Văn minh và những Bất mãn từ nó Sigmund Freud (1856 1939)



tải về 0.76 Mb.
trang5/13
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích0.76 Mb.
#33083
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13
Chúng ta cũng phải không cho phép mình bị lầm lạc bởi những phán đoán về giá trị liên quan đến một tôn giáo, hoặc hệ thống triết học, hoặc lý tưởng đặc thù nào. Cho dù chúng ta nghĩ rằng để tìm thấy trong chúng những thành tích cao nhất của tinh thần con người, hoặc chúng ta lấy làm tiếc về chúng như là những sai lạc, chúng ta không thể nhưng phải nhận ra rằng nơi nào chúng có mặt, và đặc biệt, nơi nào chúng chiếm ưu thế, là có bao hàm một trình độ cao của văn minh.
Cuối cùng, nhưng chắc chắn không phải là kém quan trọng nhất, trong những đặc trưng riêng biệt của văn minh vẫn còn chờ được đánh giá: cách thức trong đó những quan hệ của con người với nhau, những quan hệ xã hội, được quy định - những quan hệ vốn chúng ảnh hưởng một cá nhân như một người hàng xóm, như một nguồn của sự giúp đỡ, như một đối tượng tính dục của một các nhân khác, như là một thành viên của một gia đình và của một Nhà nước.
Đặc biệt là khó khăn ở đây để giữ cho rõ ràng về nhu cầu lý tưởng đặc biệt và để xem những gì nói chung là văn minh. Có lẽ chúng ta có thể bắt đầu bằng cách giải thích rằng yếu tố của văn minh đi vào sân khấu với nỗ lực đầu tiên để điều chỉnh những mối quan hệ xã hội. Nếu như nỗ lực này đã không được làm, những mối quan hệ sẽ phải chịu tùy ý chí bất kỳ của mỗi cá nhân: đó là nói rằng, con người thể chất mạnh mẽ hơn sẽ quyết định chúng trong ý hướng của những lợi ích và những xung động bản năng riêng của anh ta.
Không gì sẽ có thể thay đổi trong điều này nếu con người mạnh mẽ hơn này đến lượt mình lại gặp một ai đó thậm chí còn mạnh hơn anh ta. Đời sống con người trong có chung chỉ có thể có được khi một đa số đến cùng với nhau mà nó thì mạnh hơn bất cứ cá nhân nào riêng biệt, và nó vẫn giữ đoàn kết chống lại tất cả những cá nhân riêng biệt. Sức mạnh của cộng đồng này sau đó được thiết lập là “phải” trong đối lập với quyền lực của cá nhân, vốn nó bị lên án như “bạo lực”. Sự thay thế này của sức mạnh cá nhân với sức mạnh của một cộng đồng tạo nên bước quyết định của nền văn minh. Bản chất của nó nằm trong sự kiện là những thành viên của cộng đồng tự hạn chế mình trong những khả năng của họ về sự thỏa mãn, trong khi những cá nhân không biết có những giới hạn như vậy.
Điều kiện cần thiết đầu tiên của nền văn minh, do đó, là thuộc về công lý - có nghĩa là, việc bảo đảm rằng một đạo luật một khi được làm sẽ không bị phá vỡ vì thiên vị với một cá nhân. Điều này không có tiềm ẩn gì hết về phần giá trị đạo đức của một luật giống như vậy. Tiến trình xa hơn của phát triển văn hóa xem ra có khuynh hường nghiêng về làm cho luật pháp thôi không còn là biểu hiện của ý chí của một cộng đòng nhỏ - một giai cấp, hay một tầng lớp dân chúng, hoặc một nhóm chủng tộc - trong đó, đến lượt nó, hhành xử như một cá nhân bạo động với nhóm khác, và có lẽ đông đảo hơn, những tập hợp của con người. Hệ quả cuối cùng sẽ là một quy tắc của pháp luật mà với nó, tất cả - trừ những người không có khả năng để gia nhập một cộng đồng - đã đóng góp bằng một sự hy sinh về những bản năng của họ, và nó không chừa một ai - một lần nữa với cùng một ngoại lệ - với lòng thương xót của bạo lực.
Tự do của cá nhân không là quà tặng của văn minh. Nó đã là lớn nhất trước khi có bất kỳ nền văn minh nào, mặc dù lúc đó, nó là sự thật, nó đã hầu hết mọi phần không có giá trị, bởi vì cá nhân đã hạo hiếm ở vào một vị trí để bảo vệ nó. Sự phát triển của văn minh áp đặt những hạn chế về nó, và công lý đòi hỏi rằng không ai sẽ thoát khỏi những hạn chế này. Những gì làm cho tự nó cảm thấy trong một cộng đồng nhân loại như là một khát vọng về tự do có thể là sự nổi dậy của họ để chống lại một vài bất công hiện tại, và do đó có thể chứng minh thuận lợi với một phát triển xa hơn nữa của văn minh; nó có thể vẫn còn tương hợp với nền văn minh.
Nhưng nó cũng có thể bật dậy từ những phần còn lại của nhân cách ban đầu của họ, vốn chúng vẫn còn chưa bị văn minh thuần hóa, và thế nên trong họ có thể trở thành cơ sở thù địch với nền văn minh. Sự thôi thúc đòi tự do, do đó, là hướng về chống lại những hình thức và đòi hỏi cụ thể của nền văn minh, hay chống đối với hết tất cả văn minh. Nó không có vẻ như là dẫu vậy, có bất kỳ ảnh hưởng nào có thể gây ra để một người thay đổi bản chất của mình vào thành của một con mối.
Không nghi ngờ gì, ông sẽ luôn luôn bảo vệ tuyên đòi của mình về tự do cá nhân chống lại ý chí của nhóm. Một phần lớn những cuộc đấu tranh của nhân loại có trung tâm xoay quanh một nhiệm vụ duy nhất là sự tìm kiếm một sự hòa giải thích hợp -, nghĩa là, một sự dàn xếp sẽ mang lại hạnh phúc – giữa tuyên đòi này của cá nhân và những tuyên đòi văn hoá của nhóm; và một trong những vấn đề mà nó chạm đến số phận của nhân loại là không biết một dàn xếp như vậy có thể đạt đến bằng những phương tiện của một vài hình thức đặc biệt của văn minh hay không, hay không biết có phải xung đột này là không thể dung hoà hay không.
Bằng cách cho phép xúc cảm thông thường là người hướng dẫn của chúng ta trong việc quyết định những đặc trưng nào của đời sống con người được xem như là văn minh, chúng ta đã có được một ấn tượng rõ ràng về những bức tranh tổng quát của nền văn minh, nhưng nó là đúng rằng cho đến giờ, chúng ta đã khám phá ra không gì mà đã không được phổ quát biết đến. Đồng thời chúng ta đã cẩn thận không để rơi vào những thành kiến rằng văn minh là đồng nghĩa với làm hoàn hảo, rằng nó là con đường đi đến toàn hảo đã được tiền-thụ phong cho con người. Nhưng bây giờ một quan điểm tự hiện diện nó có thể dẫn theo một hướng khác. Sự phát triển của văn minh xuất hiện với chúng ta như một tiến trình khác thường vốn nhân loại đã trải qua, và trong đó rất nhiều sự việc đập vào chúng ta như quen thuộc.
Chúng ta có thể mô tả đặc điểm tiến trình này với dẫn chiếu về những thay đổi mà nó đem cho xảy ra trong những phân bối bản năng quen thuộc của con người, để thỏa mãn, sau cùng hết cả, đó là công việc kinh tế của đời sống chúng ta. Một ít trong những bản năng này được dùng hết trọn trong một cách thức khiến một điều gì đó xuất hiện ở vị trí của chúng, trong một cá nhân, vốn chúng ta mô tả như là một đường nét cá tính. Thí dụ đáng chú ý nhất của một tiến trình giống như vậy được tìm thấy trong sự gợi dâm hậu môn [13] của những trẻ con của loài người.
Chú ý nguyên thủy của chúng về chức năng bài tiết, về những bộ phận cơ thể của nó, và về sản phẩm của nó, đã được thay đổi trong vận trình lớn dậy của chúng vào thành một nhóm gồm những đường nét, chúng vốn quen thuộc với chúng ta như sự tằn tiện, một ý thức về trật tự và sự sạch sẽ - những phẩm chất đó, mặc dù có giá trị và được hoan nghênh trong tự thân chúng, chúng có thể được làm mãnh liệt thêm đến khi chúng trở nên lộ rõ ưu thắng và tạo ra những gì được gọi là cá tính hậu môn [14]. Chúng ta không biết điều này đã xảy ra như thế nào, nhưng không có nghi ngờ về sự đúng đắn của sự khám phá [15].
Bây giờ chúng ta đã thấy rằng sự trật tự và sự sạch sẽ là những yêu cầu quan trọng của nền văn minh, mặc dù sự cần thiết không thể thiếu của chúng không phải là rất rõ ràng, nhiều gì hơn sự thích hợp của chúng như là những nguồn của sự vui hưởng. Tại điểm này chúng ta không thể không bị sững sờ trước sự giống nhau giữa tiến trình của văn minh và phát triển về libido của cá nhân. Những bản năng khác (bên cạnh sự gợi dâm hậu môn) được gây ra để rời chỗ những điều kiện cho sự thỏa mãn của chúng, để dẫn chúng vào trong những lối đi khác.
Trong hầu hết những trường hợp tiến trình này trùng hợp với tiến trình của sự thăng hoa (của những mục tiêu bản năng) [16] mà chúng ta đã quen thuộc với chúng, nhưng trong một số có thể được phân biệt với nó. Sự thăng hoa của bản năng là một tính năng đập ngay vào mắt dễ thấy đặc biệt của sự phát triển văn hóa; nó là những gì làm cho có thể có được những hoạt động cao hơn thuộc về tinh thần, khoa học, nghệ thuật, hoặc tư tưởng, để đóng một phần quan trọng giống như thế trong đời sống văn minh.
Nếu người ta đã nhường cho một ấn tượng đầu tiên, người ta sẽ nói thăng hoa là một biến động thịnh suy vốn đã bị văn minh ép đẩy hoàn toàn trên những bản năng. Nhưng sẽ là khôn ngoan hơn để suy tưởng phản ảnh trên điều này lâu hơn một chút. Trong vị trí thứ ba [17], cuối cùng, và điều này có vẻ quan trọng nhất của tất cả, không thể nào bỏ qua chừng mức mà vơi nó văn minh được xây lên trên một sự từ bỏ của bản năng, chính xác bao nhiêu nó tiền giả định sự không-thỏa mãn (bằng đàn áp, ngăn chặn, hoặc một vài phương cách khác?) của những bản năng mạnh mẽ?
“Thất vọng bực dọc văn hóa” này chi phối lĩnh vực lớn của những mối quan hệ xã hội giữa những con người. Như chúng ta đã biết, nó là nguyên nhân của sự thù địch, vốn tất cả những nền văn minh phải đấu tranh chống lại. Nó sẽ cũng làm những đòi hỏi nghiêm khắc trên công trình khoa học của chúng ta, và chúng ta sẽ có nhiều để phải giải thích ở đây. Không phải là dễ dàng để hiểu như thế nào nó có thể trở thành có thể được để tước đoạt mất một bản năng của sự thỏa mãn. Cũng không phải là làm như vậy mà không nguy hiểm. Nếu sự mất mát không được đền bù về kinh tế, người ta có thể chắc chắn những rối loạn nghiêm trọng sẽ xảy ra sau đó.
Nhưng nếu chúng ta muốn biết giá trị nào có thể được quy cho quan điểm của chúng ta là sự phát triển của văn minh là một tiến trình đặc biệt, có thể so sánh được với sự trưởng thành bình thường của cá nhân con người, chúng ta rõ ràng phải tấn công một vấn đề khác. Chúng ta phải tự hỏi mình sự phát triển của văn minh nợ nguồn gốc của nó với những ảnh hưởng nào, nó đã nổi lên thế nào, và những gì đã chỉ định dòng chảy của nó [18].
Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất

(Aug/2011)

(Còn tiếp...)

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

[1] [Freud đã bàn luận về câu hỏi này tương đối khá dài, hai năm trước, trong những chương đầu của The Future of an Illusion (1927c).]

[2] neuroses

[3] Chiến Tranh Ba Mươi Năm – nội dung và nguyên nhân chủ yếu là chiến tranh tôn giáo giữa Catô và Tin lành ở Tây Âu từ 1618 đến 1648. Mặc dù hầu hết các giao chiến xảy ra trên đất Đức, chiến tranh lan rộng bao gồm gần cả châu Âu, tàn phá những vùng đất canh tác rất lớn và mang lại nạn đói và bệnh tật. Gần ba mươi phần trăm dân số Đức thiệt mạng trong cuộc chiến dài ba mươi năm này.


Một bên là Đế quốc Thần Thánh Lamã (gồm Austria, Bavaria, và Spain. Bên kia là phần còn lại của châu Âu (gồm Sweden, Bohemia, Denmark-Norway, Transylvania, và Saxony. Chiến tranh kết thúc với Hòa ước Westphalia, trong đó đưa đến phân lại ranh giới các quốc gia châu Âu, những cũng cho những người dân châu Âu sau đó một bài học về ý thức phân biệt giữa lòng trung thành với đất nước và lòng trung thành với tôn giáo.
[4] [‘Kultur’ xem Chú thích của người Biên tập trong bản dịch the Future of an Illusion]

[5] [xem the Future of an Illusion]


[6] [Tài liệu của phân tâm, như nó không đầy đủ, và không dễ được đặt để trong giải thích rõ ràng, dù sao đi nữa, thừa nhận một phỏng đoán - một phỏng đoán nghe tuyệt vời - về nguồn gốc của kỳ công này của con người.
Đã được nghĩ là - con người nguyên thủy có thói quen muốn làm thỏa mãn một ao ước trẻ con vốn liên kết với lửa, khi hắn đến tiếp xúc với lửa, là dập tắt ngọn lửa bằng cách đái lên nó. Những truyền thuyết mà chúng ta có, không để lại nghi ngờ nào về cái nhìn ban đầu liên hệ ngọn lửa với dương vật, trong hình ảnh lửa cháy có những hình dạng như lưỡi liếm khi nó bốc hướng trở lên.
Dập tắt lửa bằng cách đái lên nó - một chủ đề mà những đại thụ hiện đại, Gulliver trong Lilliput và Gargantua của Rabelais, vẫn quay ngược về lại - vì thế đã là một loại hành vi tính dục với một người nam, một khoái trá vui hưởng của tiềm năng tính dục ở một cuộc thi đua của những trẻ đồng tính. Người đầu tiên từ bỏ ham muốn này, và giữ lửa lại đã có thể mang nó đi với anh ta và điều phục nó cho sử dụng riêng cho mình. Bằng cách dội tắt ngấm ngọn lửa của sự kích thích tính dục của riêng mình, anh ta đã thuần phục được sức mạnh thiên nhiên của lửa.
Sự chinh phục văn hóa lớn lao này như vậy đã là phần thưởng cho sự từ bỏ về bản năng của anh ta. Hơn nữa, như đã nghĩ rằng người phụ nữ đã được bổ nhiệm làm người giám hộ của ngọn lửa vốn đã bị giam cầm trong lò sưởi gia đình, vì cấu trúc sinh lý cơ thể của nàng đã làm cho nàng không thể nào đi đến sự cám dỗ của ham muốn này. Cũng đáng chú ý, thường xuyên đến chừng nào kinh nghiệm phân tích đã chứng nhận cho sự kết nối giữa tham vọng, lửa và sự khơi dâm ở niệu đạo. (Freud đã chỉ ra sự liên kết giữa sự tiểu tiện và lửa rất sớm như trong trường hợp hồ sơ ‘Dora’(1905e (1901)). Sự liên kết với tham vọng đến có phần muộn hơn về sau. Một danh sách tham khảo đầy đủ sẽ tìm thấy trong Ghi chú của người Biên tập với bài khảo cứu cuối cùng về chủ đề, “The acquisition and control of fire” (1932a).]
[7] [tiếng Anh trong nguyên bản tiếng Đức, câu được cho là của Shakespearean này trong thực tế không tìm thấy trong danh sách các tác phẩm được công nhận là đúng của Shakespeare.]

[8] a prosthesis God – prosthesis là một từ y khoa chỉ một bộ phận giả, nhân tạo, gắn thêm vào cơ thể con người, để thay thế cho cơ phận bị mất hay hư hỏng, thí dụ: răng giả hay chân gỗ.

[9] [Khu đồi cây ở ngoại ô thành Vienna]

[10] Tiếng Pháp trong bản tiếng Anh “Roi Soleil” [chỉ Louis XIX nước Pháp]

[11] [Tên hòn đảo nổi tiếng trong hồ Maggiore, Napoleon đã đến thăm vài ngày trước trận đánh Marengo]

[12] [Cf. the Future of and Illusion (1927c)]

[13] anal erotism: tìm và cảm được những lạc thú xác thịt trong các động tác của, hay có liên hệ với hậu môn.

[14] anal character: cá tính hậu môn (trong phân tâm học), một loại cá tính trưng bày những mẫu thức của hành vi có nguồn gốc trong giai đoạn hậu môn của thời thơ ấu. Nó có đặc điểm là cực kỳ ngăn nắp, tính bướng bỉnh, cầu toàn, sạch sẽ, đúng giờ, và bủn xỉn, hoặc những đối lập cực đoan của chúng. Cũng được gọi là nhân cách hậu môn (anal personality). Cá tính hậu môn liên hệ với giai đoạn phát triển tâm lý tính dục gọi là giai đoạn hậu môn. Giai đoạn hậu môn: (trong phân tâm học) một giai đoạn trong phát triển tâm lý tính dục, xảy ra từ 1 đến 3 tuổi, khi sự bận tâm với chức năng của sự đại tiện và những cảm giác kết hợp với hậu môn là nguồn chủ yếu để kích thích lạc thú. Nó được xem là yếu tố quyết định quan trọng cuối cùng của loại nhân cách. Những mẫu thức hành vi của người khi đã trưởng thành liên quan đến sự định hình của giai đoạn này bao gồm sự cực kỳ ngăn nắp, tính bướng bỉnh, cầu toàn, sạch sẽ, đúng giờ, và bủn xỉn, hoặc những đối lập cực đoan của chúng.


Theo Freud, sự phát triển tâm lý tính dục - Psychosexual: (trong phân tâm học) bao gồm sự xuất hiện của nhân cách qua một loạt các giai đoạn từ sơ sinh đến trưởng thành. Mỗi giai đoạn là tương đối cố định trong thời gian và đặc trưng bởi một phương thức vượt trội trong sự đạt được niềm vui về libido, thông qua sự tác động qua lại giữa các thúc đẩy sinh lý của người đó và những hạn chế từ môi trường. Các giai đoạn phát triển tâm lý tính dục theo Freud là những giai đoạn: miệng, hậu môn, dương vật, ngấm ngầm, và sinh dục.
1. Giai đoạn Miệng: từ sơ sinh đến khoảng 18 tháng, trong giai đoạn sớm nhất này, vùng miệng là trung tâm của những đòi hỏi, những diễn tả, và những kinh nghiệm lạc thú tính dục của trẻ sơ sinh.

2. Giai đoạn Hậu môn: xảy ra trong độ tuổi từ 1 đến 3 năm, trong giai đoạn này những hoạt động, chăm chú thích thú, và mối quan tâm xoay quanh vùng hậu môn.

3. Giai đoạn Dương vật: giai đoạn thứ ba, từ 2 hoặc 3 tuổi, đến 5 hoặc 6 tuổi, trong giai đoạn này, quan tâm, hiếu kỳ, và những kinh nghiệm thú vị về tình dục tập trung vào dương vật ở bé trai và clitoris ở các bé gái.

4. Giai đoạn Âm ỷ: giai đoạn tương đối im lặng, không hoạt động, từ độ tuổi 5 hoặc 6, kéo dài đến, hay gần trưởng thành. Năng lực tập trung vào học tập và những trò chơi có tổ chức hơn.

5. Giai đoạn cơ quan sinh dục: giai đoạn cuối cùng trong sự phát triển tâm lý tình dục, xảy ra ở tuổi dậy thì, trong giai đoạn này cá nhân có thể đạt được sự thỏa mãn tình dục từ sự tiếp xúc bộ phận sinh dục với bộ phận sinh dục, và có khả năng có một mối quan hệ trưởng thành với một người khác phái.

[15] [Cf. trong ‘Character and Anal Erotism’ (1908b) của tôi, và nhiều những đóng góp hơn nữa của Ernest Jones (1918) và những tác giả khác.]

[16] Sublimation – thăng hoa – xem ghi chú ở chương II, là một tiến trình chuyển hướng dòng chảy của sinh lực bản năng từ mục tiêu tính dục trực tiếp và đem đặt nó phục tùng những nỗ lực văn hóa, nghệ thuật.

Freud đã rất cẩn thận giúp chúng ta đừng nhầm lẫn giữa thăng hoa (sublimation) và lý tưởng hóa (idealization) – lý tưởng hóa là một sự đánh giá quá cao một đối tượng vốn đã được xem là siêu phàm, tuyệt vời.

[17] [Freud đã nhắc đến rồi hai yếu tố đóng một phần trong tiến trình của văn minh: sự thành hình cá tính và sự thăng hoa.]

[18] [Freud trở lại với chủ đề của văn minh như một ‘tiến trình’ dưới đây, trang … và lại ở trang .. Ông nhắc lại nó một lần nữa trong lá thư ngỏ gửi Einstein, Why War? – tại sao chiến tranh?(1933b)]


Sigmund Freud - Văn minh và những Bất mãn từ nó (5)
Văn minh và những Bất mãn từ nó

Sigmund Freud

(1856 – 1939)
Das Unbehagen In Der Kultur (Vienne, 1929).

Civilization and Its Discontents (1930)


(tiếp theo)

Chương IV


Công việc này có vẻ là một việc có tầm mức lớn rộng, và là tự nhiên người ta cảm thấy thiếu tự tin khi đối diện với nó. Nhưng sau đây là những phỏng đoán như tôi đã có thể thực hiện được với khả năng của mình.
Sau khi con người nguyên thủy đã khám phá rằng cải thiện số phần của hắn trên trái đất nằm trong tay của chính hắn, theo nghĩa đen của từ, bằng cách làm việc, không thể còn là một vấn đề dửng dưng với hắn là liệu không biết một người khác làm việc với, hay chống lại hắn.
Với hắn, con người kia chiếm được giá trị của một người-bạn-cùng-làm-việc, và sống cùng với người kia là có ích lợi. Ngay cả sớm hơn trước đó, trong thời tiền sử giống người-vượn của mình, con người đã chấp nhận tập quán hình thành những gia đình, và những thành viên gia đình của một người có lẽ đã là những người giúp đỡ đầu tiên của người ấy.
Một người có thể giả định sự sáng lập những gia đình đã một cách nào đó kết nối với sự kiện rằng đến một thời điểm khi nhu cầu về thỏa mãn bộ phận sinh dục thôi không còn xuất hiện giống như một người khách đột ngột ghé thăm, và trong một thời gian dài sau khi anh ta ra đi, không nghe thêm gì nữa, nhưng thay vì như thế, người này đã chiếm chỗ, ở lại như một người chung phòng vĩnh viễn.
Khi điều này xảy ra, nam giới có được một động lực để giữ những phụ nữ, hay nói tổng quát hơn, những đối tượng tính dục của mình, gần anh ta, trong khi phụ nữ, người không muốn bị phân rẽ khỏi đám con trẻ bơ vơ chưa tự lực được của nàng, đã bị bắt buộc, vì những ích lợi của chúng, ở lại với người nam mạnh mẽ hơn [1].
Trong gia đình nguyên thủy này vẫn còn thiếu một điểm đặc trưng thiết yếu của nền văn minh. Ý chí tùy tiện của người đứng đầu của nó, người cha, đã không bị hạn chế. Trong Totem và Taboo [1912-13] [2] tôi đã cố gắng cho thấy như thế nào con đường đã dẫn từ gia đình này đến giai đoạn kế tiếp của đời sống cộng đồng theo hình thức của những bầy anh em trai.
Khi áp đảo cha của họ, những đứa con trai đã làm một khám phá rằng một sự kết hợp có thể mạnh hơn so với một cá nhân riêng lẻ. Văn hóa vật tổ dựa trên những hạn chế mà những người con trai đã áp đặt trên lẫn nhau để giữ cho tình trạng mới này của những công việc được duy trì. Tuân hành những điều cấm kỵ đã là sự “đúng” đầu tiên, hoặc “luật” [3] đầu tiên. Thế nên, đời sống cộng đồng của con người đã có một nền tảng gồm hai lớp: sự cưỡng bách làm việc, tạo bởi sự cần thiết bên ngoài, và sức mạnh của ái tình, vốn làm người nam không bằng lòng bị tước mất đối tượng tính dục của mình - người phụ nữ - , và làm người nữ không bằng lòng bị tước mất một phần của mình vốn đã được tách khỏi nàng - con của nàng.
Eros và Ananke (Ái Tình và Tất Yếu) [4] cũng đã trở thành những cha mẹ sinh thành của nền văn minh của con người. Kết quả đầu tiên của văn minh đã là ngay cả một số lượng khá lớn con người bây giờ có thể có khả năng sống chung trong một cộng đồng. Và bởi vì hai sức mạnh lớn này đã cùng tác động trong điều này, người ta có thể đã mong đợi rằng sự phát triển thêm nữa của văn minh sẽ trôi chảy hướng tới một sự kiểm soát lại còn tốt hơn nữa trên thế giới bên ngoài, và hướng tới mở rộng hơn nữa số người được bao gồm trong cộng đồng. Cũng không phải là dễ dàng để hiểu như thế nào nền văn minh này có thể tác động trên những người tham gia của nó cách nào khác hơn là làm cho họ được hạnh phúc.
Trước khi chúng ta tiếp tục thăm dò một sự can thiệp có thể phát sinh từ góc nào, sự công nhận này về ái tình như là một trong những nền tảng của văn minh có thể được dùng vào như một cái cớ cho một sự ra ngoài đề, vốn sẽ cho phép chúng ta lấp một khoảng trống mà chúng ta còn bỏ lại trong thảo luận trước đó.
Ở đó, chúng ta nói sự khám phá của con người về ái tình tính dục (qua bộ phận sinh dục) đủ khả năng đem lại cho hắn kinh nghiệm mạnh mẽ nhất của sự thỏa mãn, và trong thực tế đã cung cấp cho hắn với mẫu thức của tất cả hạnh phúc, đã phải gợi ý cho hắn rằng nên tiếp tục tìm sự thỏa mãn hạnh phúc trong đời sống mình dọc con đường của những quan hệ tính dục, và rằng hắn nên lấy việc khiêu dâm bộ phận sinh dục làm điểm trung tâm của cuộc đời mình.
Chúng ta đã tiếp tục nói rằng làm như vậy anh ta tự làm cho mình phụ thuộc trong một cách nguy hiểm nhất trên một phần của thế giới bên ngoài, cụ thể là, đối tượng ái tình đã lựa chọn của anh, và phơi mở anh ta ra với đau khổ cùng cực nếu bị đối tượng đó từ chối, hoặc nếu như phải mất nó vì sự không chung thủy hoặc tử vong. Vì lý do đó, những con người khôn ngoan của mọi thời đại đã hết sức mạnh mẽ cảnh cáo chúng ta chống lại lối sống này; nhưng bất chấp điều này, nó đã không bị mất sự hấp dẫn của nó với một số lượng lớn con người.
Một thiểu số nhỏ đã có được khả năng do thể chất cấu tạo của họ tìm được hạnh phúc, bất chấp tất cả mọi thứ, dọc con đường của ái tình. Nhưng những thay đổi sâu rộng của trí não về chức năng của ái tình là cần thiết trước khi điều này có thể xảy ra. Những người này làm cho mình độc lập với sự chấp nhận của đối tượng của họ bằng cách thế chỗ những gì họ chủ yếu xem là giá trị, từ được yêu thương sang qua yêu thương; họ tự bảo vệ mình chống lại sự mất mát của đối tượng bằng cách hướng dẫn ái tình của họ, không với đối tượng duy nhất mà với tất cả con người như nhau; và họ tránh những bất trắc và những thất vọng của ái tình qua bộ phận sinh dục bằng cách hướng cho quay xa khỏi mục tiêu tính dục của nó, và chuyển biến bản năng vào thành một xung lực với một mục tiêu bị kềm chế.
Những gì họ gây ra trong chính họ theo cách này là một trạng thái của cảm xúc thương yêu, kiên định, và bị đình chỉ ngang đều nhau, vốn nó có rất ít giống nhau bên ngoài nữa với những kích động bão tố của ái tình tính dục, vốn từ đó nó đã xuất phát, dẫu thế nào đi nữa. Có lẽ Thánh Francis thành Assisi đã đi xa nhất như thế trong khai thác ái tình cho lợi ích của một xúc cảm bên trong về hạnh phúc.
Hơn nữa, những gì chúng ta đã công nhận như một trong những kỹ thuật để làm tròn nguyên tắc lạc thú thường đã được đưa vào kết nối với tôn giáo; kết nối này có thể nằm ở những vùng xa xôi, nơi sự phân biệt giữa ego và những đối tượng, hoặc giữa những đối tượng tự thân chúng đã bị xao lãng. Theo như một quan điểm đạo đức, vốn động lực sâu xa hơn của nó sẽ trở nên rõ ràng đối với chúng ta giờ đây [5], sự sẵn sàng này cho một tình yêu phổ quát của nhân loại và thế giới đại diện cho lập trường cao nhất mà con người có thể đạt tới. Ngay cả ở giai đoạn đầu này của thảo luận, tôi muốn đưa ra hai phản đối chính của tôi với quan điểm này. Một tình yêu mà không có đối xử phân biệt, với tôi có vẻ như nó chối bỏ mất một phần giá trị của riêng nó, bằng cách làm một bất công với đối tượng của nó, và thứ hai, không phải tất cả con người là xứng đáng với tình yêu.
Ái tình vốn nó tạo dựng gia đình vẫn tiếp tục hoạt động trong nền văn minh, cả ở hai dạng ban đầu của nó, trong đó nó không từ bỏ sự thỏa mãn tính dục trực tiếp, và ở dạng biến đổi của nó như là thương yêu có mục tiêu bị kềm chế. Trong mỗi dạng, nó tiếp tục thực hiện chức năng của nó là kết buộc vào cùng nhau những số lượng đáng kể của con người, và nó làm như vậy trong một cách thức sâu đậm hơn so với có thể có được từ tác dụng của lợi ích trong công việc làm chung. Cách vô tư trong đó ngôn ngữ sử dụng từ “yêu” có lý lẽ bào chữa di truyền của nó.


tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương