ĐỀ CƯƠng các chuyêN ĐỀ BỒi dưỠng hsg 10, 11 Chuyên đề1: Văn học hiện thực 1930 – 1945



tải về 202.64 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích202.64 Kb.
#30084
  1   2   3
ĐỀ CƯƠNG CÁC CHUYÊN ĐỀ

BỒI DƯỠNG HSG 10, 11
Chuyên đề1:

Văn học hiện thực 1930 – 1945

A. PHẦN MỞ ĐẦU

I. Mục tiêu

Chuyên đề giúp học sinh hiểu về một trào lưu văn học xuất hiện trong thời kỳ phức tạp của lịch sử dân tộc .Mặt khác, còn giúp các em biết thêm về đội ngũ nhà văn đã định hình thành những phong cách lớn và những sáng tác của họ thực sự là thành tựu của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.



II. Đối tượng nghiên cứu

Tìm hiểu sâu về văn học hiện thực giai đoạn 1930-1945 về nội dung, các thành tựu nghệ thuật trong đó có phân tích một số tác phẩm văn xuôi tiêu biểu của dòng văn học này.



III. Phạm vi chuyên đề

Tập trung vào mảng văn học hiện thực giai đoạn 1930-1945 đi từ những vấn đề lịch sử đến quá trình phát triển và thành tựu nổi bật.

Tập trung vào một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong chương trình Văn học lớp 11 SGK nâng cao: “Chí Phèo”, “Đời thừa” - Nam Cao; Chương “Hạnh phúc của một tang gia” (trích Số Đỏ) – Vũ Trọng Phụng

B. PHẦN NỘI DUNG

I. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam những năm 1930-1945

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933: Thực dân Pháp ra sức vơ vét, bóc lột để bù đắp cho những thiệt hại của chúng: chúng tăng thuế, bắt phu, bắt lính, lạm phát giấy bạc. Đông Dương trở thành một thị trường tiêu thụ của Pháp. Ngày 9/2/1930 cách mạng tư sản thất bại. Giai cấp tư sản một mặt mâu thuẫn với đế quốc phong kiến, một mặt lại phụ thuộc vào chúng. Địa vị kinh tế non yếu khiến tư sản dân tộc mất hết khả năng chiến đấu. Đường lối chính trị chủ yếu của họ là cải lương. Tư sản dân tộc phần lớn do địa chủ chuyển thành hoặc gắn liền với địa chủ thành thứ tư sản địa chủ khiến cho thái độ chống phong kiến không dứt khoát. Họ đã tiến hành bạo động nhưng thất bại, trí thức tiểu tư sản trở nên hoang mang, tìm đường thoả hiệp với thực dân, một số thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc bằng con đường văn chương.

Tháng 9/1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, mặt trận dân chủ tan vỡ, bọn thống trị ở Đông Dương thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta vừa giành được, Đảng phải rút vào bí mật. Thời kỳ này phong trào cách mạng lên cao, cả nước sục sôi chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tháng 8/1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

II. Những chặng đường phát triển

1. Chặng đường từ 1930 đến 1935: Văn học hiện thực với những sáng tác của Nguyễn Công Hoan, tập truyện “Kép Tư Bền”; Vũ Trọng Phụng – các phóng sự “Cạm bẫy người” và “Kĩ nghệ lấy Tây”… đã thể hiện tinh thần phê phán tính chất bất công, vô nhân đạo của xã hội đương thời, đồng thời bộc lộ sự cảm thông thương xót đối với những nạn nhân của xã hội đó.

2. Chặng đường từ 1936 đến 1939: Do tình hình xã hội có nhiều thuận lợi cho sự phát triển của văn học hiện thực, các cây bút hiện thực chủ nghĩa như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… đã đạt tới độ chín tài năng, liên tiếp cho ra đời những tác phẩm xuất sắc. Hàng loạt các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê…., nhiều truyện ngắn xuất sắc và tiểu thuyết như “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan… đều tập trung phê phán tố cáo mãnh liệt những thủ đoạn áp bức bóc lột, chính sách bịp bợm, giả dối của giai cấp thống trị, đồng thời phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân với thái độ cảm thông sâu sắc. Cảm hứng phê phán đã hướng ngòi bút Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố vào việc khắc hoạ những nhân vật điển hình phản diện có ý nghĩa phê phán quyết liệt.

3. Chặng đường từ 1940 đến 1945: Cảm hứng phê phán vẫn là chủ đạo song có thêm những nét đặc sắc mới được thể hiện nổi bật nhất trong những sáng tác của Nam Cao. Nếu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố thiên về tả thực phản ánh xã hội đương thời thì Nam Cao không chỉ miêu tả mà còn phân tích lí giải những hiện tượng, những vấn đề của hiện thực đó. Ngòi bút Nam Cao luôn có xu hướng phân tích xã hội qua việc phân tích tâm lý nhân vật. Có thể nói, đến Nam Cao, cảm hứng phê phán đã trở thành cảm hứng phân tích phê phán.

Như vậy, văn học hiện thực phê phán Việt Nam trải qua ba chặng đường phát triển và đã đạt được thành tựu xuất sắc ở giai đoạn cuối. Dòng văn học này thực sự đã góp phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hoá nền văn học dân tộc.



III. Những thành tựu nổi bật của văn học hiện thực 1930 – 1945

1. Thành tựu về nội dung

Chủ nghĩa hiện thực phát triển trong khoảng mười lăm năm nhưng đã xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao… Tác phẩm của họ là những bức tranh đậm nét về đời sống xã hội đem lại giá trị nhận thức cao cho người đọc. Khi nhắc đến những tác phẩm: Bước đường cùng, Tắt đèn, Bỉ vỏ, Số đỏ, Chí Phèo… Nguyễn Khải đánh giá là những tác phẩm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học. Bức tranh xã hội lúc đó ảm đạm, nhiều bi kịch, nhiều tệ nạn xã hội, làng quê xơ xác, tiêu điều, người nông dân bị đẩy đến đường cùng để rồi liều lĩnh, biến chất, trở thành nạn nhân của xã hội. Ở thành thị, các phong trào do thực dân đề xướng như: “Âu hoá”, “Vui vẻ trẻ trung”, thi thể thao, cải cách y phục…. ngày càng lộ rõ chân tướng và tạo ra nhiều nghịch cảnh. Dòng văn học hiện thực phê phán đã phanh phui, bóc trần bộ mặt xã hội đó.

Các nhà văn hiện thực, lớp trí thức mới vốn xuất thân từ tầng lớp trung lưu, thậm chí trong những gia đình nghèo, vất vả kiếm sống. Vì thế mà họ gần gũi, thấu hiểu và đứng về phía người lao động để miêu tả qua những trang viết.

Về quan hệ giữa văn học và cuộc sống, Nam Cao đã có những luận điểm sâu sắc. Trong tác phẩm “Trăng sáng” nhân vật Điền đã đi từ quan điểm nghệ thuật lãng mạn đến quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Còn trong “Đời thừa”, qua nhân vật Hộ, Nam Cao khẳng định thiên chức nhà văn. Hộ hiểu rất rõ trách nhiệm của người cầm bút, Hộ có lương tâm nghề nghiệp nhưng vì miếng cơm manh áo mà anh phải đi ngược lại nhưng sau đó anh tự cảm thấy tủi nhục vì phải sống đời thừa.



2. Thành tựu nghệ thuật

Văn học hiện thực 1930 – 1945 đã tạo dựng được những chân dung nhân vật có tầm khái quát cao, lại rất chân thực và sinh động, vừa mang ý nghĩa xã hội vừa có giá trị thẩm mĩ độc đáo, đó là nhân vật điển hình.

Bên cạnh những thành công trong việc xây dựng điển hình sắc nét, văn học hiện thực phê phán còn đạt đến chiều sâu phân tích tâm lí nhân vật. Các nhà văn tiêu biểu như Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân…

Nhà văn đạt tới thành công hơn cả ở nét nghệ thuật này là Nam Cao. Nhân vật trong truyện của ông có chiều sâu tâm trạng, có dòng tâm lí, có đối thoại nội tâm. Nhiều tác phẩm có cấu trúc tâm lí độc đáo như “Sống mòn”, “Đời thừa”, “Chí Phèo”.

Nhìn chung, các nhà văn hiện thực trong giai đoạn này đã hiểu rõ thiên chức của mình. Họ chủ động trên những trang viết, có vốn sống phong phú. Kiến thức rộng để có thể tạo được hiệu quả nghệ thuật cao nhất.

IV. Cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945

Văn học hiện thực 1930 – 1945 vận động trên dòng phát triển của thời cuộc. Sống và viết trong giai đoạn có nhiều biến động về lịch sử, các nhà văn hiện thực phải nhạy bén nhận thức những chuyển biến xã hội. Hiện thực phong phú của đời sống đã làm nảy sinh cảm hứng sáng tạo ở người nghệ sĩ. Mỗi nhà văn nhận thức và phản ánh hiện thực theo một cách cảm hứng riêng.

Cảm hứng trào phúng được xem là chủ đạo trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác hai nhà văn này cũng có nét khác nhau.

Với Nguyễn Công Hoan, cảm hứng ấy là sự phê phán kịch liệt xã hội thực dân phong kiến đương thời với những sản phẩm thối nát của nó. Đồng thời là thái độ bênh vực những người nghèo khổ. Qua những truyện ngắn trào phúng của mình tác giả làm nổi bật thực trạng xã hội Việt Nam trước cách mạng xây dựng trên sự bóc lột của người giàu đối với người nghèo, phơi bày tất cả sự giả dối, những mâu thuẫn trớ trêu, nghịch cảnh phi đạo lí. Tiếng cười trào phúng đã đánh trúng vào bọn thực dân tư, tư sản và bọn nhà giàu ở thành thị, bọn cường hào ác bá ở nông thôn, bọn quan lại ở các phủ huyện. Ông đặc biệt căm ghét bọn quan lại ôm chân đế quốc để kiếm ăn trên lưng những kẻ nghèo hèn. Những truyện ngắn trào phúng có tính đả kích sâu cay của Nguyễn Công Hoan như: “Đồng hào có ma”, “Tinh thần thể dục”

Dưới con mắt của nhà văn trào phúng bậc thầy Vũ Trọng Phụng, cuộc đời như một tấn bi hài kịch. Ở tiểu thuyết “Số đỏ”, nghệ thuật trào phúng đã chứng tỏ ở Vũ Trọng Phụng một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một tài năng nghệ thuật độc đáo. Cảm hứng ấy chính là lòng căm thù mãnh liệt đối với bọn thực dân, quan lại, địa chủ, tư sản… những loại người đểu giả và lố lăng. Mặt khác, còn là niềm say mê khám phá các thói tật, các mặt xấu, những cái vô nghĩa lý đáng cười ở con người. Với tài nghệ bậc thầy Vũ Trọng Phụng đã làm bùng lên trên sân khấu đại hài kịch “Số đỏ” tiếng cười mỉa mai, hài hước, khi châm biếm, đả kích, khi căm phẫn hằn học cái xã hội bẩn thỉu, giả dối, vô luân. Có thể nói lòng căm thù chính là sức mạnh nghệ thuật của tài năng văn chương ở nhà văn mệnh yểu này.

Văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 cùng với cảm hứng trào phúng còn có cảm hứng bi kịch cũng được xem là cảm hứng chủ đạo. Cảm hứng ấy thấm nhuần trong các sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao. Trong “Tắt đèn”, nhà văn không chỉ quan tâm tới nỗi khổ lớn của người nông dân về mặt vật chất mà còn đặc biệt quan tâm tới nỗi khổ về tinh thần của họ. Cảm hứng bi kịch thấm đẫm trong từng trang viết của nhà văn. Ngòi bút nhân đạo của Ngô Tất Tố tập trung thể hiện tấn bi kịch tâm hồn với những tình cảm phong phú, sâu sắc của chị Dậu, người phụ nữ giàu lòng vị tha, yêu chồng, thương con hết mực bị đẩy vào hoàn cảnh éo le. Để có tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi hoàn cảnh cùm trói chị đã dứt ruột bán đứa con mình. Không có nỗi đau nào lớn hơn như thế nhưng chị đã không thể làm khác. Cảm hứng bi kịch khiến Ngô Tất Tố đã xoáy sâu vào cảnh bán con…Chính lúc này chị Dậu mới phát hiện ra ở đứa con của mình đức tính mà lúc thường chưa bộc lộ hết. Còn cái Tí càng thương cha, càng quyến luyến lũ em, nó càng nhận ra tình thế không sao tránh khỏi bị đem bán của mình. Ban đầu nó van xin, khóc lóc rồi khi hiểu ra nó cắn răng chịu đựng, chấp nhận để mẹ bán cho nhà Nghị Quế. Tác giả đã sử dụng thủ pháp kéo căng thời gian nghệ thuật để làm dậy lên những tình cảm xót thương trong lòng người đọc.

Nguyên Hồng vốn là một nhà văn hay đa sầu đa cảm. Trong sáng tác của mình ông đã thể hiện sâu sắc nỗi đau khổ uất ức của người dân lao động nghèo, trước hết là người phụ nữ và trẻ em bất hạnh. Ở Nguyên Hồng có một tình cảm vừa nồng nàn, sôi nổi, vừa mãnh liệt, thống thiết đối với người cùng khổ, qua đó thể hiện niềm tin của mình vào phẩm chất tốt đẹp ở người lao động. Có thể nói, trên những trang viết của Nguyên Hồng nồng nàn hơi thở của đời sống cần lao.

Viết văn bằng sự tỉnh táo của lí trí và sự yêu thương tha thiết của trái tim, cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Nam Cao là niềm khát khao đến cháy bỏng làm sao để con người được sống xứng đáng với hai chữ CON NGƯỜI. Đó là được sống lương thiện, được phát huy khả năng của loài người chứa đựng trong mỗi con người. Mong muốn này đã dẫn đến nỗi đau khôn nguôi trước tình trạng con người bị xúc phạm về nhân phẩm, bị huỷ hoại về nhân tính, bị bóp chết những ước mơ, bị đẩy vào tình trạng sống mòn, không lối thoát. Từ khát vọng về một cuộc sống có ý nghĩa mà dưới cái nhìn của Nam Cao nhân loại đang lâm vào tình trạng huỷ hoại về nhân tính, chết ngay khi đang sống. Cảm hứng chủ đạo này đã chi phối cả thế giới nhân vật trong sáng tác của nhà văn.

Cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực 1930 – 1945 khá đa dạng. Trong sáng tác của mỗi nhà văn hiện thực, cảm hứng chủ đạo cũng có những tính chất, đặc điểm khác nhau. Tất cả đều hướng đến tập trung thể hiện bản chất thối nát,tính chất vô nhân đạo của xã hội Việt Nam trước cách mạng, thái độ phê phán xã hội dẫn tới yêu cầu khách quan phải thay đổi. Điều này cho thấy mặt tích cực, tiến bộ của trào lưu văn học này.

C. PHẦN KẾT LUẬN

Văn học hiện thực 1930 – 1945 vận động trên dòng phát triển của thời cuộc. Sống và viết trong một giai đoạn có nhiều biến động, các nhà văn hiện thực phải nhạy bén nhận thức những chuyển biến của xã hội. Nhưng dù xã hội có thay đổi như thế nào thì những trang viết về cuộc đời vẫn sống mãi vì nó có tiếng nói riêng.

Dòng văn học hiện thực với sự xuất hiện của những nhà văn mới như Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân càng làm cho văn học có thêm những phẩm chất và giá trị mới. Khi nào ở đâu trong xã hội vẫn còn những bất công, đau khổ, còn có buồn chán và bế tắc thì ở đó còn cần phải được phê phán. Sự xuất hiện những tác phẩm mang màu sắc tự truyện của một số cây bút tiêu biểu đã góp phần làm cho văn học trở nên chân thực và gần gũi.

Nhìn chung văn học giai đoạn này đã phản ánh đúng đặc trưng của thời đại góp phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hoá nền văn học nước nhà.



Chuyên đề 2

THI NHÂN VIỆT NAM – DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
1. Nhìn một cách khái quát TNVN không duy nhất và đặc biệt đến mức khó lòng nhận ra vùng giao thoa văn học văn hóa của thời đại trong nó. Nói cách khác, Hoài Thanh đã ngẫu nhiên (hoặc tất nhiên) chịu ảnh hưởng hoặc sử dụng các diễn ngôn phê bình thơ Mới đương thời để bổ sung, phát triển, xây dựng một số luận điểm ở TNVN. Về điểm này, Hoài Thanh có lợi thế người trong cuộc, từng tham gia tranh đấu giành ưu thế cho thơ Mới, sẽ từ đại cảnh vừa diễn ra, cận cảnh những điểm nhấn, điểm nổi bật. Cái “lịch sử vấn đề thơ Mới” với Hoài Thanh là từ cuối 1934 trên Tiểu thuyết thứ Bảy nhưng ở TNVN, có thể nói, là sự chiết xuất ít nhiều từ các bài báo bênh vực thơ Mới dồn dập, các bài tựa tập thơ Mới liên tục ra đời. Một đồng nghiệp của Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, từ giữa năm 1936 đã liên tục đăng bài giới thiệu, bình phẩm thơ Mới trên Hà Nội báo với thái độ nhiệt thành không ngừng nghỉ. Trong khối tư liệu chưa thể nói đầy đủ nhất về thơ Mới lúc đó nhưng chính Lê Tràng Kiều đã gọi đây là “cuộc cách mệnh về thi ca” và đưa ra một loạt mệnh đề khá rõ ràng: “Từ bao giờ đến bây giờ, người ta đã có mấy lần một tâm hồn: Hùng tráng như Huy Thông; Dồi dào như Thế Lữ; Huyền diệu như Thái Can; Âm thầm như Đông Hồ; Trong sáng như Nhược Pháp…;Và một tâm hồn đầy âm nhạc, đầy mộng ảnh như Lưu Trọng Lư” (Hà Nội báo, 4/1936). Cả về cấu trúc lẫn ý tứ trong đoạn này đã được Hoài Thanh tái sử dụng, nâng cấp thành kết luận kinh điển bắt đầu bằng “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần…”. Chưa hết, cũng chính Lê Tràng Kiều lần lượt định danh thơ Mới Đông Hồ “là tình yêu, tình yêu trẻ trung đẹp đẽ, ngây thơ với bao nhiêu cái đức tính và đặc tính của tuổi trẻ” [TNVN: Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ]; thơ Mới Nhược Pháp “đã dựng lại một thế giới: ngày xưa” [TNVN: Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa]…

 

Xúc cảm và tuyển lựa những bài thơ hay của Lê Tràng Kiều, trong trường hợp Thế Lữ (Bên sông đưa khách, Vẻ đẹp thoáng qua), Lưu Trọng Lư (Tiếng thu), Vũ Đình Liên (Ông đồ) cũng có điểm tương đồng với TNVN.i[4] Ở khía cạnh khác, đóng vai gợi dẫn, định hướng cho bình phẩm của Hoài Thanh còn có lời tựa đi kèm trong các tập: Thơ thơ, Lửa thiêng, Mùa cổ điển, Điêu tàn. Vì thế, phát hiện thi sĩ mới Xuân Diệu “một linh hồn rạng rỡ và say mê, đằm thắm hiện ở trong những điệu thơ êm dịu và ái ân, thiết tha và bồng bột” của Thế Lữ; thơ Huy Cận “bay dậy tiếng địch buồn” của Xuân Diệu hay lẩy ra “cả một bầu không khí Tống, Đường” trong thơ Quách Tấn của Chế Lan Viên, sẽ được phục hồi, lưu dấu trong TNVN về sau. Hoài Thanh đủ tinh tế và nhanh nhạy để lĩnh nhận những tiên cảm mà người đi trước phác thảo, bao gồm cả những lá thư hẳn có chứa lời tự bình nhất định của chính các thi sĩ gửi cho tác giả TNVN, góp phần khả dĩ “điểm mặt” khi tuyển lựa. Nếu “có những tên chẳng gợi trong trí người ta chút kí ức nào cả” như Đinh Gia Trinh phát hiện [Thanh Nghị, 1942][ii[5]] thì được Hoài Thanh nhỏ to rằng bản thân có “rộng rãi” với mình nên “bài hay vừa tôi cũng trích” cốt để nói lên “cái đời bây giờ”. Nhưng một khi thời đại không thấy đó là thơ hay thì mặc lòng, TNVN có rung động thành thực tiến cử bao nhiêu, trong con mắt văn đàn, chủ nhân những bài thơ ấy vẫn làm “mất điểm” các thi sĩ có tiếng khi bị/được đứng chung, khiến mấy chục năm sau [1970], Nguyễn Vỹ vẫn lắc đầu khó hiểu trước sự chênh lệch đẳng cấp này. Nguyễn Vỹ cũng như vài “kẻ xa lạ” khác đã không được TNVN chào đón nồng nhiệt [iii[6]]. Vì chính Hoài Thanh rất thành thực chấp nhận “đứng ngoài” những “tâm hồn không lối vào” – một thế ứng xử không quá ngạc nhiên, vì, với bối cảnh lúc đó, thấu hiểu được những hồn thơ “bưng bít” như cách ông diễn đạt, mới là đáng ngạc nhiên… TNVN hẳn đã dự sẵn trong nó bản hợp đồng ngầm với cảm nghĩ của đại đa số lúc đó.



 

2. Sức hấp dẫn của TNVN, như nhiều người ái mộ luận bàn, là ở lối viết giàu chất trữ tình, khơi gợi, cảm xúc tràn đầy. Cách thức “lấy hồn tôi để hiểu hồn người” không chỉ diễn tả trọn vẹn quan điểm tuyển lựa TNVN mà còn chi phối hệ lời của Hoài Thanh khi bình phẩm. Hệ lời ấy, không đâu khác, là sản phẩm văn hóa thời đại mà khu biệt hơn, là dòng chảy thẩm mĩ lãng mạn đã len vào mọi sinh hoạt tư tưởng tinh thần, đặc biệt là sáng tác thơ ca. Với thẩm mĩ lãng mạn thì “hồn” là cội nguồn cảm xúc, vui buồn, rung động, yêu thích; cũng đồng thời là nấc thang giá trị quan trọng … nên, như Hoài Thanh thú nhận, “làm sao lời nói của tôi không đượm chút bâng khuâng lúc xem thơ”. Bâng khuâng là một lối ra của “hồn” vậy. Khi các lối ra nhận được mã tín hiệu phù hợp, nó trở nên thăng hoa. Dễ hiểu vì sao Hoài Thanh đồng điệu và viết rất nồng nhiệt về Xuân Diệu, bởi thi sĩ họ Ngô này là người cung cấp dồi dào các chứng từ về “hồn”: 7/15 bài được trích đều nhắc đến “hồn”, “linh hồn”. Từ đó, Hoài Thanh giải mã nó theo lối thẩm mĩ hóa tính từ trạng thái: cái ngạc nhiên, cái cốt cách, cái vẻ đài các, cái xôn xao, cái gì rung rinh, cái náo nức… Chúng là bằng cớ sinh động cho một giai đoạn cả cộng đồng say mê miêu thuật các trạng thái tình cảm bằng lối trang trọng, vượt ngưỡng từ loại để cho thấy tính thiêng liêng, cao vời của nó mà ngày nay nhìn/đọc lại, chúng ta không khỏi ngạc nhiên, thậm chí giễu nhại. Điều lạ lùng ở chỗ, có thể do tính duy cảm và trực giác đã tiếp tay cho lối phê bình dễ dãi nên nhiều người tỏ ra sùng kính quan điểm phê bình của Hoài Thanh rồi trưng dụng luôn hệ lời TNVN, biến không ít bài phê bình chỉ là bài phát biểu cảm tưởng kéo dài. Cũng phải nói thêm rằng, không ai ngoài Hoài Thanh có thể trả lời đầy đủ vì sao ông lại hắt hủi TNVN đến thế. Cũng khó có thể khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng vì sao TNVN được minh oan chiêu tuyết nhiều đến thế. Nhưng giữa hai động thái gần như trái ngược và tồn tại suốt nửa thế kỉ qua về/của TNVN như một trường hợp tiêu biểu cho phép chúng ta bước đầu cảm nhận: Ngữ cảnh văn hóa Việt Nam khiến rất nhiều cá nhân không an tâm trước sản phẩm mình làm ra và trong nhiều trường hợp, đã dùng đến những “biện pháp mạnh” để tiêu khử nó với một hi vọng không lời rằng đó cũng là cách để quẳng nó vào tương lai, hồi sau xem xét.

 

3. Trong khi Hoài Thanh, vào bối cảnh xã hội thay đổi, đã tự phê phán chính hệ lời mình từng say mê và sử dụng thì việc nhiều người đời sau suy tôn TNVN như một điển phạm, có lẽ, cần tỉnh táo. Nếu hàng ngàn bài viết, từ phổ thông đến đại học, đều trích dẫn TNVN mỗi khi nói về thơ Mới và nếu ai từng giảng dạy lâu năm, sẽ bắt gặp câu cửa miệng (đơn cử) “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới” mà nhiều thế hệ học sinh lặp lại một cách vô cảm khi nhắc tới Xuân Diệu thì chúng ta sẽ trưng đáp án nào cho câu hỏi về bước phát triển hay sự thay đổi của [khoa] học phê bình văn học, hay ít nhất, phê bình thơ Mới ? Chúng ta sẽ không coi biểu hiện trên là giá trị TNVN luôn “sống trong lòng công chúng” mà phải đối diện với một thực tế chắc chắn diễn ra nhiều năm: ít có công trình, thông tin nghiên cứu về thơ Mới nào được cập nhật kĩ càng ngoại trừ một TNVN đã “chắc suất” tại vị liên tục trong các bài giảng; hoặc, giả định đã giới thiệu nhưng phần đông đã quen khẩu vị TNVN nên không (thể) coi những công trình khác được tiếp cận và xây dựng bởi phương pháp khác là giá trị, là cứ liệu quan trọng để đối sánh, hậu bổ thêm những tri nhận về thơ Mới. Thực tế này xuất phát từ một nguyên nhân sâu xa, ấy là khi Hoài Thanh, nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Hưng Quốc, “đủ tinh tế để thấy hoa nhưng không đủ tinh tế để thấy mầm”[iv[8]] thì đa số độc giả đương thời và về sau sẽ tri âm với TNVN, nghĩa là tri âm với thơ Mới, nghĩa là tri âm với mĩ học chủ nghĩa lãng mạn. Kéo dài sự tri âm đó, vô hình chung, không kịp phát hiện và cổ vũ những đường hướng tuy khác lạ nhưng có thể báo hiệu giá trị mới. Hơn nữa, lối viết ngắn gọn, cảm xúc của TNVN làm an tâm độc giả khi đó vốn là những chủ thể háo của - ăn tình cảm lãng mạn. Nhưng độc giả hiện đại muốn có cách viết diễn ngôn, nơi các phán đoán thẩm mĩ là một thử thách trí tuệ. TNVN đã qui phạm hóa cái đẹp trong thơ Mới qua những tên tuổi nổi bật nhưng sẽ là ảo tưởng nếu hiện nay, ai đó muốn lặp lại kì tích như Hoài Thanh. Chờ đợi một Hoài Thanh đương đại sẽ phủ nhận vai trò độc giả hôm nay, những người có sức hấp thụ thẩm mĩ đa dạng và phức tạp, bị/chủ động phân hóa theo nhiều khuynh hướng khác nhau trước một bối cảnh văn học văn hóa toàn cầu muôn vẻ muôn màu.



 


Chuyên đề 3

TÍNH HIỆN ĐẠI CỦA THƠ MỚI

Thơ mới vượt ra ngoài không gian văn học vùng để tham gia vào một không gian văn học rộng lớn hơn là chiều hướng vận động có tính tất yếu đối với văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, trong đó có thơ. Đó cũng chính là quá trình hiện đại hóa. Đối với văn học Việt Nam, do trực tiếp tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn học Pháp, nên quá trình đó cũng chính là thế giới hóa và phương Tây hóa. Quá trình ấy diễn ra trên nhiều bình diện, từ sự cảm nhận thế giới, sự đồng hóa thế giới thành nội dung nghệ thuật đến sự sáng tạo và vận dụng các phương tiện diễn đạt… theo tinh thần hiện đại. Bài viết này chỉ nhấn mạnh một số biểu hiện tính hiện đại trên phương diện ngôn từ, một trong những vấn đề quan trọng đối với các nhà thơ trong phong trào thơ mới 1932-1945.



1. Trong văn học phương Tây, văn học tiền hiện đại chủ yếu chú trọng phương diện nội dung, xem vấn đề đề tài, chủ đề, nội dung các hình tượng quyết định giá trị của một tác phẩm. Văn học lãng mạn ra đời được xem như một “hủy thể” của chủ nghĩa cổ điển, tuy nhiên, do hầu hết các nhà văn lãng mạn gắn hoạt động văn học với những hoạt động xã hội và do sáng tạo trong thời đại người phương Tây đang còn lạc quan về quyền năng của tư duy duy lí nên sự đối lập với văn học cổ điển chủ yếu biểu hiện ở khuynh hướng tự do hóa, đề cao cảm xúc và tưởng tượng cá nhân, phản ứng tính công thức, qui phạm... Và vì vậy, dù đó là “một sự bùng nổ kinh động”, “chân trời không giới hạn”…, nhưng nhìn chung, sự quan tâm của các nghệ sĩ lãng mạn chủ yếu vẫn thiên về cái được biểu đạt chứ không phải cái biểu đạt. Sau sự thoái trào của trào lưu này, tương quan giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt dường như có sự sắp xếp lại, đặc biệt trong lĩnh vực ngôn từ, gắn liền với tinh thần “vị nghệ thuật”, bắt đầu từ phái Parnasse, và sau đó là sự ra đời của trào lưu hiện đại chủ nghĩa. Về sự hoán vị tương quan giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, Roland Barthes đã nêu nhận xét thú vị, có tính tổng kết: “Ý nhị cổ điển là ý nhị về các mối quan hệ, chứ không phải về từ: đó là nghệ thuật biểu đạt chứ không phải nghệ thuật phát minh…, người ta thích thú vì cách trình bày chúng chứ không phải vì sức mạnh và vẻ đẹp riêng của nó(1).

Trên thực tế, vai trò của ngôn từ  được đề cao một cách đặc biệt từ thế hệ các nhà thơ tượng trưng cuối thế kỉ XIX. Stéphane Mallarmé từng cho rằng thơ trước tiên là “ma thuật ngôn từ” và kêu gọi “hãy nhường sáng kiến cho những từ”. Cùng thời với Mallarmé, Arthur Rimbaud – một thiên tài vụt sáng - say mê phát minh “những loài hoa mới”, “những tinh cầu mới”, những ngôn ngữ mới chưa từng bị “ô uế”. Ông quan niệm chữ viết là một kinh nghiệm tự thân, nó “không tìm cách khoanh vòng thực tại mà (phải) là một phát kiến mới mẻ(2). Đứa con nghịch đạo của thế kỉ cực trị của tinh thần duy lí đã dứt khoát với ý nghĩ “lĩnh vực của khoa học là lĩnh vực mà sự vật hiện diện ấy thôi, chứ chưa phải lĩnh vực mà sự vật thể hiện ý nghĩa”(3), ý nghĩa hay linh hồn sự vật mới là điều đáng nói, chính nó mới làm nên giá trị cho nhà thơ. Nỗi bận tâm của Mallarmé hay Rimbaud đã trở thành nỗi bận tâm có tính đại điện cho nhiều thế hệ nhà thơ hiện đại. Và không phải ngẫu nhiên, không ít nhà thơ đã nhìn thấy ở Rimbaud hình ảnh một nhà thơ “tiên tri”, một người “ăn trộm lửa thiêng” trong công cuộc tìm kiếm ngôn từ mới, giải thoát nó khỏi vai trò vật lệ thuộc hay phương tiện thông tin về phong tục hoặc mô tả đời sống thường nhật. Muộn hơn, và cũng với tinh thần ấy, các học giả phái hình thức Nga đầu thế kỉ XX đã nêu yêu cầu sáng tạo ngôn từ thành vấn đề có tính lí luận, xem đó như là “yếu tố đặc biệt tạo điều kiện cho sự tồn tại của một tác phẩm văn học(4), thậm chí coi “lịch sử của thơ ca là lịch sử của ngôn từ”.

Nhìn chung, sự thay đổi từ quan niệm đến sự sáng tạo và sử dụng ngôn từ là một trong những thay đổi quan trọng của văn học hiện đại thế giới, và xu hướng của văn học hiện đại là ngôn ngữ phải trở thành công cụ khám phá thế giới của những điều chưa biết và bản thân nó cũng phải trở thành một khám phá. Tính hiện đại của thơ trên phương diện ngôn từ về cơ bản gắn liền với cốt lõi quan niệm ấy.

 2. Tính hiện đại của thơ mới như thế nào? Trong Đổi mới phê bình văn học, Đỗ Đức Hiểu nhìn nhận: “Thơ mới là một sáng tạo ngôn từ thơ về nhiều mặt; nó mở rộng câu thơ, bài thơ; nó đi vào chiều sâu của thơ bằng cấu trúc mới, cú pháp mới, từ ngữ mới, nhịp điệu mới”. Đó là một sự thay đổi toàn diện về mặt ngôn ngữ thơ, gắn liền với một thời đại thơ đang chuyển mình theo hướng hiện đại hóa. Tuy nhiên, những đổi mới ngôn từ của thơ mới không chỉ dừng ở những thay đổi về hình thức, mà còn có những thay đổi trên những bình diện khác có chiều sâu hơn, có tính “nổi loạn” hơn, gắn với cách nhìn và cách diễn đạt mới về thế giới và đời sống, và tuy mới dừng lại ở một bộ phận các nhà thơ nhưng nói được rất nhiều về triển vọng của thơ và văn học hiện đại nói chung.




tải về 202.64 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương