Quá trình động não69
Bạn có thể bắt đầu động não về chủ đề bằng cách thảo luận nhiệm vụ của bạn với giáo viên và bạn bè; ví dụ như đề xuất những ý tưởng, đặt ra các câu hỏi, và quan sát những khía cạnh của vấn đề cần được thảo luận theo quan điểm của bạn. Động não bằng một cái bút là việc ngồi xuống và viết trong khoảng thời gian nhất định, khoảng 20 phút,
về chủ đề mà bạn đang suy nghĩ. Bạn viết ra những gì có thể nghĩ; dùng những câu hỏi, liệt
kê, phác hoạ sơ qua. Bạn thậm chí có thể dùng những câu rời rạc mặc dù không có ý nghĩa với ai khác ngoài bạn. Khi kết thúc, bạn xem lại toàn bộ những gì mình viết ra để tìm những ý tưởng, các chứng cứ có thể hỗ trợ cho các luận cứ của bạn, và có thể là những điểm trọng tâm để bạn có thể sử dụng như là kết luận.
69 brainstorming
Viết tự do
Viết tự do cũng tương tự như động não, trừ việc nó yêu cầu bạn viết những câu dứt khoát và hoàn thiện. Một lần nữa, bạn nên viết tất cả những gì bạn có thể nghĩ về chủ đề tiềm năng, nhưng bên cạnh đó, bạn nên viết tất cả những gì bạn có thể nghĩ ra để không làm gián đoạn quá trình viết này. Thông thường, những sự kết hợp ngẫu nhiên có thể giúp bạn tìm ra những luận cứ có thể hỗ trợ cho lập luận của mình. (Một bài luận có lý thường bắt đầu bằng một "cái bướu trực giác" về một chủ đề.)
Đặt vấn đề
Một bài luận yêu cầu bạn phải thuyết phục được người đọc về quan điểm của bạn. Những câu hỏi sau đây có thể giúp bạn phân tích và tập trung vào chủ đề, do đó những luận chứng của bạn và kết luận trở nên đáng tin cậy hơn đối với người đọc:
1. Bạn muốn kết luận gì về chủ đề này?
2. Những ví dụ cụ thể nào sẽ hỗ trợ cho kết luận đó?
3. Những nhận định cơ sở nào sẽ hỗ trợ cho những ví dụ đó?
4. Những bằng chứng nào bạn có thể tìm để làm tăng tính thuyết phục trong kết luận của bạn?
5. Những ý kiến phản bác có thể nảy sinh đối với kết luận của bạn?
6. Bằng cách nào bạn nói rõ kết luận của mình?
Xây dựng một luận đề
Nhiều tác giả đã làm việc với những chiến lược đã được nêu ở trên và đạt đến những lời nói mang tính tranh luận, nhưng quá mập mờ để bao gồm trong phạm vi một bài luận ngắn. Một kỹ năng hữu ích để tập trung vào chủ đề liên quan đến một lời nói rất tổng quát và sửa đổi nhiều lần để trở thành một lời phát biểu cụ thể:
Socrates bị buộc tội bởi vì xã hội của ông từ chối thừa nhận rằng ông đã đúng.
1. Socrates bị buộc tội chết bởi vì những người Athen cảm thấy bị đe doạ bởi những điều mà ông giảng dạy.
2. Socrates bị buộc tội chết không đơn giản là vì ông vi phạm các luật lệ, mà bởi vì người dân Athen thấy rằng niềm tin tôn giáo của ông, cùng với việc ông đặt câu
hỏi về sự khôn ngoan của họ, là một mối đe doạ về phương diện cá nhân cũng như văn hoá.
3. Socrates vị buộc tội chết không đơn giản vì ông vi phạm các luật lệ, mà còn bởi vì cộng đồng người Athen cảm thấy vị đe doạ vì nghi ngờ của ông đối với trí khôn và những giá trị của họ.
Bạn có thể kết thúc với một câu rất dài mà có vẻ như lan man không dứt về chủ đề của bạn. Đừng nên lo lắng về việc viết những câu đúng vào lúc này; thay vào đó, hãy giải quyết những cái còn mập mờ, những đoạn còn chung chung để tìm ra giới hạn cho chủ đề mà bạn viết.
Xem xét về mặt tu từ
Thông thường những người viết thường bị mắc kẹt trong những quy tắc chi phối một bài luận truyền thống. Họ nghiêm túc tạo ra những luận đề, viết những bài luận với những sự mở đầu, thân bài, phần kết, nhưng không làm cho họ hài lòng khi trình bày những hiểu biết về chủ đề của họ, chủ đề mà họ đã có sự chuẩn bị, và đưa đến cho người
đọc. Nhiều sinh viên cứ cho rằng người đọc của họ thực sự là người thầy và đánh dấu bằng bút đỏ; tuy nhiên, thực tế là kết quả lao động của các bạn sẽ được đọc và đánh giá bởi những giáo viên, nhưng người thầy của bạn muốn đọc một bài luận mà bạn viết một cách thích thú. Mục đích chính của các bạn khi viết một bài luận là thu hút sự tham gia của cả người đọc và người viết. John R.Trimble đã đưa ra một số điểm quan trọng khi nghĩ về các độc giả:
“Viết là việc một người có ý định nghiêm túc để giao tiếp với một người khác. Rõ ràng là nó có liên quan đến cả người đọc lẫn người viết, do đó thành công của
việc giao tiếp phụ thuộc hoàn toàn vào người đọc đón nhận nó như thế nào. Bởi vì có hơn một người có liên quan, và bởi vì mọi người đều có những cảm nhận, nó cũng có những quy tắc cơ bản giống như trong quan hệ giữa con người với
nhau… nếu xa rời điều này, người viết đang nói chuyện với một thực thể khác, cũng giống như tôi đang nói chuyện với các bạn đây, nếu như vậy người giống bạn có thể cách đây hàng nhiều giờ, ngày và thậm chí là nhiều năm.” (Viết Với Phong Cách: Trao Đổi Về Nghệ Thuật Viết. Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall,
1975, trang 15)
Trimble tiếp tục nói rằng những yêu cầu khi nói với người đọc là viết một cách rõ ràng và hợp lý, về một chủ đề có thể tranh luận và đã được tập trung. Tuy nhiên ông cũng nói rằng bạn nên xem xét những khía cạnh sau đây của phép tu từ khi viết một bài luận.
1. Diễn đạt suy nghĩ của bạn một cách rõ ràng nhất.
2. Nói về những điểm mà bạn không muốn làm mất thời gian của người đọc.
3. Dự đoán về những câu hỏi của bạn đọc và phản ứng của họ.
4. Trình bày đa dạng và hóm hỉnh để thu hút người đọc.
5. Giao tiếp với người đọc bằng một phong cách truyền cảm, thân thiện và rộng mở thay vì làm ra vẻ ta đây là người quan trọng nhất.
Tóm lại Trimble nói với người viết hãy nói những gì mà họ hàm ý để những điều đó có thể hiểu được. Ý tưởng về việc viết một cách mạch lạc và rõ ràng có vẻ như là một việc dễ dàng, tuy nhiên nó có thể trở nên khó hiểu một cách khủng khiếp khi được pha trộn với những quy tắc chi phối quá trình viết một bài luận mang tính học thuật theo kiểu truyền
thống. Những người viết là sinh viên được chỉ bảo viết theo phong cách trang trọng hơn là phong cách bình dân, sử dụng những liên từ lo-gic (tuy nhiên, do đó, bên cạnh đó, một mặc, bởi vì, nói tóm lại), và không bao giờ dùng ngôi thứ nhất số ít. Những quy tắc này không hẳn đã là những lời khuyên tốt. Mặt khác, người viết có thể cảm nhận được ít hơn
những gì họ đang nói, và không kiểm soát được tính lo-gic của một bài luận. Ví dụ như bài
luận trên đây được viết ra để đáp ứng các yêu cầu của một bài học, tác giả của nó không đưa ra những từ đao to búa lớn để gây ấn tượng với độc giả. Thay vào đó, người viết đã chọn ngôn ngữ của riêng mình để tạo ra một giọng điệu phức tạp nhằm giải thích và thuyết phục:
“Để hiểu được quyết định của người dân Athen, trước tiên chúng ta phải hiểu được những bối cảnh xung quanh vụ án, cũng như làm quen với tính cách và niềm tin của Socrates. Tác phẩm Lời Thú Tội…. Đưa ra những bằng chứng về những giá trị của Socrates và những phương pháp suy luận của ông.”
Đoạn viết trên cho thấy người viết là một người am hiểu về chủ đề Socrates, nhưng hãy chú ý cách người viết dùng chữ, chúng rõ ràng là để đề nghị người đọc tham gia, thăm dò sự giải thích của mình. Bên cạnh đó, tác giả viện dẫn đến Plato để thể hiện những nỗ
lực của mình trong việc kết hợp với những học giả suy nghĩ và viết về Socrates. Cuối cùng, tác giả không sử dụng những từ mang tính "nhồi nhét"; mọi ngôn từ đều phù hợp với
những điểm trong bài luận. Khi tác giả dùng cụm từ “để hiểu được” (cũng như từ chúng ta, đây là một cụm từ trang trọng, một dấu hiệu của sự tao nhã) để tạo ra một sự chuyển đổi giữa phần mở đầu và phần thân bải của bài luận và cho phép người đọc đoán biết được tiến trình phân tích.
Độc giả và sự lựa chọn ngôn từ
Trong bài luận của mình "Sự Trong Sáng Của Tiếng Anh, Giờ Đã Bị Vẩn Đục" (Tuần Báo Princeton Alumni, 26 tháng 9, 1958), Willard Thorp đã đưa ra khái niệm "không tiếng Anh" để mô tả những người viết đã sử dụng thứ ngôn ngữ làm khó hiểu những ý tưởng mà họ cố gắng diễn đạt. Vấn đề là những lựa chọn sai lầm về từ ngữ, sử dụng những cách diễn đạt sáo mòn hoặc nhàm chán, và viết những câu dài dòng và đa ngôn. "Không tiếng Anh" đã nêu ra vấn đề trong khi viết mà bạn có thể sửa chữa; bạn chỉ cần bỏ ra thời gian để xem xét một cách chính xác điều bạn muốn nói ra, và với đối tượng độc giả nào bạn muốn giao tiếp. Nếu bạn nghĩ kỹ lưỡng về ý tưởng và độc giả của mình,
thì bạn có thể quen với cấu trúc ba phần của một bài luận và dùng nó để nói với, chứ không phải nói cho người đọc của mình.
Hãy xem hai câu biểu thị vấn đề "không tiếng Anh" và sửa chữa chúng sao cho chúng có thể diễn tả được ý chính một cách đơn giản và mạch lạc.
Socrates, một con người có mối quan tâm lớn giữ trong mình niềm tin mãnh liệt bằng cách cho phép mình có bổn phận trước Chúa. Một số người đã thấy rằng Socrates là một người có nhận thức và đủ tiêu chuẩn để dạy dỗ và áp dụng những hiểu biết của ông đối với mọi người.
Về mặt tu từ học, người viết cần đơn giản hoá cách dùng ngôn ngữ để người đọc hiểu được điều gì đang được nói đến (ví dụ như "một con người có mối quan tâm lớn"?). Về mặt lo-gic, hai câu trên dường như không có mối liên hệ với nhau, và cần được sửa
chữa lại để chúng kết hợp với nhau diễn đạt ý nghĩ của người viết. Về mặt ngữ pháp, người viết cần chú trọng đặc biệt đến dấu câu. Hãy xem xét các câu sau khi sửa:
Sự tận tuỵ của Socrates trong công việc của mình đối với người dân Athen được dựa trên niềm tin tôn giáo; thực tế, ông nói về công việc của ông như là trách nhiệm được Chúa trời giao phó; mặc dù hầu hết người Athen lên án những triết lý của ông, một số người thừa nhận rằng ông là một người thầy hiểu biết và tài
năng.
Xắp xếp các đoạn văn một cách hiệu quả.
Phần lớn, cấu trúc của những đoạn văn được xắp xếp tốt xoay quanh mọi khía cạnh khi viết đã được nói ở trên. Nếu bạn nghĩ về ý tưởng của mình, động não về những chi tiết, sửa chữa các câu khi chúng đạt đến một sự miêu tả cụ thể, từng luận điểm chi tiết hỗ trợ cho các kết luận của bạn, và nghĩ về hình thức của bài luận, những đoạn văn được viết rõ ràng dường như là cách hợp lý nhất để bạn biểu đạt các ý tưởng của mình. Một số nguyên tắc giúp bạn cấu trúc các đoạn văn của mình:
1. Các đoạn văn kết hợp với nhau một cách tổng thể trong một bài luận, nó như là việc xây dựng một toà nhà mà chúng ta phải dựa trên một luận đề. Ví dụ, đoạn
thứ hai của bài luận trên đã bắt đầu bằng một viễn dẫn đến đoạn đầu tiên: "để
hiểu được quyết định của người Athen," sau đó đi đến diễn giải những giải thích của mình về các phương pháp và động cơ của Socrates. Nếu bạn xem xét những phần khác của bài luận (hoặc những bài luận được viết tốt khác), bạn sẽ thấy rằng hầu hết các đoạn văn đều viễn dẫn những đoạn văn trước đó và phù hợp với chúng.
2. Các đoạn văn cũng đóng vai trò như là một đơn vị chứa đựng một luận điểm. Sự lùi vào khi bắt đầu một đoạn văn báo hiệu cho người đọc rằng một luận điểm đang được trình bày và sẽ được chứng minh bằng những bằng chứng. Độ dài của một đoạn văn chuẩn (300 đến 500 từ) đủ để xây dựng một ý tưởng. Tuy nhiên độ dài truyền thống này giúp người viết tập trung và bám sát ý tưởng được trình bày trong đoạn văn.
3. Cuối cùng, những đoạn văn có thể được xem là những bài luận thu nhỏ. Mặc dù các đoạn văn trong một bài luận phụ thuộc lẫn nhau và vào luận đề của bài luận, mỗi đoạn văn đều chứa một ý tưởng chủ đạo, những minh hoạ, và tổng hợp một điểm hoặc ví dụ được trình bày trong đó. Thậm chí trong các đoạn ban đầu và đoạn chuyển tiếp, chúng đóng vai trò giới thiệu đến người đọc về một ý tưởng hơn là giải thích nó, thường là theo phương thức đi từ tổng quát đến cụ thể. Khi bạn viết các đoạn văn, bạn sẽ thấy rằng duy trì phương thức này sẽ giúp bạn giới
thiệu, giải thích và tổng hợp những sự diễn giải của mình.
Hãy xem xét một đoạn văn đứng riêng biệt để hiểu hơn về những yếu tố này. Ví dụ được trích ra từ bài luận của Coretta Scott King, "Tại Sao Chúng Ta Không Thể Chờ Đợi Nữa" (Tuần Tin Tức, 1976):
“Lý do đầu tiên là… tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao (giữa những người mỹ gốc phi) thì chẳng gì khác ngoài sự dự báo là tương lai nước mỹ sẽ xấu đi thay vì tiến bộ. Những người lao động tạo ra của cải của nước mỹ không chỉ là những cá nhân độc lập mà còn là trụ cột mà sức khoẻ của toàn bộ cộng đồng của chúng ta dựa vào. Một người với một công việc tử tế sẽ hỗ trợ bố mẹ già của anh ta và sức mạnh bảo đảm ổn định cho những người hàng xóm và thành phố. Những đường phố sạch sẽ và an toàn, những ngôi nhà khang trang, chăm sóc y tế đầy đủ và thậm chí là hoà bình giữa các dân tộc là tất cả những mục tiêu chỉ có thể xuất
phát từ công việc ổn định. Nếu không có một công việc tử tế……..có thể làm được
cái gì ngoại trừ gây tổn thương đến sự lãnh đạm đối với những vết thương của thất nghiệp. Tương lai của nước mỹ sẽ không là gì ngoài sự nguy nan. Hiện nay một thế hệ đang lớn lên, có quá nhiều gia đình mà bố mẹ không có việc làm. Sự cam chịu trước tỷ lệ thất nghiệp cao trong năm 1980 sẽ chẳng là cái gì ngoài một sự bảo đảm rằng chúng ta sẽ bước đi trên những con đường bị bẩn, đi qua những người trẻ tuổi đau đớn, những người già với đôi mắt u buồn trong thế kỷ 21. Tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ chẳng là gì ngoài sự đầu tư rẻ tiền trong sự suy tàn liên tục.”
Nếu chúng ta phân tích đoạn văn này theo những quy tắc ở trên, chúng ta có thể thấy nhiều cách trong đó nó bám sát vào những tiêu chuẩn của một đoạn văn tốt. Trước hết, xây dựng mối quan hệ với đoạn văn trước đó để nó đóng vai trò như là một sự hỗ trợ cho một quan điểm đã được nêu ra, nhưng quan điểm này cần được làm rõ hơn. Tiếp theo, đoạn văn này đi vào chứng minh một kết luận chính: khi đe doạ đời sống của những cá
nhân, thất nghiệp đã đe doạ đến một quốc gia. Mỗi ví dụ trong đoạn văn đều liên quan đến điểm này, và các ví dụ được trình bày theo một trình tự lo-gic. Đoạn văn cũng chứa đựng một sự mở đầu: "Lý do trước hết...". Mỗi đoạn có những ví dụ cụ thể, và một kết thúc nêu ra kết luận cùng với những lý luận chứng minh: "tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ chẳng là gì ngoài sự đầu tư nghèo nàn vào sự suy tàn liên tục."
Khi bạn xây dựng một đoạn văn, hãy để ý bạn có thể sửa chữa chúng để chúng phản ánh những quy tắc này không. Sau khi bạn nắm được dạng thức này, bạn có thể biến đổi cấu trúc của mình một chút. Bên cạnh đó, hãy tự hỏi những câu sau đây khi bạn xem xét toàn bộ bản thảo của mình
1. Đoạn văn có chứa đựng một ý chính không? Và ý chính đó có được diễn đạt rõ ràng và đơn giản hay không?
2. Những thông tin trong đoạn văn đó có hỗ trợ cho ý chính hay không?
3. Có thông tin nào không cần thiết hay không?
4. Có thông tin nào bị bỏ sót?
5. Các đoạn văn có liên kết với nhau hay không? Các liên từ lo-gic có được sử dụng thích hợp hay không: tuy nhiên, mặt khác, bởi vì, bên cạnh đó, ngược lại và lý do trước hết?
Sửa chữa
Khi bạn làm việc với một bài luận, bạn sẽ thấy rằng nhiều hoạt động cần được tập trung vào việc viết lại những gì mà bạn viết cách đây mười lăm phút. Sửa chữa là điều cần thiết trong quá trình viết. Chương 2 của cuốn sách này giải thích rằng ngôn ngữ mang tính quy nạp, tính nhân tạo và cần phải học; và việc viết lách cũng như vậy. Bạn sẽ thường xuyên phải viết ít nhất ba bản nháp về bài luận nếu bạn muốn có một sự thoả mãn về sản phẩm cuối cùng. Bản nháp đầu tiên có thể tập hợp những ý định của bạn một cách lờ mờ; nó có thể không mạch lạc, nhiều từ viết sai hoặc sử dụng sai, và phạm vi của nó quá lớn. Nhưng bản nháp đầu tiên sẽ giúp bạn có được những đoạn văn bản để bạn có thể làm việc; hãy đọc và tìm xem những đoạn nào có nghĩa và những đoạn nào không, hãy nghĩ về cấu trúc mà bạn sử dụng, sau đó viết bản nháp thứ hai. Bản nháp này cần được một người khác đọc, có thể là bạn bè… Người có thể giúp bạn tìm ra những đoạn văn được tổ chức không đúng, ví dụ không đúng, những chữ viết sai và dùng sai. Bản nháp thứ ba rất có thể là một bản thảo rõ ràng và hợp lý; tuy nhiên bạn vẫn cần phải kiểm tra cẩn thận về các lỗi ngữ pháp. Lựa chọn viết bản nháp bao nhiêu lần là tuỳ bạn; hãy luôn nhớ, nếu không có sự sửa đổi nhiều lần và liên tục thì hầu như không thể có được một văn bản được viết một cách rõ ràng, thuyết phục.
3. Chú Ý Cuối Cùng: Ngữ Pháp và Cách Sử Dụng
Đoạn chỉ dẫn ngắn này không thể đề xuất một lời khuyên cụ thể về các phần của một bài luận và về các lỗi của câu trong quá trình viết. Những sự trải nghiệm mà bạn có thể có trong quá trình viết các bài luận đã cho thấy sự cần thiết của việc viết các câu đúng ngữ pháp. Các giáo viên có thể có đánh giá khác nhau về cách mà bạn trình bày lập luận của mình, nhưng họ luôn muốn nhìn thấy những tiêu chuẩn được tuân thủ về dấu câu, sự
hoà hợp giữa động từ-chủ ngữ, đại từ, cấu trúc song song, v.v…. cách hiệu quả nhất để bạn học được và áp dụng những quy tắc viết câu đúng là mua một cuốn giáo trình dành cho các
nhà văn và biên tập. Một số được liệt kê dưới đây. Các giáo trình có các ví dụ cụ thể, dễ hiểu về các quy tắc trong khi viết, và thường đưa ra một số bài tập để bạn thực hành. Các tài liệu được nêu ra dưới đây cũng nêu ra vấn đề viết tốt một câu văn, cũng giống như viết tốt một bài luận, bao gồm các vấn đề lo-gic, tu từ cũng như các quy tắc ngữ pháp.
Chương 7
Những Bài Đọc Gợi Ý
Hầu hết những tác phẩm lo-gic học và ngôn ngữ này tương đối dễ nghiên cứu và trở nên phổ biến rộng rãi.
Max Black, ed. The Importance of Language. Ithaca, N.Y.: Cornell Univer-sity Press, 1969. Selected papers on the philosophy of language, edited by a noted American analytic philosopher. (Biên tập viên Max Black, Tầm Quan Trọng Của Ngôn Ngữ. Ithaca, N.Y.: Trường Đại Học Cornell ấn bản, 1969. Những bài được chọn lọc dựa trên triết lý của ngôn ngữ, được biên soạn bởi một triết gia phân tích nổi tiếng người Mỹ.)
Lewis Carroll. Alice's Adventures in Wonderland. New York: New Ameri-can Library, 1960. Readers can learn a great deal about the nature of language if they can figure out precisely why Alice and the creatures of Wonderland continually fail to communicate. (Lewis Caroll. Những Cuộc Phiêu Lưu Của Alice Vào Xứ Sở Thần Tiên. New York: Tân Thư Viện Hoa Kỳ, 1960. Độc giả có thể nghiên cứu một sự thỏa thuận rất tuyệt về bản chất của ngôn ngữ nếu họ có thể tìm hiểu chính xác tại sao Alice và những sinh vật của xứ sở thần tiên liên tục thất bại trong việc thông tin.)
Edward T. Hall. The Silent Language. New York: Doubleday Anchor Book, 1973. An account by an American anthropologist and linguist of how we "talk" to each other without the use of words. (Edward T.Hall. Ngôn Ngữ Không Lời. New York: Doubleday Anchor, 1973. Một bản miêu tả của một nhà ngôn ngữ và nhân loại học người Mỹ về vấn đề chúng ta "nói chuyện" với nhau như thế nào nếu không sử dụng ngôn từ.)
C. L. Hamblin. Sai Lầm. London: Menthuen, 1972. Một sự giải thích theo niên đại, bắt đầu bằng Aristole, về lịch sử của những lối ngụy biện phổ biến. Tác giả là giáo sư triết học của trường Đại Học New South Wales.
S. I. Hayakama. Ngôn Ngữ Trong Tư Duy và Hành Động. Tái bản lần 4. New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1978. Một trong những tác phẩm nền tảng về ngữ nghĩa nói chung (liên quan đến cách ngôn ngữ sắp đặt cuộc sống của chúng ta), được viết bởi những người sáng tạo chủ chốt của quy luật đó.
Wilson Bryan Key. Khai Thác Phương Tiện Truyền Thông Đại Chúng. Englewood Cliffs, N.J.: Prentice Hall, 1976. Một sự giải thích về phương tiện thông tin đại chúng kích động và lôi kéo chúng ta như thế nào bằng cách lợi dụng sự thích thú, nỗi sợ hãi của chúng
ta, và gợi ý chúng ta nên có thói quen mua những gì nó quyết định mời chúng ta. Ý kiến chủ đạo khai thác chủ đề này trong một cuốn sách được xuất bản sớm hơn có tên gọi là Sự Quyến Rũ Tiềm Thức (1973) và gần đây hơn là Clam-Plate Orgy (1980).
Richard Lanham. Văn Xuôi Viết Lại. Tái bản lần 2. New York: MacMillan, 1987. Một hướng dẫn thực hành xuất sắc để viết một cách rõ ràng. Gồm có một cách thức làm giảm bớt "nhân tố đệm" trong phong cách văn xuôi.
Stanley Milgram. Nghe Theo Quyền Lực. New York: Harper & Row, 1974. Dựa trên nghiên cứu được thực hiện tại Trường Đại Học Yale, sự diễn giải về một cuộc thử nghiệm nổi tiếng đã khai thác cái gì về tự nhiên của sự nghe theo quyền lực có thể tạo ra tình huống mà trong đó một người có thể ra lệnh cho người khác làm điều hại, thậm chí tiêu diệt người thứ ba vô tội, và những mệnh lệnh đó được thực hiện một cách vô cảm, dễ quy phục và thường lệ.
David Ogilvy. Sự Tuyên Bố Của Một Nhà Quảng Cáo. New York: Dell, 1963. Đây là một cuốn sách đầu tiên dành toàn bộ nội dung để trình bày tất cả những phương pháp thành công được các nhà quảng cáo khai thác nhằm bán sản phẩm của mình.
George Orwell. "Chính trị và Ngôn ngữ Tiếng Anh", trong tuyển tập những bài tiểu luận của George Orwell. New York: Doubleday & Co., 1953. Phát hiện những sa sút trong tiêu chuẩn của diễn văn và văn phong hiển nhiên trong văn hóa của chúng ta đến ảnh hưởng nguy hại của một nền chính trị bị hạ thấp. Người ta cho rằng đó sự thay đổi trong những thói quen diễn thuyết của chúng ta là một nghệ thuật chính trị.
Lionel Rubby. Nghệ Thuật Tạo Cảm Giác. Tái bản lần 3. Philadenphia: J. B. Lippincott, 1974. Một sự diễn giải thú vị về nghệ thuật suy nghĩ của một nhà giáo về triết học người Mỹ.
Gilbert Ryle. Những Tình Trạng Khó Xử. Cambridge, Eng.: Nhà xuất bản University Press, 1960. Những vấn đề tồn tại lâu dài có thể được giải quyết như thế nào bằng cách áp dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ.
Michael Wheeler. Những Lời Nói Dối, Lời Nói Dối Đáng Nguyền Rủa, và Khoa Học Thống Kê. Cuốn sách này cho thấy không chỉ sự thích thú mua hàng mà cả những quan điểm chính trị và xã hội của chúng ta cũng có thể - và thường được chế ngự.
Ludwig Wittgentin. Những Cuốn Sách Xanh và Nâu. Tái bản lần 2. New York: Harper & Row, 1969. Một sự giải thích về những tình trạng triết học phức tạp khác nhau có nguồn gốc mơ hồ về ngôn ngữ như thế nào. Tác phẩm được viết bởi người đã thiết lập nên một trong những phong trào triết học đương thời quan trọng nhất, có tên gọi là Khoa Học Phân Tích.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |