không thể ghép thành lời, chúng ta không thể có suy nghĩ "rõ ràng" nếu như không thể diễn tả nó bằng ngôn ngữ.
Người đem lại cho chúng ta kiến thức về trạng thái ngôn ngữ này là nhà ngôn ngữ
học người Mỹ Benjamin Lee Whorf, có ghi chép:
“Khi những nhà ngôn ngữ học có thể nghiên cứu, một cách cẩn trọng và khoa học, một số lượng lớn các ngôn ngữ của các dạng khác xa nhau, nền tảng của sự liên quan giữa chúng được mở rộng; họ đã trãi qua một sự gián đoạn của một hiện tượng nắm giữ được cái tổng quát cho đến nay, và một ý nghĩa mới trọn vẹn nảy sinh trong phạm vi hiểu biết của họ. Người ta phát hiện ra rằng nền tảng hệ thống ngôn ngữ học (trong từ ngữ, văn phạm khác) của mỗi ngôn ngữ không chỉ là một công cụ sao chép để diễn đạt những ý kiến, nhưng đúng hơn là một bộ máy tạo ra ý nghĩ… Chúng ta phân tích trạng thái tự nhiên, tổ chức thành những khái niệm, ghép lại những ý nghĩa như chúng ta làm, bởi vì
chúng ta tham gia vào một cuộc tranh luận để tổ chức nó theo cách thức này -- một sự thỏa thuận nắm được toàn bộ lời nói của mình và được hệ thống hóa trong những khuôn mẫu
của ngôn ngữ.” (Ngôn Ngữ, Tư Duy và Thực Tế, biên tập John B. Caroll. M.I.T, Cambridge Ấn bản. 1964, trang 212-214).
Theo quan điểm này, trên thực tế tư duy được tạo thành bởi ngôn ngữ mà nó được sắp xếp. Có nhiều ví dụ hổ trợ cho giả thuyết này. Người Zulu có những từ ngữ như "con bò trắng (white cow)" và "con bò đỏ (red cow)" nhưng lại không có từ "con bò (cow)". Thiếu từ ngữ, thiếu đi cả ý nghĩa.
Tương tự, những thổ dân ở miền trung Brazil không có những từ có nghĩa như "cây cọ" (palm)" hay "con vẹt" (parrot), mặc dù họ có một con số lớn các tên gọi cụ thể khác thay thế cho "cây cọ" và "con vẹt". Vì vậy, họ cũng không thể đáp ứng những mức độ cao hơn của sự trừu tượng hóa này. Từ những điểm ngôn ngữ khác nhau như thế, chúng ta thiết lập những giả định về những phương thức khác nhau của tư duy. Tuy nhiên, điều đó là
quan trọng để cố gắng tránh việc xem trọng những khả năng phán đoán trong tất cả những sự so sánh như thế. Đôi khi chúng ta thừa nhận rằng ngôn ngữ của những người nguyên thủy thì thô sơ giống như chúng ta cho rằng cuộc sống của họ cũng vậy. Nhưng giả thuyết này cũng không đúng. Tất cả các ngôn ngữ, thậm chí hầu hết cả những bộ lạc ban sơ đó, hoàn toàn cổ xưa, tất cả đều phức tạp. Một số ngôn ngữ của họ là một hình thức rất cao của sự tinh tế và tạo ra giá trị của ngôn ngữ học, để kết hợp chặt chẽ, để phát triển ngôn ngữ
của chính mình. Những cấu trúc câu chắc chắn của người Zulu hay miền trung Brazil cho
phép họ tránh được những kẻ hở mà một ngôn ngữ bao hàm những sự trừu tượng nhiều hơn có thể phát sinh đối với người sử dụng.
Quan điểm khác thiết thực hơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là của nhà báo và tiểu thuyết gia người Anh George Orwell. Trong bài tiểu luận nổi tiếng "Chính Trị Và Ngôn Ngữ Tiếng Anh" ("Politics and the English Language"), Orwell biện luận rằng sự hiện hữu rõ ràng của những tư duy về những thực tế chính trị của thời đại chúng ta thì rất khó khăn bởi vì ngôn ngữ của chúng ta bị sửa đổi sai lạc bởi lối nói hoa mỹ của những chính khách, để che đậy những chính sách tàn bạo và không thể biện hộ của họ, phải sử dụng đến lối nói trại và thuật ngữ một cách cân đối.
“Bây giờ rõ ràng rằng biến cách của một ngôn ngữ cơ bản nhất phải có những nguyên nhân thuộc về chính trị và kinh tế: điều đó không liên quan tới ảnh hưởng xấu của bản thân tác giả. Nhưng một ảnh hưởng có thể trở thành một nguyên nhân, củng cố cho nguyên nhân chính và nảy sinh ảnh hưởng giống như thế ở một hình thái nổi bật, và tương tự thế một cách không hạn định. Một người có thể uống rượu bởi vì họ cảm thấy mình thất bại, và sau đó thất bại càng nhiều bởi vì họ uống rượu. Điều đó khá giống những gì đang diễn ra trong ngôn ngữ tiếng Anh. Nó trở nên xấu đi và sai lệch bởi chúng ta suy nghĩ thiển cận, nhưng tính luộm thuộm trong ngôn ngữ làm cho chúng ta dễ có nhưng suy nghĩ như thế.” (Trích Những Bài Tiểu Luận Chọn Lọc. New York, 1953)
Nhưng Orwell tiếp tục biện luận, chúng ta không nên cam chịu tình thế của mình.
“Điểm đặc biệt là quá trình mang tính thuận nghịch. Tiếng Anh hiện đại, đặc biệt là viết tiếng Anh, đầy những thói quen xấu mà được lan truyền bởi tính mô phỏng và có thể tránh được nếu như họ có vấn đề cần thiết. Nếu họ thoát khỏi những thói quen này, họ có thể suy nghĩ rõ ràng hơn, và việc suy nghĩ rõ ràng là một bước quan trọng trước tiên đối với cải cách chính trị: để đánh bật lại tiếng Anh có hại không phải là phù phiếm và cũng không phải là mối quan tâm riêng biệt của
những tác giả chuyên nghiệp.” (xem trên)
Nhận xét của Orwell giúp chúng ta thấy rằng sự tự giác về ngôn ngữ chúng ta nói
và cách ta nói không chỉ là một mối quan tâm đáng kể của những nhà nghiên cứu làm ra vẻ
mô phạm và các giáo viên đào tạo kiểu cách. Như vậy, hay ít hơn nữa cũng là mối quan tâm sống còn của mọi người.
• Ngôn ngữ chỉ đạt hiệu quả khi người sử dụng nó một cách khéo léo.
• Tư duy của chúng ta có thể được tượng hình rõ bằng ngôn ngữ khi chúng được sắp xếp. Không có từ ngữ, vì thế ý tưởng cũng không được tạo thành.
• Chúng ta có thể mở rộng điểm này để tranh luận nếu chúng ta sử dụng ngôn ngữ tệ và không khéo léo thì ý tưởng của chúng ta không độc đáo và tinh tế. Do đó, một số lý luận để có ý tưởng hay, chúng ta phải lưu ý đến sử dụng ngôn ngữ tốt.
2. Dấu Hiệu và Biểu Tượng
Trong những nét đặc trưng góp phần vào thế mạnh của ngôn ngữ như một công cụ để truyền đạt thông tin là đặc tính tượng trưng, sử dụng những từ ngữ để thay thế cho một điều gì đó vượt xa hơn so với ý nghĩa thực của chúng. Để đánh giá đúng đặc tính này của ngôn ngữ, chúng ta cần nghiên cứu dấu hiệu và biểu tượng, và phân biệt chúng.
Một dấu hiệu là bất cứ những gì chúng ta sử dụng để ám chỉ -- hay nhắc đến như một dấu hiệu -- một điều gì đó. Ví dụ về "những dấu hiệu trong cuộc sống", hay chúng ta nói khói là một dấu hiệu của sự cháy . Trong những trường hợp như thế, những dấu hiệu đáng lưu ý là những dấu hiệu tự nhiên. Với một dấu hiệu tự nhiên chúng ta muốn nói rằng sự liên kết giữa dấu hiệu và điều nó hàm ý thực sự tồn tại trong tự nhiên. Vì thế sự liên kết là tự nhiên bởi nó không phải thuộc về khả năng của chúng ta. Chúng ta phát hiện ra những dấu hiệu như thế, chúng ta không tự tạo ra chúng. Chúng là những thành phần hay những tín hiệu của những sự việc mà chúng biểu hiện, như khói là một dấu hiệu của sự cháy, không phải vì nó miêu tả về lửa mà vì nó là một phần của quá trình cháy.
Ngược lại, một biểu tượng được tạo thành để thay thế một điều gì đó. Vì thế, những biểu tượng quy ước, không tự nhiên như, chúng là sản phẩm có nhận thức của tư duy con người và không có liên kết tự nhiên với những gì chúng miêu tả. Do đó, nếu trạm khí
tượng kéo lên một lá cờ chỉ có một màu đỏ cảnh báo với công chúng về một trận bão sắp
tới, biểu tượng này chỉ có hiệu quả nếu những người quan sát hiểu được ý nghĩa của nó. Bởi vì tất cả các biểu tượng được nhân tạo, không thuộc tự nhiên, đó là chúng ta, những đối tượng mà bất cứ các dòng ý nghĩa nào truyền tải. Điều này đúng với những biểu tượng phi ngôn ngữ như dấu thập, cờ, và đèn đỏ. Nó cũng đúng với những biểu tượng ngôn ngữ biểu lộ như từ tượng thanh, nó bao hàm những âm thanh gợi lên ý nghĩa của chúng, như những âm thanh tiếng vo voz, tiếng huýt gió, tiếng sóng vỗ, và tiếng gừ gừ. Nói một cách cơ bản nó đúng với tất cả những từ ngữ trong ngôn ngữ của chúng ta. Ví dụ, từ "tháng" không có nghĩa gì cả trừ khi chúng ta đã học qua rằng nó tượng trưng cho một quãng thời gian.
Nếu không có môt hệ thống biểu tượng bất kỳ, mô phỏng, truyền đạt thông tin có thể trở nên giới hạn. Hầu hết các hiện tượng không có những âm thanh và âm thanh tiêu biểu mà giọng con người có thể mô phỏng một cách dễ dàng. Điều này giải thích tại sao số từ tượng thanh trong bất cứ ngôn ngữ nào đều rất ít. Một nguyên nhân khác giải thích tại sao một ngôn ngữ tạo nên một tổng thể đơn độc của những từ tượng thanh sẽ không lôi cuốn chúng ta nhiều như thể có một phần chính yếu rộng lớn của những ý tưởng đó không thể được miêu tả theo cách này bởi vì chúng không phát ra âm thanh.
Điều này đúng với hầu hết những từ ngữ trong ngôn ngữ của chúng ta thay thế cho sự trừu tượng, như từ "tháng". Ngôn ngữ nối tiếp trong việc phân loại những khái niệm
trừu tượng như thế bằng cách sử dụng những biểu tượng bất kỳ, không tượng trưng. Vì thế, ngôn ngữ được dùng làm biểu tượng về mặt cơ bản.
3. Từ ngữ và Vật Chất
Sự tương phản giữa dấu hiệu và biểu tượng làm cho nó rõ ràng như thế, từ tất cả những chức năng của từ ngữ như các biểu tượng, không có sự liên kết tự nhiên nào được thiết lập giữa chúng và những vật chất chúng biểu hiện. Bây giờ người ta tin rằng có một dạng thích hợp được kế thừa giữa từ ngữ và sự việc chúng miêu tả được phổ biến một cách kỳ lạ. Một trong những cuộc đối thoại của Plato, Cratylus, tìm hiểu cặn kẻ câu hỏi này.
Một phát ngôn viên nhận xét, "tôi nghĩ những bản miêu tả có thật của những vấn đề này là ở đây, theo triết thuyết của Socrates, rằng có một sức mạnh nào đó lớn hơn con người đã đặt tên cho các sự vật, chúng chắc hẳn phải đúng" (Cratylus 438).
Sự tín ngưỡng giống như thế trong nguồn gốc miễn cưỡng của người cổ xưa khi nói cho người lạ nghe tên tuổi của mình vì sợ rằng sự hiểu biết sẽ cho người khác sức mạnh
của họ. Khuynh hướng nhận ra các từ ngữ với vật chất là hiển nhiên trong nhiều bài luyện tập ma thuật của những bộ lạc nguyên thuỷ và sự tín ngưỡng của một số tôn giáo. Con người đã sớm sử dụng những thể thức ma thuật trong hầu hết các khía cạnh của cuộc sống: để bảo đảm thành công trong việc săn bắt, làm mưa, ngăn chặn sự thiệt hại, loại trừ những câu thần chú xấu xa và nguyền rủa kẻ thù của họ.
Trong các nghi thức tôn giáo người ta tin tưởng sự lập lại những từ ngữ nào đó có thể điều trị những chứng bệnh trong linh hồn và thể xác con người, tránh cái xấu xa, và đảm bảo sự cứu rỗi linh hồn. Chúng ta cũng tìm thấy ở một vài tôn giáo tín ngưỡng rằng những lời nói chắc chắn đó rất linh nghiệm và thiêng liêng mà chúng sẽ không bao giờ bị phá vỡ. Trong số tên gọi của Thượng Đế những người Do Thái cổ xưa ( ngày nay là những người Do Thái chính thống), Yahweh hay Jehovah, đã "không thể đặt tên" (unnamable) và cách phát âm cũng bị cấm trong cả cách nói và kinh cầu nguyện. Thượng Đế được nhắc
đến một cách diễn tả quanh co là Adonai, có nghĩa "Chúa tể". Trong thần thoại Hy Lạp có
từ Hades (Âm ty), vì vua của thế giới bên dưới, được gọi là Diêm Vương ("người ban tặng sự phồn vinh") trong đối thoại thông thường để ngăn chặn cách phát âm đáng sợ là Hades (Âm ty). Lời răng dạy rằng con người không nên "gọi tên của Chúa vô cớ" hình như nguồn gốc của luật pháp Hoa Kỳ chống lại những lời báng bổ, vẫn còn là một tệ nạn ở nhiều nơi.
Nguyên nhân hình thành những tên gọi phát sinh trong kinh Cựu Ước:
“Ở trên mặt đất vị Chúa tể đã tạo ra súc vật trên cánh đồng và chim chóc trên bầu trời. Và đem chúng đến cho Adam thấy, bất cứ những gì Adam gọi mỗi sinh vật sống, đó là tên của chúng. Adam đã đặt tên cho tất cả gia súc, chim chóc và cho mọi súc vật trên cánh đồng.” (Genesis 2: 19-20)
Mark Twain đã viết thêm tiếp theo cho câu chuyện kinh thánh này, mà ông ta đã dựa vào sự tín ngưỡng rằng một tên gọi có một mối quan hệ cố hữu với vật được gọi tên. Theo Twain, khi Adam không thể nghĩ ra tên gọi cho một trong những con vật, anh ta đã khẩn khoản yêu cầu Eve giúp đỡ "Anh sẽ đặt tên gì cho con vật này nhỉ?", Eve trả lời: "Cứ gọi nó là con ngựa." "Tại sao lại gọi là con ngựa?" Eve nói: "À, nó trong giống như một con ngựa, phải không?"
Sai sót của việc nhận ra những tên gọi với những vật là nguyên do của nhiều sự hài hước. Vô số những đứa bé con mở to mắt hỏi cha mẹ của chúng "Khi con sinh ra, làm sao cha mẹ biết con là Charlie và không phải là một đứa con trai khác?"
Người ta cố gắng hiệu chỉnh xu hướng cho rằng theo tự nhiên những tên gọi đó "thuộc về" những vật chúng miêu tả, người theo chủ nghĩa duy lý người Anh, Thomas Hobbes cảnh báo, trong một câu cách ngôn nổi tiếng hiện nay, "Từ ngữ là công cụ tính toán của người khôn ngoan, họ sử dụng nhưng không nhận thức; nhưng chúng (từ ngữ) cũng là những đồng tiền ngu xuẩn".1 Abraham Lincoln cố gắng tạo ra những điểm giống
nhau khi ông hỏi một khán giả, "Nếu tôi gọi cái đuôi con ngựa là một cái chân, thì con ngựa sẽ có bao nhiêu chân tất cả?" Họ trả lời "5". Lincoln nói "Không, việc gọi cái đuôi con ngựa là cái chân không làm cho chúng thành một cái chân."
Chúng ta sẽ mỉm cười với những câu chuyện như thế, nhưng sau một thời gian những tên gọi chúng ta sử dụng để nhận dạng vật thể được liên kết trong tâm trí chúng ta với những vật thể của chúng mà thỉnh thoảng chúng ta lại dễ quên trong giây lát, ví dụ, một con heo không được đặt tên vì nó là con vật dơ bẩn. Hay chúng ta nói, "Nói đến ma quỷ thì hắn sẽ xuất hiện". Trong những trường hợp như thế, giả định sai (thứ nhất, TQ hiệu đính) rằng dấu hiệu tương đồng với vật cất, dắt ta đến một giả định sai thứ hai - bằng cách này hay cách khác ngôn ngữ chúng ta sử dụng ảnh hưởng đến sự vật, sự việc chúng ta đề cập đến.
Nhà ngôn ngữ và ý nghĩa học (semanticist) lỗi lạc S. I. Hayakawa, một đoạn trong quyển sách "Ngôn Ngữ Trong Tư Duy và Hành Động" của ông đã cho đầu đề thích đáng "Thế Giới Không Phải Là Vật Chất", có trích dẫn một vài ví dụ đầy kịch tính của sự nhầm lẫn phổ biến này:
“Người ta nhớ đến một diễn viên, đóng vai kẻ hung ác trong một đoàn kịch sân khấu lưu động, đến giây phút thật căng thẳng trong vở kịch, đã bị bắn bởi một cao bồi trong khán giả. Nhưng sự hỗn loạn như thế này dường như không giam giữ những người đi xem hát chất phát. Trong thời gian gần đây, Paul Muni, sau khi đóng một phần vai của Clarence Darrow trong Người Kế Thừa Hơi Thở, được mời đến đọc diễn văn tại Luật Sư Đoàn Hoa Kỳ; Ralph Bellamy, sau khi thủ vai
Franklin D. Roosevelt trong Bình Minh ở Campobello, được một số trường đại học mời đến nói chuyện về Roosevelt.” (Phiên bản thứ 4, New York: Harcourt Brace Jovanovich 1978, trang 25-26)
Chúng ta thiên về những lỗi nêu ra như đã minh hoạ một cách quá đáng đến Nổi Hội Đồng Thương Mại Liên Bang (Federal Trade Commission) phải gia tăng kiểm soát cách các nhà sản xuất quảng cáo sản phẩm của họ. Những điều lệ ngăn cấm như dán nhản hiệu "hàng nhập" trong khi thưc ra các chăn mền đó là hàng nội địa (khi chăn mền được dán nhãn với cái tên nước ngoài như "Khandah" hay "Calcutta", để gây ấn tượng như thể chúng là chăn mền phương Đông trong khi thực ra là hàng nội địa). Thuốc aspirin đưa ra một ví dụ khác cho thấy sức mạnh của những nhãn hiệu. Ở một số tiểu bang, aspirin được phân loại một cách chính thức như "ma tuý" và vì thế chỉ có thể bán khi có giấy bác sĩ. Ở
1 Words are wise men's counters, they do but reckon by them; but they are the money of fools. (Leviathan, phần I, chương 4)
những tiểu bang khác thì không được phân loại như một ma tuý và số lương được sử dụng hàng ngày càng rộng rãi. Tuy nhiên, những cư dân ở một số tiểu bang mà aspirin được coi là một loại ma tuý có thể quyết định một ngày nào đó phân loại nó lại (đổi tên) như thuốc "phi ma tuý" -- không phải vì bất cứ cái gì mới họ phát hiện ra về aspirin nhưng đơn giản vì họ muốn nó được sử dụng rộng rãi. Ở đây, ngôn ngữ không thể tự mình giúp đỡ cho sự tự nhiên, nhưng nó phục vụ cho chúng ta và cho những nhu cầu đặc biệt của chính mình. (TQ hiệu đính, con người dùng ngôn ngữ phục vụ lơi ích cho chính họ; khi muốn kiểm soát thuốc aspirin, họ nói aspirin là loại thuốc "ma tuý", nhưng khi muốn bán và tiêu dùng
thuốc aspirin rộng rãi, họ lại liệt kê thuốc aspirin là loại "phi ma tuý", mặc dù tính chất của thuốc asprin không có thay đổi).
Nghệ thuật đổi tên để giấu đi ý nghĩa họ không hài lòng được gọi là cách đọc trại tên (euphemism). Lối đọc trại đi là bất cứ sự diễn đạt nào có thể chấp nhận được, miễn là chúng ta thay thế cái chúng ta không hài lòng. Thí dụ, khi chúng ta không muốn đề cặp đến chết chóc, chúng ta phải sử dụng đến lối nói trại đi như qua đời, từ trần, bằng cách ấy chúng ta cố gắng thay đổi sự kiện mặc dù thậm chí chúng ta không thể phủ nhận. Ngày nay ta gọi ghế hạng ba (third class) là ghế du lịch (tourist class), một người bán hàng lưu động là người chào hàng, người ở đợ là người giúp việc và những người nhặt rác là kỹ sư vệ
sinh.
Một vài vật thể dường như lại phát sinh nhiều cách nói trại hơn những vật khác. Từ ngữ kết hợp với chức năng tổng thể là một trường hợp thiết yếu, và có thể thấy bằng cách xem xét sự đa dạng của những từ ngữ được sử dụng cho từ “gong”. Nhưng cái gong bắt
đầu trở nên thô thiển và được thay thế bằng từ Latinh là necessarium. Sau đó cái phòng đó
được gọi là nhà xí (còn bây giờ chúng ta gọi là phòng tắm), mà cái tên được ẩn đi bằng cách viết tắt là WC.
Theo lo-gic, trong tất cả cách sử dụng ngôn ngữ, chúng ta cần ghi nhớ rằng cách dùng một từ, dù từ ngữ là "tốt" hay "xấu", chính nó không thể bảo đảm sự tồn tại những nét đặc trưng mà nó hàm ý. Chúng ta sẽ có cơ hội tìm hiểu cặn kẽ hơn về lối nói trại và sự đối lập của chúng khi chúng ta nghiên cứu những lỗi theo lo-gic trong Phần II.
• Từ ngữ là những âm thanh được cấu thành để đáp ứng cho những biểu tượng về những vật chất nó mang tên. Một vật có thể được đặt bằng bất cứ tên gì, miễn là mọi người đồng ý sử dụng từ hoặc nhóm từ như nhau để gọi nó. Như vậy, có một sự liên kết không tự nhiên giữa một từ ngữ và vật thể nó biểu tượng hóa.
• Tuy nhiên chúng ta hay cho rằng từ ngữ có một sức mạnh đặc biệt, tin rằng chúng rất linh thiêng hoặc có ma thuật trong sử dụng thông thường.
• Chúng ta cũng sử dụng những từ ngữ nào đó để vận dụng cho thực tế, trong một sự chọn lựa theo cảm giác những lối nói trại để ám chỉ những sự vật, sự việc xấu để chúng có thể trở nên hay hơn.
• Cả hai xu hướng trên thì hoàn toàn ít xúc cảm trong động cơ thúc đẩy của chúng và có khuynh hướng che đậy di sự phân tích của chúng ta của một vấn đề. Trong tranh luận, chúng ta nên ngăn chặn chúng.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |