Văn minh và những Bất mãn từ nó Sigmund Freud (1856 1939)



tải về 0.76 Mb.
trang10/13
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích0.76 Mb.
#33083
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13
Trong dịp đó, một hành động của sự gây hấn đã không bị đàn áp đè nén, nhưng được đem ra thực hiện, nhưng nó là cùng là một hành động của sự gây hấn vốn nếu nó bị đàn áp đè nén ở đứa trẻ thì được cho là nguồn gốc của ý thức của nó về tội lỗi. Tại điểm này, tôi sẽ không nên ngạc nhiên nếu người đọc có kêu lên giận dữ: “Như thế, không có sự khác biệt nào dù một người giết cha của mình hay không – một người nhận được một xúc cảm về tội lỗi dù trong trường hợp nào!
Chúng ta có thể bỏ đi không nêu lên một vài nghi ngờ ở đây. Hoặc không đúng là cảm xúc lầm lỗi xuất phát từ tính hung hãn bị đàn áp đè nén, hoặc khác đi, toàn bộ câu chuyện giết cha là một hư cấu tiểu thuyết, và những trẻ con của người nguyên thủy đã không giết cha của mình thường xuyên nhiều hơn trẻ con ngày nay. Bên cạnh đó, nếu nó không phải là viễn tưởng hư cấu, nhưng một mảnh có thể có của lịch sử, nó sẽ là một trường hợp của một gì đó xảy ra vốn tất cả mọi người trông mong sẽ xảy ra - cụ thể là, của một người cảm thấy tội lỗi vì ông ta thực sự đã làm một gì đó mà không thể biện minh được. Và với sự kiện này, vốn sau hết tất cả, là một chuyện xảy ra tất cả mỗi ngày, phân tích tâm lý vẫn chưa đưa ra bất kỳ lời giải thích nào.
Đó là sự thật, và chúng ta phải làm như đã hứa với sự bỏ xót. Và chẳng phải là có bất kỳ bí mật lớn lao nào về vấn đề. Khi một người đã có một cảm xúc lầm lỗi sau khi đã phạm một hành động xấu ác hay trái luật, và vì nó, đúng hơn nên gọi tình cảm là hối hận [16]. Nó liên quan chỉ đến một hành động vốn đã thực hiện, và tất nhiên, nó giả định trước là một lương tâm - sự sẵn sàng để cảm thấy lầm lỗi - đã hiện hữu rồi trước khi hành động diễn ra.
Do đó, hối hận loại này không bao giờ có thể giúp chúng ta khám phá được nguồn gốc của lương tâm và ý thức về lầm lỗi nói chung. Điều gì xảy ra trong những trường hợp hàng ngày là thường như thế này: một nhu cầu bản năng thu lấy được sức mạnh để đạt được sự thỏa mãn, bất chấp lương tâm, vốn là sau tất cả, có sức mạnh của nó bị hạn chế; và với sự suy yếu tự nhiên của nhu cầu do sự nó đã được hài lòng, sự quân bình trước đây của sức mạnh được tái lập. Như vậy, phân tích tâm lý là có lý do chính đáng để không bao gồm trong thảo luận hiện tại, trường hợp của một ý thức về lầm lỗi đến từ hối hận, dù cho trường hợp như vậy xảy ra thường xuyên đến đâu, và dù cho sự quan trọng thực tiễn của chúng lớn lao cho đến đâu.
Nhưng nếu ý thức về lầm lỗi của con người đi ngược về đến tận sự giết hại người cha thời nguyên thủy, sau cùng tất cả, đó đã là một trường hợp của “hối hận”. Có phải chúng ta cho rằng một lương tâm và ý thức về lầm lỗi, ở thời điểm đó, như chúng ta đã giả định trước, đã không hiện hữu trước hành động? Nếu không thế, trong trường hợp này, hối hận đã từ đâu đến? Không nghi ngờ gì rằng trường hợp này sẽ giải thích cho chúng ta bí mật của cảm xúc lầm lỗi , và chấm dứt những khó khăn của chúng ta. Và tôi tin là nó có. Hối hận này đã là kết quả của tình cảm mâu thuẫn vừa yêu vừa ghét, có từ nguyên thủy, hướng về người cha.
Những đứa con trai ông ghét ông, nhưng chúng cũng yêu ông nữa. Sau khi thù ghét của họ đã được thỏa mãn từ hành động hung hãn gây hấn của họ, tình yêu của họ đã đi ra tiền diện trong sự hối hận của họ với hành động. Nó thiết lập super-ego bằng sự tự nhận nhập một, đồng hóa với người cha, nó đã cho cơ năng đó - super-ego - quyền lực của người cha, như được nghĩ như một trừng phạt cho hành động gây hấn họ đã tiến hành chống lại ông, và nó đã tạo ra những hạn chế vốn dự định để ngăn chặn một sự lập lại hành động đó.
Và vì khuynh hướng gây hấn chống lại người cha đã được lập lại trong những thế hệ tiếp nối, cảm xúc lầm lỗi , cũng vậy, vẫn tồn tại, và nó đã được làm vững mạnh thêm nữa bởi tất cả mỗi mảnh của gây hấn đã bị dập tắt và bị đem chuyển sang super-ego. Bây giờ, tôi nghĩ rằng, cuối cùng chúng ta có thể nắm vững hai điều hoàn toàn rõ ràng: phần do tình yêu đóng vai trong nguồn gốc của lương tâm, và tai họa không thể tránh khỏi của cảm xúc lầm lỗi . Cho dù một người có giết cha của mình, hoặc đã kiêng không làm như vậy, không thực sự là điều quyết định.
Một người là buộc vào phải cảm thấy có lầm lỗi dù trong trường hợp nào của cả hai, vì cảm xúc lầm lỗi là một biểu hiện của xung đột do mâu thuẫn, của đấu tranh đời đời giữa Eros và bản năng của hủy hoại hoặc của cái chết. Xung đột này bắt đầu tiến hành lập tức ngay khi con người bị đối mặt với công việc phải sống chung lẫn với nhau. Chừng nào cộng đồng không nhận lấy hình thức nào khác hơn là hình thức của gia đình, xung đột này nhất định buộc phải tự thể hiện trong mặc cảm Oedipus, để thiết lập lương tâm và để tạo ra xúc cảm đầu tiên về tội lỗi. Khi một nỗ lực được thực hiện để mở rộng cộng đồng, cùng một xung đột được tiếp tục trong những hình thức vốn phụ thuộc vào quá khứ; và nó thì được làm mạnh thêm và kết quả trong sự tăng cường sâu đậm hơn nữa ý thức về lầm lỗi.
Vì văn minh tuân theo một xung lực gợi tính dục nội tại, vốn là nguyên nhân khiến con người kết hợp thành nhóm ràng-buộc-chặt-chẽ, nó chỉ có thể đạt được mục tiêu này qua một sự củng cố ngày càng tăng của cảm xúc lầm lỗi . Điều gì đã bắt đầu trong liên hệ với người cha được hoàn tất trong liên hệ với cả nhóm.
Nếu văn minh là một tiến trình cần thiết của sự phát triển từ gia đình đến nhân loại như một toàn bộ, sau đó - như là một kết quả của cuộc xung đột bẩm sinh phát sinh từ mâu thuẫn, của cuộc đấu tranh vĩnh cửu giữa những khuynh hướng của tình yêu và cái chết - có ràng buộc không thể gỡ ra với nó một gia tăng về cảm xúc lầm lỗi , vốn có lẽ sẽ đạt đến những đỉnh cao mà cá nhân thấy khó chịu đựng nổi. Người ta thì được nhắc nhở đến sự buộc tội kể lại, do một nhà thơ lớn chống lại “Những sức mạnh trời cao”: -
Ihr führt in’s Leben uns Leben.

Ihr lasst den Armen schuldig werden,

Dann überlasst Ihr ihn den Pein,

Denn jede Schuld rächt Sich auf Erden. [17]


Và chúng ta cũng có thể thở dài nhẹ nhõm khi nghĩ rằng dù sao đi nữa nó vẫn ban cho một số ít người, khó mà gọi là một gắng sức, để vớt vát từ xoáy nước của những xúc cảm của chính họ, những chân lý sâu xa nhất, hướng về chúng vốn phần chúng ta còn lại phải mở lấy lối đi cho chúng ta, trong không ngừng mò mẫm sờ soạng bất an, giữa những bất định hành hạ khổ ải.

Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất


(Jan/2012)
(còn tiếp)

http://chuyendaudau.blogspot.com/


http://chuyendaudau.wordpress.com

[1] Internalize: trong tâm lý – chủ thể hóa - đồng hóa một thái độ hay cách ứng xử, thành bản tính tự nhiên hoặc do bắt chước không ý thức, hoặc bằng học tập.


[2] guilt: cảm giác phạm tội – làm điều gì sai trái, tự biết mình làm điều gì đó lầm lỗi, có trách nhiệm; đáng lẽ không nên làm; khác với cảm giác hổ thẹn (shame), Đây là những xúc cảm có tính cách đạo đức tự ý thức (self-conscious moral emotions) - sau khi làm một điều gì tự mình biết là không nên, một gì đó thường trực hơn, tạm gọi là lương tâm cảm thấy áy náy; đưa đến ăn năn, hối hận, sám hối; thí dụ - vì đã hại đến một ai khác (đâm xe vào một ai, gây tại nạn, gây thiệt hại cho mình hay người).
Mức độ nhẹ hơn là lúng túng, ngượng ngùng (embarrassment) ở mức độ thấp này, thiệt hại cũng nhẹ hơn, thí dụ trong trường hợp không thực sự tổn thương ai ngoài sự tự trọng chính mình (nói lỡ lời). Những xúc cảm này hướng nội về mình (self), tự phán đoán hay nhận thức chủ quan một kinh nghiệm cảm xúc xảy ra khi một người nhận ra hoặc tin rằng, dù đúng thực hay không, người ấy đã vi phạm một tiêu chuẩn đạo đức nào đó, và chịu trách nhiệm đáng kể đối với hành vi đó. Nó liên quan chặt chẽ và dẫn đến khái niệm hối hận (remorse) hay ăn ăn.
Nói chung, chúng ta có thể tìm thấy trong những sách giáo khoa tâm lý – sẽ cho chúng ta những định nghĩa và phân loại sâu rộng về những tình cảm này. Nhận định ở đây là những xúc cảm này là những sự kiện thực tại, chúng tác động trên chúng ta và thường là nguồn gốc những bệnh tâm thần. Chúng cũng liên hệ với câu hỏi về “lương tâm” – có là một thực thể hay không, hay chỉ mà một ảo tưởng (cũng như linh hồn) là điều còn bàn cãi. Nhưng câu hỏi quan trọng hơn, và ở đây, là về nguồn gốc của chúng, và tùy theo những giải thích nguồn gốc của chúng, sẽ đưa đên những tác dụng, ứng dụng khác biệt tùy khung cảnh và môi trường văn hóa, trong đó tôn giáo đóng một vai trò quan trọng.
Tôn giáo ở phương Tây, chủ yếu là Kitô – đã có một giải thích hết sức đặc biệt về nguồn gốc của cảm thức lầm lỗi; từ đây nó đã đẩy thành một khái niệm khác – sin, tội lỗi. Khái niệm này có màu sắc và nội dung giáo điều và khoác màu tín ngưỡng. Sin được giải thích và hiểu trong văn hóa Kitô là trạng thái hay hành động làm trái ý Gót, nên “tội” (sin) ở đây không hoàn toàn có nội dung như từ được dịch và xử dụng như tương đương trong văn hóa không-Kitô. Trong tiếng Việt, chẳng hạn, chúng ta nói “làm thế là có tội – với pháp luật, với làng xã, với cha mẹ, với đất nước,…”, có khi nói “làm như thế phải tội chết”, nghĩa là có tội, có thể phải chịu hình phạt của “đất trời” – sẽ bị đày “địa ngục” chẳng hạn, mới nhuốm màu tôn giáo, nhưng không tuyệt đối như “sin”. Trong văn hóa Kitô phương Tây, một người có tội (“sin”) – là có tội với Gót, không với ai khác.
Kitô (và Islam) kế thừa hầu hết nội dung khái niệm tội lỗi từ Judaism, và những ý tưởng từ Persia và Roma, chủ yếu qua diễn dịch của Augustine, là người đã thích nghi những ý tưởng của Plato với giáo lý Kitô. Tiếng Latin tội lỗi là culpa, một từ đôi khi thấy trong tài liệu pháp luật, ví dụ “mea culpa” có nghĩa là “lỗi của tôi (guilt)”
Theo giáo lý Kitô, tội lỗi và xấu hổ có nguồn gốc từ loài người phạm giới đầu tiên chống lại Gót, chúng là những hậu quả của tội lỗi nguyên thủy (original sin). Tội lỗi và xấu hổ do đó mật thiết gắn liền với khái niệm về sin tội lỗi – một sự cố ý phạm giới chống lại ý chí của Gót. Như vậy những khái niệm này khác biệt tùy khung văn hóa và những giải thích phổ thông và bình dân về nguồn gốc của chúng có tính văn hóa.
Giải thích của giáo lý Kitô thuộc loại này và nó khác biệt sâu xa, nếu không nói là đối nghịch với văn hóa quen thuộc của chúng ta, vốn chúng ta chịu ảnh hưởng nặng nề văn hóa Tàu (người Tàu dịch shame là tu tàm (羞惭), và guilt là tu quí (羞愧) – gốc từ “tu” 羞 là xấu hổ thẹn thùng. Khác biệt trên hai điều chính yếu và quan trọng.
Thứ nhất, quan niệm tội lỗi của đạo Kitô là xa lạ với văn hóa nước Tàu, đặc biệt là khái niệm về tội lỗi nguyên thủy đã đi ngược lại với sự sùng bái và tôn kính tổ tiên. Thứ hai, những giải thích trong kinh thánh về tội lỗi nguyên thủy đã quá nhấn mạnh về khía cạnh tình dục.
Nhục dục và và tình dục là trung tâm giáo lý về tội lỗi nguyên thủy (tội tổ tông). Augustine giải thích sự xấu hổ của Adam và Eve đã có từ kinh nghiệm về sự trần truồng của họ, đã ngầm ý nói về những sinh hoạt dục tình với bộ phận sinh dục của họ. Xấu hổ dẫn họ kết lá sung làm khố, che những gì trước đó tự nhiên phơi mở, sau đã được gọi là âm hộ (pudenda), cơ quan sinh dục bên ngoài con người, đặc biệt là của người phụ nữ; (từ pudere Latin, có nghĩa là gây ra sự xấu hổ).
Ngược lại, truyền thống Nho giáo của Tàu chấp nhận tình dục như là một phần nội tại của bản chất con người, sinh hoạt tình dục là tự nhiên, chuyện ăn nằm giao cấu như chuyện gió mưa của đất trời (đọc Bồ Tùng Linh). Tuy nhiên, những hoạt động tình dục ngoài giới hạn của mỗi cá nhân mới bị lên án, nhưng chủ yếu từ quan điểm xã hội. Một chấp nhận đầy đủ hơn về tình dục được tìm thấy trong Đạo giáo, xem hoạt động tình dục như là một biểu hiện tự nhiên của nguyên lý âm dương trong vũ trụ.
Freud mô tả và giải thích cảm giác này, như chúng ta thấy trong chương này - như là kết quả của một cuộc đấu tranh giữa ego và super-ego. Freud bác bỏ vai trò của Gót như một kẻ trừng phạt hay ban thưởng. Trong khi loại bỏ nguồn gốc thần bí tôn giáo (bệnh tâm thần vẫn được xem là bị “quỉ” nhập – phải mời những thày chăn chiên “trục quỉ” (exorcism)), ông đưa giải thích khác về nguồn gốc tâm lý của cảm giác về sai phạm, hổ thẹn, lầm lỗi thấy trong những bệnh nhân, ông đưa ra một nguồn gốc khoa học, của khoa tâm lý phân tích. Là một y sĩ, ông thấy điều này là động lực vô thức trong cá nhân đã góp phần vào tạo những bệnh tâm thần. Freud đã xem “chướng ngại của một cảm giác vô thức về tội lỗi ... như chướng ngại lớn nhất trên sự hồi phục cho bênh nhân”.
Đến đây, đặt trong toàn bộ giải thích của Freud, sự đè nén của văn minh trên bản năng tự nhiên của con người là điều không thể tránh khỏi – nên xúc cảm lầm lỗi, hay phạm tội – là xúc cảm thường trực vĩnh viễn của con người kết tập xã hội, con người văn minh; giáo dục, văn hóa có thể ngăn ngừa và xóa khỏi hay kiếm soát hữu thức, nhưng không thể xóa khỏi vô thức. Chính xúc cảm này đã được tôn giáo như Ki tô khéo léo lợi dụng (“sin”) và trên đó xây dựng cả một hệ thống tín điều và luân lý. Như thế, nó đánh vào chỗ yếu đuối, điểm đáng thương nhất của con người.
Tôi chú ý đến điểm này khi đi tìm lý do giải thích sự tồn tại dai dẳng của tôn giáo – dù chúng chứa đầy rẫy những nội dung phi lý – trong xã hội khoa học phát triển của con người phương Tây. Tôn giáo ở phương Tây dựng trên tình cảm, không trên lý trí, thế nên có lẽ bao nhiêu phê bình sắc bén trên cơ sở lý trí như Russell, Marx, Durkheim, hay Freud, hay hiện nay của những nhà vô thần mới (Hitchens, Dawkins, Harris) cũng có lẽ khó làm nó đổ được.
Nó bám chặt vào chỗ bị thương không thể tránh và dựng trên khổ đau không thể chữa được khởi từ đó của con người. Dĩ nhiên, nó chỉ an ủi xuông, hứa hẹn hão huyền, nhưng không bao giờ có ý định và cũng không thể chữa chạy được những thương đau của nhân loại. Như đã giới thiệu vội vàng trong lời dẫn nhập của tôi; tôi cũng sẽ khai triển điểm này sau.
[3] [ Cf. “The Economic Problem of Masochism” (1924c), Standard Ed., 19, 166-7]
[4] [Điều này nhắc một vai trò lĩnh đạo nổi tiếng của Rousseau. (Vấn đề do Rousseau nêu lên đã được Freud trich dẫn trọn vẹn trong bài viết ‘Our attitude towards Death (1915b), Stand Ed., 14, 298)]
[5] [Mọi người có nhận định sáng xuốt sẽ hiểu và đưa vào giải thích sự kiện là trong mô tả tóm tắt này chúng ta đã giới hạn mạnh mẽ những sự kiện mà trong thực tế xảy ra bởi tiến trình chuyển đổi dần dần, và nó không chỉ là một câu hỏi về sự hiện hữu của một super-ego, nhưng về sức mạnh tương đối và phạm vi ảnh hưởng của nó. Tất cả những gì đã được nói ở trên về lương tâm và tội lỗi, hơn nữa, là kiến thức phổ biến và hầu như không thể tranh cãi.]
[6] [nghịch lý này đã được Freud bàn luận trước đó, Xem, lấy thí dụ, chương V của The Ego and the Id (1923)]
[7] [Sự đề cao này trong đạo đức như là một hậu quả của sự không may, đã được Mark Twain minh họa trong một câu chuyện thú vị ngắn, The First Melon I ever Stole. Quả dưa lần đầu tiên ăn trộm là còn xanh. Tôi đã nghe chính Mark Twain kể lại câu chuyện, một trong những lần đọc trước công chúng của mình. Sau khi ông đã đưa ra nhan đề, ông dừng lại và tự hỏi như thể ông đã nghi ngờ: “Đó có phải là lần đầu tiên không?” Với điều này, tất cả mọi việc đã được nói xong. Quả dưa đầu tiên đã rõ ràng không phải là chỉ một.]
[8] Priestly religion – một hình thức tôn giáo với điển hình là đạo DoThái - Trong phần lớn lịch sử của dân DoThái, tôn giáo của họ được những thày tu quản lý. Những thày tu DoThái tạo thành một giai cấp đặc biệt, có quyền lực xã hội, kinh tế và chính trị vượt xa ngoài nhiệm vụ thực hiện những nghi lễ thiêng liêng tôn giáo trong những đền synagogue. Địa vị của giai cấp thày tu này chỉ đứng sau nhà vua.
[9] [Một giải thích rộng rãi hơn về những liên hệ của dân tộc Do thái với Gót của họ, có thể được tìm thấy trong Freud, Moses and Monotheism (1939a).]
[10] ['Gewissensangst.' Một vài nhận xét về thuật ngữ này được tìm thấy trong cước chú của người biên dịch trong chương VlI của Inhibitions, Symptoms alld Anxiety (1926d), Standard Ed., 20, 128.]
[11] Như đã đúng được nhấn mạnh bởi Melanie Klein và do những nhà văn khác tiếng Anh.
[12] Aetiological – thuộc về lý do gây bệnh.
[13] Hai loại chính của những phương pháp gây bệnh trong sự nuôi dạy giáo dục - quá nghiêm khắc và quá nuông chiều - đã được Franz Alexander đánh giá chính xác trong tập sách của ông Psychoanalysis of the Total Personality (1927) kết hợp với nghiên cứu của Aichhorn về sự phạm pháp (Wayward Youth, 1925) Sự “quá mức nhân hậu và đam mê lạc thú của người cha” là nguyên nhân của trẻ em hình thành một super-ego quá mức nghiêm khắc, bởi vì, theo ấn tượng của yêu thương mà họ nhận được, họ không có lối thoát nào khác cho tính gây hấn của họ ngoài cách biến nó vào bên trong.
Ở trẻ em phạm pháp, những người đã được nuôi dạy mà không có thương yêu, sự căng thẳng giữa ego và super-ego là thiếu vắng, và toàn bộ tính gây hấn của chúng có thể được dẫn đưa ra bên ngoài. Ngoài một số yếu tố tạo dựng có thể được xem là hiện hữu, do đó có thể nói, có một lương tâm nghiêm khắc phát sinh từ những hoạt động chung của hai yếu tố: sự thất vọng của bản năng, vốn nó tháo gỡ mọi ràng buộc, giải phóng tính gây hấn, và kinh nghiệm được thương yêu, vốn biến tính gây hấn vào bên trong và giao nó cho super-ego.
[14] Phylogenetic: the evolutionary development and diversification of a species or group of organisms, or of a particular feature of an organism. Với mỗi cá nhân trong từng chủng loại là ontogenesis - the development of an individual organism or anatomical or behavioral feature from the earliest stage to maturity.

[15] [Totem and Taboo (1912-13), Standard Ed., 13, 143]

[16] remorse

[17] [Goethe , Wilhelm Meister , “The Song of the Harper"


Với trái đất, trái đất mệt mỏi này, ngươi mang chúng ta

Với cảm giác tội lỗi ngươi để mặc ... bỏ đi không màng,

Sau đó, để ăn năn khốc liệt day dứt chúng tôi:

Một khoảnh khắc tội lỗi, nhưng một thời khổ hận! ,

Bản dịch của Carlyle

Couplet đầu tiên được kể như một liên kết với một giấc mơ trong quyển sách ngắn của Freud On Dreams (1901a), Standard Ed., 5,637 và639.]


Sigmund Freud - Văn minh và những Bất mãn từ nó (9)
Văn minh và những Bất mãn từ nó

Sigmund Freud

(1856 – 1939)
Das Unbehagen In Der Kultur (Vienna, 1929).

Civilization and Its Discontents (1930)


(tiếptheo)

Chương VIII


Đã đến cuối hành trình của mình, tác giả phải yêu cầu những người đọc tha thứ vì đã không có được một hướng dẫn khéo léo hơn, và vì đã không tránh cho họ những đoạn đường dài tẻ trống, và những khúc-tạm-rẽ-vòng đầy phiền hà. Không nghi ngờ gì rằng nó đã có thể được thực hiện tốt hơn. Tôi sẽ cố gắng, dù có trễ nãi, để làm một vài bổ sung.
Điểm quan trọng đầu tiên, tôi ngờ người đọc đã có ấn tượng rằng những cuộc thảo luận của chúng ta về cảm xúc lầm lỗi [1] đã phá vỡ khuôn khổ của bài luận văn này: rằng chúng chiếm quá nhiều không gian, để phần còn lại của nội dung-chủ đề của nó, vốn chúng không phải luôn luôn được kết nối chặt chẽ, đã bị đẩy sang một bên.
Điều này có thể đã làm hỏng cấu trúc bài viết của tôi; nhưng nó tương ứng trung thành với ý định của tôi để trình bày cảm xúc lầm lỗi - như là vấn đề quan trọng nhất trong sự phát triển của văn minh và cho thấy rằng cái giá chúng ta phải trả cho sự tiến bộ của văn minh là một mất mát trong hạnh phúc qua việc đẩy mạnh cảm xúc lầm lỗi lên thật cao [2].
Bất cứ điều gì vẫn còn nghe ra có âm thanh kỳ lạ về tuyên bố này, vốn là kết luận cuối cùng của nghiên cứu của chúng ta, có lẽ có thể được truy nguồn về quan hệ khá kỳ lạ - như vẫn chưa hoàn toàn giải thích được – vốn cảm xúc lầm lỗi có với ý thức của chúng ta. Trong trường hợp thông thường của hối hận, mà chúng ta coi là bình thường, xúc cảm này làm tự nó rõ ràng, đủ để ý thức có thể nhận biết được. Thật vậy, chúng ta quen với việc nói về một “ý thức về lầm lỗi” thay vì về một “xúc cảm về tội lỗi” [3].
Nghiên cứu của chúng ta về những bệnh nhiễu loạn thần kinh [4], vốn sau hết với chúng, mà chúng ta có được những mũi tên có giá trị nhất chỉ đến một sự hiểu biết về điều kiện bình thường, đưa chúng ta lên cao va chạm với một vài mâu thuẫn. Một trong những tình cảm này, chứng ám ảnh nhiễu loạn thần kinh, cảm xúc lầm lỗi làm tự nó được nghe vang động trong hữu thức, nó chi phối hình ảnh bệnh tình và cũng cả đời sống của bệnh nhân, và nó hầu như không cho phép bất cứ điều gì khác xuất hiện bên cạnh nó. Nhưng trong hầu hết những trường hợp và những hình thức khác của chứng nhiễu loạn thần kinh, nó còn lại là hoàn toàn vô thức, những dù không tính kể điều đó, vẫn không vì thế mà tác dụng của nó thành kém quan trọng hơn.
Bệnh nhân của chúng ta không tin chúng ta khi chúng ta gán thuộc tính “cảm xúc lầm lỗi vô thức” vào với họ. Để có thể làm chúng ta thành dễ hiểu với họ - dù cách nào đi nữa- chúng ta nói với họ về một nhu cầu vô thức với sự trừng phạt, trong đó cảm xúc lầm lỗi tìm được sự biểu hiện. Nhưng sự kết nối nó với một hình thức cụ thể của chứng nhiễu loạn thần kinh phải không được ước tính quá mức. Ngay cả trong chứng ám ảnh nhiễu loạn thần kinh, có những loại bệnh nhân không nhận thức được cảm xúc lầm lỗi của họ, hoặc những người chỉ cảm thấy nó như là một sự bất an [5] hành hạ, một loại bồn chồn lo lắng [6], như thể họ bị ngăn chặn không được đem ra thực hiện những hành động nhất định nào đó.
Cuối cùng, những điều này phải là có thể hiểu được, dẫu chúng ta tuy thế vẫn còn chưa thể hiểu. Ở đây, có lẽ chúng ta có thể lấy làm hài lòng khi được chỉ ra rằng cảm xúc lầm lỗi là nằm ở dưới đáy của không gì khác hơn ngoài một địa hình khác loại của của bồn chồn lo lắng; trong giai đoạn sau của nó, nó trùng khớp hoàn toàn với sợ hãi về super-ego.
Và những liên hệ của sự lo lắng với hữu thức trưng bày cùng những biến dạng khác thường. Lo lắng thì luôn luôn hiện diện ở chỗ nào đó, hoặc ở chỗ khác đằng sau tất cả mỗi triệu chứng; nhưng một lần, nó ồn ào chiếm toàn bộ của hữu thức, trong khi lần khác, nó giấu kín chính nó hết sức hoàn toàn, khiến chúng ta buộc phải nói về sự lo lắng vô thức hoặc như, nếu chúng ta muốn có một ý thức tâm lý rõ ràng hơn, vì trong trường hợp khởi đầu, lo lắng chỉ đơn giản là một xúc cảm [7], của những khả năng có thể có của sự lo lắng.
Kết quả là rất có thể mường tượng được rằng xúc cảm tội lỗi đã được văn minh tạo ra thì không được cảm nhận giống như vậy, và vẫn còn ở mức độ lớn rộng là vô thức, hoặc xuất hiện như là một loại khó chịu – malaise [8] , một sự không hài lòng, mà với nó, người ta tìm kiếm những động cơ khác. Những tôn giáo, ở bất kỳ mức độ nào, chưa bao giờ bỏ qua phần đóng vai của cảm xúc lầm lỗi trong nền văn minh.
Hơn nữa - một điểm mà tôi đã thất bại không thấu hiểu ở chỗ khác [9] - chúng tuyên xưng cứu chuộc loài người từ cảm xúc lầm lỗi này, mà chúng gọi là tội lỗi. Từ cách thức vốn trong đó, trong đạo Kitô, sự cứu chuộc này thì đạt đến được – bởi cái chết hy sinh của một cá nhân duy nhất, là người trong cách thức này đem nhận trên chính mình một cảm xúc lầm lỗi, vốn nó là phổ thông với tất cả mọi người - chúng ta đã có được khả năng để suy ra cơ hội đầu tiên có thể đã từng là gì, trong dịp đó, cảm xúc lầm lỗi nguyên thủy này, vốn cũng đã là khởi đầu của văn minh, đã được tiếp thụ [10].
Mặc dù nó không thể là có tầm quan trọng lớn, nó có thể không là thừa thãi để làm sáng tỏ ý nghĩa của một vài từ như “super-ego”, “lương tâm”, “cảm xúc lầm lỗi”, “cần phải bị trừng phạt” và “hối hận”, mà chúng ta đã thường xuyên, có lẽ sử dụng quá lỏng lẻo và thay thế lẫn nhau. Chúng tất cả đều liên quan đến cùng một trạng thái của sự việc, nhưng biểu thị những khía cạnh khác nhau của nó.
Super-ego là một tác lực [11] vốn đã được chúng ta suy luận, và lương tâm là một chức năng trong số những chức năng khác, mà chúng ta gán cho tác lực này. Chức năng này bao gồm trong việc giữ một canh chừng trên những hành động và những ý định của ego và phán xét chúng, trong việc hành xử một sự kiểm duyệt. Những cảm xúc lầm lỗi, tính khe khắt ác nghiệt của super-ego, như vậy là cùng một điều tương tự như mức độ nghiêm khắc của lương tâm.
Nó là nhận thức vốn ego đã bị canh chừng theo dõi trên cách này, việc đánh giá sự căng thẳng giữa những nỗ lực tranh dành riêng nó và những đòi hỏi của super-ego. Sự sợ hãi với tác lực then chốt này (một nỗi sợ hãi vốn nó là ở dưới cùng của toàn bộ quan hệ), sự cần thiết phải trừng phạt, là một biểu hiện có tính bản năng trên phần của ego, mà đã trở thành khổ dâm dưới ảnh hưởng của một super-ego tàn bạo; nó là một phần, đó là để nói rằng, thuộc bản năng hướng về hủy diệt ở bên trong, hiện diện trong ego, được sử dụng để hình thành một gắn bó mang tính gợi dục với super-ego.


tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương