Văn minh và những Bất mãn từ nó Sigmund Freud (1856 1939)



tải về 0.76 Mb.
trang2/13
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích0.76 Mb.
#33083
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13
Một người bạn khác của tôi, người có lòng khao khát kiến thức vô độ đã dẫn ông đến làm những thí nghiệm khác thường nhất, và đã kết thúc bằng đem cho ông một kiến thức bách khoa, đã đảm bảo với tôi rằng qua những thực hành Yoga, bằng cách rút mình khỏi thế giới, bằng cách sửa chữa sự chú ý của những chức năng cơ thể, và bằng những phương pháp đặc biệt của phép thở, một người trong thực tế có thể khơi dựng dậy những cảm giác mới, và một kết hợp những cảm giác hữu cơ bao gồm nhận thức về sự hiện hữu của cơ thể [19] trong tự thân một người, mà ông xem như là những hồi quy về với những trạng thái nguyên sơ của não thức vốn bị che phủ từ đã lâu rồi.
Ông nhìn thấy trong chúng một cơ sở sinh lý học, như nó đã là, thuộc nhiều về trí tuệ của chủ nghĩa thần bí. Là điều sẽ không khó để tìm thấy những kết nối ở đây với một số những biến cải mờ khuất của đời sống tinh thần, chẳng hạn như những nhập định và xuất thần. Nhưng tôi xúc động để kêu lên trong những lời của người thợ lặn của Schiller: -
“. . . Hãy để hắn cùng vui,

với những người thở trên kia trong ánh sáng hồng” [20]

Lê Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất

(Jul/2011)

(Còn tiếp...)
http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

Nguyên văn tiếng Đức: Sigmund Freud. Das Unbehagen In Der Kultur (Vienne, 1929).

Dịch từ bản tiếng Anh: Sigmund Freud. Civilization and its Discontents. Translated & Edited: James Strachey. W.W. Norton & Company. NewYork, 1961.


Có đối chiếu và tham khảo với một vài bản tiếng Anh hiện có khác, và bản dịch tiếng Pháp: Sigmund Freud. Malaise Dans La Civilisation. Traduit de L’Allemand par Ch. Et J. Odier. Presses Universitaires De France. Paris, 1971

[1] [The Future of an Illusion (1927c)] - Tương lai của một Ảo tưởng – bản dịch Lê DọnBàn:


Dịch theo bản : Sigmund Freud, Civilization and its Discontents, Ed. & Tr. James Strachey, Norton &Co., New York, 1961
Ở trang 36 – Freud định nghĩa “văn minh”: “Kultur”: tổng số những thành tựu và những quản thúc làm đời sống chúng ta khác biệt với đời sống thuần sinh vật trước đây của tổ tiên chúng ta, nó phụng sự hai mục đích – nêu tên là: bảo vệ con người chống lại thiên nhiên và điều chỉnh quan hệ tương hỗ giữa chính con người với nhau.
Những chú thích trong ngoặc vuông [ ] là của dịch giả bản Anh Ngữ của James Strachey.

Những chú thích khác, không trong ngoặc vuông – là của tôi - LDB.

[2] [Cước chú thêm 1931: Liluli (1939) – Kể từ sự xuất bản hai tập sách La vie de Ramakrisna (1929) và La vie de Vivekanada (1930), tôi thôi không dấu sự kiện là người bạn đã nói trên trong bài văn là Romain Rolland. (Rolland đã viết cho Freud về “xúc cảm đại dương” trong một lá thư Dec 5, 1927, không lâu sau khi The Future of an Illusion xuất bản)]
[3] Christian Grabbe, Hannibal : “Ja, aus der Welt warden wir nicht fallen. Wir sind einmal darin.”
[4] tiếng Pháp trong nguyên văn – “gốc và nguồn”
[5] Ego (“I” hay “Ich”), id (“it” hay “Es”), super-ego (“over-I” hay “Über-ich”) – Trong bản dịch này và những bản dịch khác của những tác phẩm của Freud – tôi đề nghị giữ nguyên những từ đặc biệt này của ông, trong tiếng Anh, như libido, ego, id, … lý do nếu dịch là gì đi nữa, cũng sẽ là phiền phức và quanh co hơn để tìm một ký hiệu khác thay thế cho chúng, mà sẽ không trọn nghĩa (thí dụ - ego không phải là bản ngã, id không là căn cước, libido không đơn giản là nhục dục,..). Chúng có những nội dung rất đặc biệt “Freud”, chúng ta nên để nguyên khi đọc ông.
Id là chỗ trụ của thèm muốn và bản năng, nó hoàn toàn vô thức. Ego, vốn phần lớn là hữu thức, bắt đầu như một cơ cấu tâm lý không phân biệt – như Freud trình bày ở chương I, Khi đứa trẻ học phân biệt giữa chính nó (ta) và những đối tượng nó ham muốn (cái khác), ego phát triển như là một cơ cấu phân tách với id. Sự phân biệt này kết quả từ những thất vọng ban đầu - khi những thàm muốn không được thỏa mãn của chúng ta. Khi Freud nói đến ego, ông nói về một thứ gì đó tự hiểu nó là ai. Còn super-ego là sự tự phê phán được chủ quan hóa. Sự chủ quan hóa như tiếng nói của người cha, hay của uy quyền.
- Lương tâm: Super-ego (Uber-Ich): Qui luật đạo đức xã hội
- Hữu thức: Ego (Ich): Tư tưởng, suy nghĩ, ý tưởng, hình ảnh (kể cả giấc mơ) trong hữu thức
- Vô thức: Id (Est): Những dục vọng không được chấp nhận, những bản năng xấu xa dơ bẩn đáng khinh.
[6] [Một vài chú thích về cách Freud dùng những thuật ngữ “ego” và “self” sẽ tìm thấy trong bài giới thiệu của người biên dịch tập The Ego and the Id (1923b), Standard Ed., 19,7. ]

[7] mental entity.

[8] [Cf. một cước chú ở Phần III của câu chuyện về trường hợp Schreber (1911c) Standard Ed., 12, 69. ]

[9] [Cf. nhiều bài viết về chủ đề phát triển-ego và cảm xúc-ego ghi năm tháng từ luận văn của Ferenczi trong ‘Những giai đoạn trong sự Phát triển của Xúc cảm và Thực tại’, (1913) đến những đóng góp của Federn những năm 1926, 1927 và muộn hơn.]


[10] [Trong đoạn văn này, Freud lập lại trên một mảnh đất quen thuộc. Ông đã bàn về vấn đề không lâu trước đó, trong luận văn về sự ‘Phủ nhận’ (1925h), Standard Ed., 19, 236-8. Nhưng ông đã bàn luận về nó trong nhiều dịp sớm hơn nữa. Xem, thí dụ, ‘Những bản năng và những thăng trầm của chúng’ (1915c), ibid, 14, 119 vad 134-6, và Sự diễn giải những giấc mộng (1900a), ibid., 5, 565-6. Nội dung cơ bản của nó, thực vậy, đã được tìm thấy trong ‘Project’ của năm 1895, những mục 1, 2, 11 và16 của phần I (Freud, 1950a).]

[11] [“hành động đặc biệt” của ‘Project’ ]


[12] Pleasure Principle – Nguyên tắc lạc thú: khái niệm của Freud, trình bày trong Beyond the Pleasure Principle, 1921, của ông. Id tuân thủ nguyên tắc này, vốn nó là những nỗ lực nhằm thỏa mãn những ước muốn đã thiết lập từ thơ ấu
Nguyên tắc lạc thú/không lạc thú, thường được gọi ngắn là nguyên tắc lạc thú, đòi hỏi bộ máy tâm lý tự động buông xả những kích thích khi chúng tích lũy đến cao hơn một ngưỡng cửa nhất định nào đó, và có kinh nghiệm như không lạc thú. Nguyên tắc này điều hành sự hoạt động của những quá trình chính yếu và là cơ sở cho quan điểm kinh tế trong triết lý tâm lý (metapsychology).
“Lustprinzip” trong tiếng Đức, được dịch sang tiếng Anh là “pleasure principle”, chúng ta tạm dịch là “Nguyên tắc lạc thú” . “Lust” trong tiếng Đức thực sự có hai nghĩa: một nghĩa của niềm vui, nhưng còn có nghĩa là ao ước, hoặc muốn. “Lust haben auf” là thành ngữ phổ thông nhất cho “muốn, ao ước có”.
Nên nguyên tắc lạc thú cũng là nguyên tắc ao ước: Bộ máy tâm lý không có thể làm gì khác hơn ngoài mong muốn, Freud nói vậy. Tương tự như vậy, đối với “Unlustprinzip” là “nguyên tắc không lạc thú”. Trong The Interpretation of Dreams (1900a) - “Unlust” cũng có nghĩa là không thích, không muốn, ác cảm. Có những dịp, hữu thức chúng ta quay đi, làm ngơ, và tránh né trước những gì mình có ác cảm, không thích,
Bản chất hai mặt của nguyên tắc lạc thú:
Trong biểu hiện tích cực của nó, nguyên tắc này đơn giản là xung lực nội tại ích kỷ đòi thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của chúng ta; nó là một xu thế săn đuổi chạy theo sau lạc thú. Nhưng chúng ta nhanh chóng nhận ra rằng thế giới bên ngoài và những người khác cũng có những đòi hỏi, hoặc chúng can thiệp, hoặc ngăn chặn trực tiếp hay gián tiếp không cho chúng ta thỏa mãn nhiều những đòi hỏi của chúng ta – nên xuất hiên nguyên tắc thực tế, đây là chỗ và lúc chúng ta ý thức rằng những mong ước của chúng ta không có thể thỏa mãn tất cả, và nếu thỏa mãn cũng không trọn vẹn, như ý.
Điều này dẫn tới biểu hiệu thứ hai, tiêu cực của nguyên tắc lạc thú: cố gắng tránh thất vọng, bất mãn càng nhiều càng tốt – Từ chỗ này, chúng ta học được từ chối những đòi hỏi, mong ước vốn tự thấy trước không thể thỏa mãn, thành công; khi tự từ chối chúng như thế, chúng ta sẽ bớt chịu bất mãn, ít đau khổ hơn là đuổi theo chúng rồi đi đến tan vỡ thất bại không tranh khỏi.
Những biện pháp xoa dịu giảm nhẹ: Những chiến lược giúp chúng ta tránh những đau khổ của cuộc sống:
Chuyển hướng: chúng ta chuyển dòng chảy những nhu cầu và mong muốn của chúng ta vào những khu vực nơi chúng có thể dễ dàng được thỏa mãn. Trong phạm trù này, Freud bao gồm những hoạt động khoa học hoặc những hình thức khác của thành tựu chuyên môn. Đây là những đường lối gặp kháng cự ít nhất (Liên kết nhất với thực tại.)
Thay thế những thỏa mãn: đây là những hình thức đền bù cho sự thiếu niềm vui ở những nơi khác. Freud liệt kê ở đây tất cả những hình thức của ảo giác, ảo tưởng, bao gồm nhiệt tình tôn giáo, tưởng tượng, trốn thoát vào nghệ thuật, v.v.
Say sưa, nhiễm độc: chúng ta thoát khỏi sự khó chịu, bất hạnh của chúng ta bằng cách quên chúng đi, tránh chúng sang một bên, và chúng ta quay sang tự nhiễm độc bằng rượu, ma túy, v.v Ở đây chúng ta xử lý những triệu chứng, kết quả (bất hạnh của chúng ta), không phải nguyên nhân (những lý do của bất hạnh). Như những chiến lược né tránh và từ chối, Tự nhiễm độc có thể làm tăng bất hạnh thực sự chúng ta vốn muốn phá vỡ. (Xa thực tại nhất).
Những phản ứng điển hình của nhu cầu của lạc thú này và tự bảo vệ trước sự bất mãn:
1) rút lui = những người sống ẩn dật, sống khổ hạnh, như cuộc sống của những đạo sĩ, tu sĩ trong những tôn giáo; giết chết bản năng;
2) tiếp tục tấn công = những con người của hành động, như những chính trị gia, những nhà cải, vv; kiểm soát bản năng;
3) hoán chuyển hoặc thăng hoa = tìm kiếm lạc thú thông qua những nguồn thay thế mà trong đó người ta có kiểm soát hơn, chẳng hạn như khảo cứu khoa học, truy tầm kiến thức..vv, thay thế hoán chuyển thỏa mãn, đổi những con đường ức chế với những lối dễ dàng đạt được hơn;
4) thoát vào ảo tưởng = tưởng tượng, tôn giáo, những thuốc có dược tính tác dụng não thức, vv;
5) áp dụng một thái độ "thẩm mỹ" = nuôi dưỡng một tình yêu với vẻ đẹp (thực chất là một sự hài lòng thay thế), nghệ thuật, một cách thức cụ thể cho việc tìm kiếm sự hài lòng = tìm những gì đẹp trên thế giới, nhìn thấy khía cạnh “tích cực” của tất cả mọi thứ; - thái độ “cốc rượu không bị vơi một nửa, nhưng còn đầy một nửa”.
6) ôm lấy hoặc thay đổi thế giới: chuyển sang hoạt động từ thiện và những hình thức tham gia vào sự chăm sóc thế giới và xã hội = chuyển Eros vào Caritas, tình yêu đại đồng và quan tâm phụng sự nhân loại; làm việc đẻ cải thiện thực tại, để làm bớt đi những cơ hội và điều kiện gây bất hạnh cho tất cả con người.
[13] Reality principle – nguyên tắc thực tế - Nguyên tắc thực tế: Một khái niệm khác nữa của Freud: nguyên tắc thực tế là vị thống đốc thực sự của những hành động được ego thực hiện, và luôn luôn phản đối lại nguyên tắc lạc thú của Id. Vai trò của nó có thể xem như áp đặt một điều chỉnh trên nguyên tắc lạc thú, thường là cố gắng hòa giải những ham muốn của id với thực tế; do đó nó có tính toán đến những ảnh hưởng của thế giới bên ngoài.
Nguyên tắc thực tế là một trong hai nguyên tắc chính chi phối hoạt động của não thức. Nó chỉ định nhận thức cần thiết của tâm lý về những thông tin liên quan đến thực tại và đứng tương phản với nguyên tắc lạc thú tìm kiếm việc buông xả hoặc loại bỏ những căng thẳng bằng mọi giá. Mặc dù những nguyên tắc thực tế được chính thức đưa vào vốn từ vựng của Freud vào năm 1911 (“Formulations on the Two Principles of Mental Functioning” nó có thể được tìm thấy ở dạng tiềm ẩn trong những suy nghĩ của ông từ sớm hơn (“Project for a Scientific Psychology” - 1895)
Sự cần thiết cho một khái niệm như vậy phát sinh tại thời điểm như là một kết quả của một mâu thuẫn nội bộ trong nguyên tắc lạc thú, hoặc cụ thể hơn, trong khái niệm hoàn thành mong muốn bằng ảo giác, có xu hướng đánh lừa bộ máy tâm thần và làm nó tổn thương khi tạo ra một sự thỏa mãn hư ảo giả tạo, chứ không thực tại.
[14] [Cf. ‘Formulations on the Two Priciples of Mental Functioning’ (1911b), Standard Ed., 12 222-3]

[15] saurians

[16] [một cước chú về vấn đề đã được Freud thêm vào năm 1907, trong đoạn F của chương cuối của The Psychopathology of Everyday Life (1901b), Standard Ed., 6, 274-5]

[17] [Dựa trên The Cambridge Ancient History, 7 (1928): ‘The Founding of Rome’, Hugh Last]


[18] Narcissism: Thuật ngữ narcissism, như nội dung câu chuyện Narcissus trong thần thoại HyLạp, chỉ tình yêu với chính mình, tự-yêu-mình. Khái niệm này đã được giới thiệu trong công trình của Freud một thời gian ngắn trước khi xuất bản “On Narcissism: An Introduction” (1914c). Bài viết này là một phản ứng với bốn vấn đề liên quan: những khó khăn gặp phải trong phân tâm học trong khi làm việc với neurotics, những tranh cãi với Jung,
người bảo vệ ý tưởng về sự hiệp nhất của năng lượng tâm lý (unity of psychic energy), tranh luận với Adler về vai trò của “phản đối nam tính” (masculine protest) trong sự hình thành triệu chứng, và trên tất cả là sự quan tâm ngày càng tăng của Freud về những bệnh rối loạn tâm thần (psychoses), mở đường cho việc nghiên cứu ego (1923a).
Đưa ra khái niệm của quá-yêu-chỉ-mình, Freud (1914c) có ý định cho thấy bốn hiện tượng khác nhau có liên quan như thế nào: narcissism như sự suy bại, lầm đường về tình dục; narcissism như một giai đoạn phát triển tâm lý; narcissism là sự truyền nghị lực cho libido; và narcissism là sự lựa chọn đối tượng. Ông cũng mô tả một ego lý tưởng là người thừa kế của narcissism trẻ con và như một cơ năng tâm linh tự-quan sát. Hai khái niệm này sẽ được Freud về sau khai triển chi tiết.
Trong trường hợp của narcissism là sự lựa chọn đối tượng: một người yêu thương “(a) những gì là chính hắn (tức là chính người ấy), (b) những gì hắn đã là, (c) những gì bản thân hắn muốn giống như, trở nên, sẽ là, (d) người nào đó đã từng là một phần của chính hắn”.

[19] Coenaesthesias – hay coenesthesia, coenesthesis, cenesthesia, cenesthesis

[20] tiếng Đức trong bản Anh ngữ: “. . . Es freue Sich. Wer da atmet rosigten im Licht”. Schiller - ‘Der Taucher’
Sigmund Freud - Văn minh và những Bất mãn từ nó (3)
Văn minh và những Bất mãn từ nó

Sigmund Freud

(1856 – 1939)
Das Unbehagen In Der Kultur (Vienne, 1929).

Civilization and Its Discontents (1930)


(tiếp theo)
Chương II
Trong Tương lai của một Ảo tưởng của tôi, tôi đã quan tâm rất ít về những nguồn sâu xa nhất của xúc cảm tôn giáo, không nhiều như về những gì con người thông thường hiểu tôn giáo của mình – với hệ thống những giáo lý và những hứa hẹn vốn một mặt giải thích cho hắn những câu đố khó hiểu của thế giới này với sự toàn vẹn đáng thèm thuồng, và mặt kia, đảm bảo với hắn rằng một Gót phù trợ [1] cẩn thận sẽ dõi theo cuộc đời của hắn, và sẽ đền bù cho hắn trong một đời sống tương lai bất kỳ thất bại nào hắn chịu khổ nơi đây.
Con người thông thường không thể tưởng tượng Gót phù trợ này một cách nào khác hơn trong hình ảnh của một người cha vĩ đại cao vời. Chỉ có một hữu thể như vậy mới có thể hiểu được nhu cầu của con cái của loài người, và có thể làm mềm lòng được bằng lời cầu nguyện của họ, và ngôi ngoai bớt giận dữ bởi những dấu hiệu của sự hối hận của họ.
Toàn bộ sự việc rõ rành rành là quá đỗi trẻ con, quá đỗi xa lạ với thực tại, đến nỗi với bất cứ ai có một thái độ thân thiện với nhân loại là đau đớn khi nghĩ rằng đại đa số những kẻ trong tử sinh đó sẽ không bao giờ có thể vượt lên trên quan điểm này của đời sống. Điều lại còn xấu hổ hơn nữa khi khám phá có một số lớn đến như thế nào gồm những người đương sống ngày nay, những người không thể chỉ thấy rằng tôn giáo này là không biện hộ, bảo vệ được, tuy nhiên cố gắng để bảo vệ nó từng mảnh một, trong một loạt những hành động tháo chạy chống trả sau lưng đáng khinh.
Một người sẽ thích lẫn vào giữa hàng ngũ của những tín đồ ngõ hầu gặp những triết gia này, là những người nghĩ rằng họ có thể giải cứu Gót của tôn giáo bằng cách thay thế ông với một nguyên lý trừu tượng, mờ ảo ẩn hiện, không cá tính người, và để nói với những tín đồ những lời cảnh cáo: “Ngươi chớ lấy tên của Đấng là Gót của ngươi để làm chuyện chơi”. Và nếu một vài trong số những người tên tuổi của quá khứ đã hành động cùng một lối, không thể gọi thí dụ về họ để làm một trưng dẫn: chúng ta biết tại sao họ đã buộc phải thế.

Chúng ta hãy cùng trở lại với con người thông thường và với tôn giáo của anh ta - tôn giáo độc nhất vốn nó phải mang tên gọi đó. Việc đầu tiên mà chúng ta nghĩ đến là câu nói quen biết của một trong những nhà thơ lớn và nhà tư tưởng của chúng ta liên quan đến quan hệ giữa tôn giáo với nghệ thuật và khoa học:


Ai là người sở hữu khoa học và nghệ thuật cũng có tôn giáo;
Nhưng ai là người không sở hữu một nào cả trong hai, hãy để hắn có tôn giáo! [2]
Câu nói này, về một mặt, vẽ một phản đề giữa tôn giáo và hai thành tựu cao nhất của con người, và mặt kia, khẳng định rằng, đối với giá trị của chúng trong đời sống, những thành tựu đó và tôn giáo có thể đại diện hoặc thay thế lẫn nhau. Nếu chúng ta khởi đầu cũng định tước mất khỏi con người thông thường (người không có khoa học mà cũng chẳng có nghệ thuật) tôn giáo của anh ta, chúng ta rõ ràng sẽ không có uy tín nhà thơ về phía chúng ta.
Chúng ta sẽ chọn một lối đặc biệt để đưa chúng ta đến gần hơn một sự hiểu biết giá trị những từ của ông. Đời sống, như chúng ta thấy, nó quá khó cho chúng ta; nó mang đến cho chúng ta quá nhiều những đau đớn, những thất vọng và những công việc không thể làm được. Ngõ hầu để gánh vác nó, chúng ta không thể miễn trừ những biện pháp xoa dịu đỡ đau. “Chúng ta không thể làm mà không có những xây dựng phụ trợ”, như Theodor Fontane [3] bảo chúng ta.
Có lẽ có ba biện pháp giống như thế: những tiêu khiển mạnh mẽ, vốn làm khổ sở của chúng ta nhẹ đi; những thỏa mãn thay thế, vốn làm giảm thiểu nó, và những chất say sưa, làm cho chúng ta vô cảm với nó. Một điều gì đó thuộc loại này là không thể thiếu [4].
Voltaire có những tiêu khiển làm khuây khỏa trí não khi ông kết thúc Candide với lời khuyên mỗi người hãy trồng tỉa vườn cây của mình; và hoạt động khoa học cũng là một sự tiêu khiển của loại này. Những thỏa mãn thay thế, như được nghệ thuật cung cấp, là những ảo tưởng trái ngược với thực tại, nhưng chúng không kém hiệu quả tâm lý chút nào, nhờ vào vai trò mà fantasy [5] đã đảm đương trong đời sống tinh thần. Những chất say sưa ảnh hưởng đến cơ thể của chúng ta và thay đổi hóa học của nó. Đó không là vấn đề đơn giản để xem tôn giáo có vị trí của nó ở đâu trong chuỗi này. Chúng ta phải nhìn ra ngoài xa hơn.
Câu hỏi về mục đích của đời người đã được nêu lên nhiều lần không đếm nổi; nó vẫn chưa từng bao giờ nhận được một câu trả lời thỏa đáng, và có lẽ sẽ không nhận được lấy một. Một vài trong những người hỏi câu hỏi đó, đã thêm rằng nếu như kết quả xoay thành đời sống không có mục đích, nó sẽ mất hết tất cả giá trị với họ. Nhưng đe dọa này không thay đổi được gì.
Có vẻ, về ngược lại, như thể người ta có một quyền gạt bỏ câu hỏi, bởi vì nó có vẻ xuất phát từ sự tự cao tự phụ của con người, nhiều những biểu hiện khác của nó chúng ta đã quen thuộc rồi.
Không có ai nói về mục đích của đời sống của loài vật, trừ khi, có lẽ, nó có thể được giả định nằm trong tư thế phục vụ cho con người. Nhưng quan điểm này cũng không biện hộ được, vì có nhiều loài động vật mà con người không thể làm được gì cả, ngoại trừ việc mô tả, phân loại, và nghiên cứu chúng; và vô số loài động vật đã trốn thoát ngay cả điều này, bởi vì chúng đã tồn tại và trở thành tuyệt chủng trước khi con người đặt mắt nhìn chúng.
Lại một lần nữa, chỉ tôn giáo có thể trả lời câu hỏi về mục đích của đời sống. Người ta khó có thể sai lầm khi kết luận rằng ý tưởng đời sống có một mục đích là chìm và nối với và chỉ có trong hệ thống tôn giáo.
Do đó chúng ta sẽ chuyển đến câu hỏi kém tham vọng hơn về những gì là mục đích và ý định của đời sống của con người qua ứng xử của họ tự cho thấy. Họ đòi hỏi gì từ đời sống và mong đạt được gì ở trong đó? Câu trả lời cho điều này khó có thể bị nghi ngờ. Họ dồn nhắm vào hạnh phúc; họ muốn trở nên hạnh phúc và giữ tiếp được như vậy. Nỗ lực này có hai mặt, một mục tiêu tích cực và một tiêu cực.
Một mặt, nó hướng mục tiêu đến một sự vắng mặt của đau đớn và khó chịu bực mình, và mặt kia, hướng đến kinh nghiệm có những xúc cảm mạnh mẽ của khoái trá sung sướng. Trong ý nghĩa hẹp hơn của nó, từ “hạnh phúc” chỉ liên quan đến điều sau. Phù hợp với sự phân đôi này trong mục tiêu của mình, hoạt động của con người phát triển theo hai hướng, tương ứng khi nó tìm kiếm để nhận ra - trong chính yếu, hoặc thậm chí chỉ chuyên vào - một trong hai mục tiêu này.
Như chúng ta thấy, những gì quyết định mục đích của đời sống chỉ đơn giản là chương trình của nguyên tắc lạc thú. Nguyên tắc này chi phối hoạt động của bộ máy trí não từ khởi đầu. Không thể có nghi ngờ nào về sự hữu hiệu của nó, và dẫu chương trình của nó là bướng bỉnh tranh chấp với toàn bộ thế giới, với những cực lớn cũng nhiều như với những cực nhỏ. Không có cơ hội nào cả về sự nó thực hiện được cho xong hết; tất cả những quy định của vũ trụ chạy ngược chiều với nó. Người ta cảm thấy nghiêng về nói rằng chủ định để con người sẽ được “vui sướng” không được gồm trong kế hoạch của “Sáng tạo”.
Những gì chúng ta gọi là sự vui sướng trong ý nghĩa chặt chẽ nhất, đến từ sự thỏa mãn (tốt nhất là đột ngột) của những nhu cầu vốn chúng đã bị ngăn dồn ứ đến một mức độ cao, và là từ bản chất của nó, nó chỉ có thể có được như một hiện tượng từng đoạn, không liên tục.
Khi bất kỳ tình huống nào được nguyên tắc lạc thú mong muốn và được kéo dài, nó chỉ tạo ra một xúc cảm thỏa mãn dịu nhẹ. Chúng ta đã được tạo dựng đến nỗi chúng ta chỉ có thể rút ra được vui thú mãnh liệt từ một tương phản, và rất ít từ một trạng thái của những sự vật [6].
Thế nên những khả năng của chúng ta về hạnh phúc là đã bị sự tạo dựng của chúng ta hạn chế rồi. Không-vui-sướng thì trải qua rất ít khó khăn hơn. Chúng ta bị đe dọa với đau khổ từ ba hướng: từ cơ thể của riêng chúng ta, cuối cùng tất phải thối rữa và phân hủy, và thậm chỉ nó lại không thể không đi kèm đau đớn và khắc khoải như những dấu hiệu báo trước; từ thế giới bên ngoài, có thể cuồng nộ chống lại chúng ta với những sức mạnh áp đảo và tàn nhẫn của tàn phá; và cuối cùng từ những quan hệ của chúng ta với những con người khác.
Sự đau khổ đến từ nguồn cuối này có lẽ với chúng ta là đau đớn hơn so với bất kỳ nguồn nào khác. Chúng ta có xu hướng xem nó như một loại thêm thắt vô cớ, một phụ kiện thừa thãi, mặc dù so với đau khổ đến từ đâu đâu khác, nó không thể là kém bất kỳ tính định mệnh không thể tránh được nào.
Đó là không tự hỏi, nếu dưới áp lực của những khả năng của đau khổ này, con người thành thói quen điều hòa những tham vọng của mình với hạnh phúc - cũng đúng như nguyên tắc lạc thú, quả thật vậy, dưới ảnh hưởng của thế giới bên ngoài, tự nó đã thay đổi thành nguyên tắc thực tế khiêm tốn hơn - , nếu một người nghĩ mình hạnh phúc chỉ đơn thuần là đã tránh khỏi sự bất hạnh, hoặc đã còn được sống sót sau đau khổ của mình, và nếu trong tổng quát, công việc tránh đau khổ đẩy công việc nhận vui sướng ra sau hậu trường.
Suy tưởng phản ảnh cho thấy sự hoàn thành công việc này có thể được gắng gỏi theo những con đường rất khác nhau, và tất cả những con đường này đã được nhiều trường phái khác nhau của khôn ngoan thế gian khuyên bảo giới thiệu, và có nhiều người đã đưa vào thực hành.
Một sự thỏa mãn không bị hạn chế với mỗi nhu cầu trình bày chính nó như là phương pháp hấp dẫn nhất để dẫn đạo đời một người, nhưng nó có nghĩa đặt vui thú trước thận trọng, và chẳng mấy chốc mang hình phạt riêng của nó lại.
Những phương pháp khác, trong đó tránh khó chịu không vui là mục đích chính, được phân biệt theo nguồn gốc của sự khó chịu không vui mà chú ý của họ chủ yếu quay hướng về. Một vài những phương pháp này là cực đoan và một vài là ôn hòa; một vài là một chiều, và một vài tấn công vấn đề ở nhiều điểm cùng một lúc.
Chống lại đau khổ vốn có thể đến với một người từ những quan hệ con người, sự phòng chống sẵn sàng nhất là tự nguyện cách ly, giữ mình xa cách người khác. Hạnh phúc có thể đạt được dọc theo lối này, như chúng ta thấy, là hạnh phúc của sự tĩnh lặng. Chống lại thế giới hãi hùng bên ngoài, một người chỉ có thể bảo vệ chính mình bằng một vài loại thuộc kiểu quay đi cho xa khỏi nó, nếu người ta định giải quyết công việc tự một mình.

Có đó, quả thật vậy, lối khác và tốt hơn: đó là trở nên một thành viên của cộng đồng nhân loại, và với sự giúp đỡ của một kỹ thuật được khoa học hướng dẫn, xem xét sự tấn công chống trả thiên nhiên và đặt thiên nhiên dưới ý chí con người. Sau đó, một người làm việc với tất cả, vì lợi ích của tất cả. Nhưng những phương pháp đáng chú ý nhất của sự ngăn tránh đau khổ là của những phương pháp mà chúng tìm cách ảnh hưởng đến cơ cấu sinh vật của chúng ta.



tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương