2.1. Thực trạng hệ thống sản xuất thép 2.1.1. Số lượng, quy mô các đơn vị sản xuất
Trong giai đoạn 2011÷2015, ngành công nghiệp thép Việt Nam trong tình trạng khó khăn. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều biện pháp điều hành kinh tế nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, giảm lãi suất cho vay, giữ ổn định tỷ giá để hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, do tình hình bất động sản đóng băng kéo dài, đầu tư công cắt giảm với tốc độ tăng trưởng GDP cả nước chậm lại làm cho tiêu thụ ngành thép giảm, đặc biệt là thép xây dựng, ngành sản xuất thép chính của nước ta.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, các doanh nghiệp (DN) tham gia hoạt động sản xuất thép năm 2014 tăng ~ 2,2 lần so với năm 2009, từ 462 DN lên 1056 DN. Số lượng DN sản xuất thép phân bố theo vùng giai đoạn 2010 đến 2014 được trình bày trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Số lượng doanh nghiệp sản xuất thép phân bố theo vùng
TT
|
Vùng lãnh thổ
|
Số lượng doanh nghiệp
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
1
|
Đồng bằng sông Hồng
|
406
|
439
|
468
|
473
|
461
|
2
|
Trung du miền núi phía Bắc
|
65
|
74
|
75
|
73
|
78
|
3
|
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
|
74
|
92
|
89
|
81
|
68
|
4
|
Tây Nguyên
|
7
|
9
|
11
|
9
|
8
|
5
|
Đông Nam Bộ
|
251
|
299
|
327
|
371
|
377
|
6
|
Đồng bằng sông Cửu Long
|
53
|
67
|
64
|
60
|
64
|
|
Tổng số
|
856
|
980
|
1.034
|
1.067
|
1.056
|
Nguồn: Xử lý theo số liệu điều tra DN năm 2010, 2011, 2012, 2013 và 2014 của Tổng cục Thống kê
Như vậy, trong giai đoạn 2010-2014, số lượng các doanh nghiệp tăng bình quân 4,29%/năm. Các doanh nghiệp sản xuất thép tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ (tương ứng năm 2014 chiếm tỷ trọng là 43,66% và 35,70%). Vùng Tây Nguyên, tỷ trọng doanh nghiệp sản xuất thép chỉ chiếm 0,76% nhỏ nhất cả nước.
Trong những năm gần đây, mặc dù ngành công nghiệp thép Việt Nam trong tình trạng khó khăn nhưng các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn được thành lập. Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng từ 746 doanh nghiệp năm 2010 lên 902 doanh nghiệp năm 2014, khu vực có vốn FDI tăng từ 86 doanh nghiệp lên 133 doanh nghiệp.
Bảng 2.2. Số lượng doanh nghiệp sản xuất thép theo thành phần kinh tế
TT
|
Thành phần kinh tế
|
Số lượng doanh nghiệp
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
1
|
Doanh nghiệp Nhà nước
|
24
|
25
|
26
|
26
|
21
|
2
|
Doanh nghiệp ngoài Nhà nước
|
746
|
845
|
894
|
912
|
902
|
3
|
Doanh nghiệp FDI
|
86
|
110
|
114
|
129
|
133
|
|
Tổng số
|
856
|
980
|
1034
|
1067
|
1056
|
Nguồn: Xử lý theo số liệu điều tra DN năm 2010, 2011, 2012, 2013 và 2014 của Tổng cục Thống kê
Trong giai đoạn 2010-2014, các doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng bình quân 3,87%/năm, doanh nghiệp FDI tăng bình quân 9,11%/năm, doanh nghiệp Nhà nước giảm bình quân 2,64%/năm.
Xét quy mô doanh nghiệp theo lao động thì các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn nhất (bình quân 645 người/doanh nghiệp), sau đó đến doanh nghiệp có vốn FDI (bình quân 191 người/doanh nghiệp) và doanh nghiệp ngoài Nhà nước (bình quân 47 người/doanh nghiệp).
Theo số liệu điều tra, khảo sát và tổng hợp từ nhóm nghiên cứu, đến tháng 7 năm 2016, toàn ngành có tổng năng lực sản xuất gang là 3,4 triệu tấn/năm; ~ 12,5 triệu tấn phôi thép, 17 triệu tấn thép cán các loại.
Nước ta vẫn tồn tại lò luyện gang quy mô nhỏ (< 200 m3). Sau một thời gian dài phân ngành sản xuất gang nước ta không phát triển, chỉ có Công ty CP Gang Thép Thái Nguyên sản xuất với sản lượng khoảng 200.000 tấn/năm. Từ năm 2011, sản lượng gang bắt đầu tăng lên 600.000 tấn/năm khi lò cao số 1 của Tập đoàn Hòa Phát đi vào hoạt động. Năm 2014 sản lượng gang đạt 1,4 triệu tấn khi lò cao số 2 của Tập đoàn Hòa Phát và lò cao 550 m3 của VTM đi vào hoạt động. Năm 2015 sản lượng gang đạt 1,7 triệu tấn. Sản lượng gang năm 2016 có thể đạt 2,7 triệu tấn do có thêm lò cao số 3 của Tập đoàn Hòa Phát và LH gang thép Cao Bằng đi vào hoạt động. Sản lượng gang trong những năm gần đây được trình bày trong bảng 2.3.
Bảng 2.3. Sản lượng gang giai đoạn 2011÷2015
Đơn vị: 1.000 tấn
Năm
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
2015
|
2016*
|
Sản lượng
|
600
|
650
|
700
|
1.400
|
1.700
|
2.700
|
Tăng trưởng, %
|
20
|
8,3
|
7,7
|
100
|
21,4
|
58,8
|
* Số liệu dự báo trên cơ sở kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu
Nguồn: Hiệp hội thép Việt Nam
Sản lượng gang hàng năm thấp hơn so với công suất thiết kế vì hiện nay hầu hết các cơ sở nhỏ đều không sản xuất. Chỉ có các lò cao của Công ty CP gang thép Thái Nguyên, Công ty CP Thép Hòa Phát, Công ty TNHH Khoáng sản và Luyện kim Việt Trung, LH gang thép Cao Bằng là còn hoạt động. Lò cao 180 m3 của Công ty LD Hằng Nguyên (Tuyên Quang) hoạt động từ 2013 nhưng đến năm 2015 cũng dừng hoạt động vì vấn đề về nguyên liệu và giá thành sản xuất.
Về công nghệ luyện thép, hiện nay nước ta đang sử dụng 3 công nghệ: lò chuyển (BOF), lò điện hồ quang (EAF) và lò cảm ứng (IF).
Tuy chỉ có 4 lò chiếm 13,8% tổng công suất thiết kế nhưng năm 2014 lượng thép được luyện bằng lò chuyển đạt 1.500.000 tấn, chiếm 25% tổng sản lượng phôi thép của cả nước. Trong những năm tới, công nghệ luyện thép bằng lò chuyển sẽ phát triển mạnh và trong tương lai gần sẽ trở thành công nghệ luyện thép chính ở nước ta.
Luyện thép bằng lò điện hồ quang là công nghệ luyện thép phổ biến nhất ở nước ta. Hiện tại, Việt Nam có 30 lò EAF dung lượng từ 9÷120 tấn/mẻ.
Các lò điện sản xuất thép của nước ta đều rất nhỏ, tuy nhiên giai đoạn 2011÷2016, ngành thép đã đầu tư 6 lò EAF, thuộc nhà máy thép Pomina và nhà máy thép Posco SS Vina lò 120 tấn/mẻ, nhà máy thép Fuco lò 90 tấn/mẻ, nhà máy thép Vinakyoei lò 70 tấn/mẻ, NM luyện cán thép đặc biệt Shengli GĐ1 lò 70 tấn/mẻ và nhà máy thép Dana – Ý lò 40 tấn/mẻ. Giai đoạn đầu tư này đã đưa tổng công suất thiết kế luyện thép của lò EAF là 7.220.000 tấn/năm, chiếm 73% tổng sản lượng phôi thép của cả nước.
Nước ta hiện có 26 cặp lò cảm ứng với dung lượng từ 12÷50 tấn/mẻ. Tổng công suất thiết kế khoảng 1,67 tấn/năm. Sản lượng phôi thép năm 2014 của các nhà máy luyện thép bằng lò cảm ứng khoảng 700.000 tấn, chiếm trên 12% tổng sản lượng phôi thép của cả nước.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |