Văn minh và những Bất mãn từ nó Sigmund Freud (1856 1939)



tải về 0.76 Mb.
trang13/13
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích0.76 Mb.
#33083
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13
Như Freud viết, “Nếu nền văn minh đòi hỏi phải có những hy sinh như vậy, không chỉ về tình dục nhưng cũng những khuynh hướng gây hấn hung hãn trong nhân loại, chúng ta có thể hiểu được nhiều hơn lý do tại sao nó thật là quá khó khăn như vậy để con người có thể cảm thấy hạnh phúc trong đó. Trong thực tế, con người nguyên thủy được may mắn hạnh phúc hơn về phương diện này, vì hắn không biết gì đến bất kỳ một hạn chế nào với bản năng tự nhiên của mình.
Người Cha nguyên thủy và Di sản tâm lý của ông
Trong Totem and Taboo (1913), lần đầu tiên Freud giới thiệu một trong những suy đoán văn hóa gây tranh cãi nhất của ông: ông giả định rằng các xã hội con người nguyên thủy được tổ chức giống như của các loài vượn người, trong đó có một con đực giữ ưu thế (người cha nguyên thủy), đặc biệt con đực này nắm độc quyền về sinh hoạt tình dục với những con cái trong bầy.
Freud cho rằng cuối cùng những đứa con trai đã hợp nhau lại, giết chết người cha, đóng vai tộc trưởng áp bức của họ, tuy nhiên, hành động này đã tạo chấn thương tâm lý sâu xa và lâu dài.
Theo Freud, hối hận đến sau hành động này đã đưa đến cảm giác sai phạm, lầm lỗi đầu tiên, và người cha nguyên thủy đã được nội tại hóa trong mỗi cá nhân, thành tác năng ông gọi là super-ego cấm đoán. Người cha nguyên thủy này, khi phóng thể ra xã hội bên ngoài, được thể hiện trong hình ảnh Gót, một người cha toàn năng, thấy trong những tôn giáo Abraham, trong các vị vua được thần thoại hóa của các nền văn minh cổ đại, và trong các nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn mê hoặc đám đông của lịch sử gần đây hơn. Thật vậy, lý thuyết của Freud dường như dự đoán những khuôn mặt lĩnh tụ trong những năm sau đó - Mussolini, Hitler và Stalin.
Lương tâm và Super-Ego
Freud xác định một cảm giác bao trùm về lầm lỗi như là một trong những vấn đề trung tâm đe dọa nền văn minh hiện đại, và cho rằng nó đến từ super-ego, có thể tạm xem như một tác năng nội tại, hoạt động trong não thức, giám sát những ý định và hành động của ego, giữ cho bản năng hiếu chiến của ego trong vòng kiểm soát. Một thuật ngữ khác để gọi super-ego là lương tâm.
Freud đi ngược thời gian dõi tìm dấu vết sự hình thành của super-ego trong hành động nguyên thủy, một giả thuyết nổi tiếng nhất của ông – mặc cảm Oedipus – sự nổi loạn của đám con trai giết chết người cha nguyên thủy, những người con này bị bỏ lại bị đè nặng với một cảm giác hối hận, sau đó họ nội tại hóa những cấm đoán của uy quyền cùng những luật lệ cấm đoán trước đây do người cha đại diện, vào bên trong chính mình thành Super-ego.
Super-ego thường đặt những đòi hỏi nghiêm trọng, những tiêu chuẩn khắt khe, những lý tưởng cho mỗi cá nhân, thường không thực tế, không dễ thực hiện, và gây ra những bất hạnh lớn. Freud cũng cho rằng có sự tồn tại của một super-ego tập thể, kết tập thể hiện qua hình ảnh các nhà các nhà lãnh đạo chính trị hay tôn giáo mạnh mẽ, hay những con người có thành tựu lớn, super-ego tập thể này hoạt động trên một quy mô lớn hơn trong một nền văn hóa hay xã hội.
Phê phán các Tổ chức Tôn Giáo
Phần lớn con người (trong xã hội phương Tây) điều chỉnh hành vi ứng xử của họ theo các nguyên tắc của giáo lý tôn giáo, những tín đồ đặt ý chí và số phận của mình trong bàn tay của một gót linh thiêng, người mà Freud xem không gì khác hơn một hình ảnh người cha đã được bơm cho phồng lớn thành cao vời. Tôn giáo là dựa trên “Tương lai của một Ảo tưởng”, bởi vì nó trả lời câu hỏi trọng tâm về cứu cánh của cuộc đời chúng ta trên mặt đất, bằng cách chỉ về một thế giới bên kia, sau cái chết.
Trong khi vạch một con đường đơn giản và giả tạo như thế để đi tìm hạnh phúc, tôn giáo đã tránh được cho đám đông tín đồ chứng rối loạn thần kinh cá nhân, vì khi phục tùng đức tin tôn giáo của họ, họ đã bị một chứng nhiễu loạn thần kinh tập thể rồi. Nhưng Freud khinh miệt thứ “hạnh phúc” mê sảng này - tìm qua sự phủ nhận sự sống, và phục tùng mê tín – thứ đức tin đó phủ nhận lý trí, và buộc phải tuân phục vô điều kiện những phi lý.
6.

Lý thuyết của Sigmund Freud trong Civilization and its Discontents là sự xung đột giữa các nhu cầu bản năng cá nhân và tập tục luân lý của toàn bộ xã hội là nguồn gốc giải thích trạng thái của con người về sự bất an, bất mãn, không thoải mái hạnh phúc, rồi gây hấn, thù nghịch và cuối cùng, đi đến bạo lực. Đối với Freud, cuộc vật lộn lớn nhất trong đời sống thoát ra từ sự liên kết giữa thế giới nội tâm của chúng ta và xã hội trong đó chúng ta sinh ra.


Chúng ta, như mỗi cá nhân – do bản năng sinh tồn - phải kết hợp với những cá nhân khác, tạo dựng những cộng đồng; chúng ta phải sống chung để sống còn. Nhưng khi kết hợp như vậy, chúng ta phải hy sinh, kềm chế rất nhiều những bản năng, mất đi sự thỏa mãn toàn vẹn vốn con người sơ khai có lẽ đã có.
Trong xã hội văn minh, chúng ta luôn luôn như một đứa trẻ ấm ức, tuy được dắt vào nhà hàng, cho ăn món ưa thích, nhưng phải chịu những giới hạn nào đó, chẳng hạn phải nhai nuốt, cầm thìa cầm đũa theo một cách thức gò bó, chưa kể trước đó phải ăn mặc chỉnh tề, phải ngồi trên ghế, bên bàn ăn như thế nào, không được thích thú cười to, nói lớn, thức ăn nếu có xương, không được nhè xương, ném xuống gầm bàn …
Thế nên, hài hòa với bên ngoài và bình an bên trong chỉ có thể đạt được khi chúng ta học được cách kiểm soát những xung lực năng nổ của chúng ta bằng cách giải quyết tình trạng trái nghịch này.
Tuy nhiên, vì Freud tin rằng những sức mạnh hủy hoại hiện diện trong tất cả các cá nhân, và do đó con người bởi bản chất tự nhiên là thiết yếu phản-xã hội và phản-văn hóa.
Đây là những tiền đề của Freud khó được nhiều người chấp nhận Sau cùng tất cả, Freud mô tả con người như sinh vật có bản năng gây hấn hung hãn và thực sự không thể kiểm soát được, cũng khó phù hợp với hình ảnh đẹp đẽ cao thượng vốn con người xưa nay vẫn tự vẽ về mình. Hơn nữa, khi Freud nhắc nhở về sự gây hấn hung hãn như là “bản năng gốc tự-tồn tại trong con người…. là trở ngại lớn nhất với văn minh”, ông đã xác định hiệu quả được vấn đề, nhưng ông không đưa ra giải pháp hợp lý nào về phần kiểm soát bản năng gây hấn hung hãn và bản năng phản-xã hội này của chúng ta.
Tuy nhiên, sự đối địch giữa các đòi hỏi bản năng và những kiềm chế của văn minh làm cho quan điểm của Freud về tính gây hấn hay bản năng phá hoại của con người thành đặc biệt phức tạp. Một phần là vì những xung lực của hận thù, tức giận và hung hãn là, từ quan điểm của Freud, chính nó bắt nguồn từ sự tự bảo tồn để sống còn.
Trong cái nhìn của Freud về con người và xã hội, bạo lực như một gì không thể thoát khỏi và được như là cơ sở của chính sự tồn tại của chúng ta. Nó xuất hiện trong hai cấp độ; sự bạo hành trong bản năng hoang dã nơi mỗi cá nhân, và sự bạo hành mà văn minh thực hành với chúng ta, như để cân bằng. Vì nếu không có ít nhất một số lượng cưỡng bách và ít nhất một số lượng các hạn chế sao cho ngang bằng với những xung lực đòi thỏa mãn trong mỗi cá nhân, hòa hợp xã hội không thể đạt được, văn minh cũng không thể duy trì được. Sự quân bình giữa đòi hỏi bên trong và áp chế bên ngoài lúc nào cũng tạm thời, mỏng manh trong xuốt dòng lịch sử loài người.
Lê Dọn Bàn - bản nháp thứ nhất

(Jan/2012)

tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương