Vai trò CỦa phân loại mallampati sửA ĐỔi trong dự ĐOÁn soi thanh quản khó khi gây mê NỘi khí quảN Ở ngưỜi lớn nguyễn Toàn Thắng



tải về 282.88 Kb.
Chế độ xem pdf
trang5/7
Chuyển đổi dữ liệu29.12.2023
Kích282.88 Kb.
#56184
1   2   3   4   5   6   7
1658-Văn bản của bài báo-20059-1-10-20230620
s12630-018-1101-7 (2)
60.8 %, n=339
31 %, n=173
7.9 %, n=44
0.3 %, n=2
0
10
20
30
40
50
60
70
ĐỘ 1
ĐỘ 2
ĐỘ 3
ĐỘ IV


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
110
TCNCYH 167 (6) - 2023
Bảng 4. Liên quan giữa dự đoán theo Mallampati và soi thanh quản khó
Soi thanh quản 
khó
Soi thanh quản
bình thường
Tổng số Odds Ratio, p
Dự đoán soi thanh quản khó 
(Mallampati III-IV)
36
47
83
OR = 35,6 p < 
0,001
Dự đoán soi thanh quản bình 
thường (Mallampati I-II)
10
465
475
Tổng số
46
512
558
Có mối liên quan có ý nghĩa giữa phân loại 
Mallampati và phân độ Lehane-Cormack với 
OR = 35,6, 95%CI: 16,6 - 76,3, p < 0,0001.
- Độ nhạy 78,3%, độ đặc hiệu 90,8%, giá trị 
dự đoán dương tính 43,4%, giá trị dự đoán âm 
tính 97,9%.
Không gặp đặt nội khí quản thất bại trong 
nghiên cứu, tuy nhiên có 186 (33,3%) trường 
hợp cần ít nhất một can thiệp khi đặt nội khí 
quản (95,2% trường hợp ấn thanh quản từ 
ngoài và/hoặc dùng mandrin). Có 3 trường 
hợp cần dùng nội soi ống mềm sau khi không 
thể đặt được nội khí quản bằng đèn soi thông 
thường liên quan đến độ mở miệng hạn chế 
dưới 3cm, khoảng cằm giáp 4,5cm và cổ ngắn. 
IV. BÀN LUẬN
Cho đến nay nhiều yếu tố dự đoán soi thanh 
quản và đặt ống nội khí quản khó được xác 
nhận như phân loại Mallampati sửa đổi, độ mở 
miệng, khoảng cằm giáp, vận động đầu cổ, khả 
năng chồng khít hai hàm răng, các loại u tại 
vùng cổ và hầu họng… Tuy nhiên, mức độ đự 
đoán chính xác của các yếu tố riêng rẽ, cũng 
như sự kết hợp các yếu tố trong dự đoán soi 
thanh quản và đặt nội khí quản khó chưa cao 
(độ nhạy, giá trị dự đoán dương tính còn thấp). 
Bên cạnh đó các nghiên cứu cũng chỉ ra sự 
khác biệt về đặc điểm nhân chắc học giữa các 
quần thể khác nhau.
2,4,5,8
Nghiên cứu cho thấy áp dụng phân loại 
Mallampati sửa đổi có 14,9% bệnh nhân được 
dự đoán soi thanh quản khó (Bảng 2). Trong 
khi với định nghĩa phân độ Lehane - Cormack 
3 - 4 là soi thanh quản khó, tỉ lệ soi thanh quản 
khó trên thực tế được ghi nhận là 8,2% (Biểu 
đồ 1). Chúng tôi nhận thấy có sự liên quan giữa 
phân loại Mallampati và phân độ soi thanh quản 
theo Lehane-Cormack. Tất cả bệnh nhân có 
Mallampati I đều soi thanh quản bình thường, 
trong khi cả 6 bệnh nhân có Mallampati IV đều 
soi thanh quản khó, trong khi các trường hợp 
Mallampati II và III có phân độ Lehane-Cormack 
từ 1 đến 4 (Bảng 3). Kết quả ở Bảng 4 cho thấy 
sự liên quan giữa Mallampati loại III - IV và soi 
thanh quản khó bằng đèn soi Macintosh với OR 
= 35,6 (p < 0,001). Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị 
dự đoán dương tính và giá trị dự đoán âm tính 
của Mallampati loại ≥ III tương ứng là: 78,3%; 
90,8%; 43,4% và 97,9%.
Tùy thuộc vào định nghĩa được áp dụng mà 
tỉ lệ đặt nội khí quản khó được công bố trong y 
văn thay đổi từ 0,7 - 31,3%, trong khi đặt nội khí 
quản thất bại có tỉ lệ từ 0,15% đến 0,3%.
5
Đáng 
chú ý là đặt nội khí quản khó hoặc thất bại, hầu 
hết thường liên quan trực tiếp với soi thanh 
quản khó, là nguyên nhân gây ra khoảng 30% 
tử vong quy cho gây mê, 50% ca ngừng tim sau 
khởi mê và liên quan tới 50% các trường hợp 
trào ngược gây hít sặc dịch dạ dày vào phổi.
9
Để giảm tối đa các biến chứng và tử vong liên 


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
111
TCNCYH 167 (6) - 2023
quan đến đặt ống nội khí quản cần xác định 
trước khi khởi mê những trường hợp chắc chắn 
hoặc có thể soi thanh quản và nội khí quản khó 
hoặc thất bại. Điều này cho phép người gây 
mê hồi sức chuẩn bị bệnh nhân tốt hơn, lựa 
chọn chiến lược vô cảm, phương tiện kiểm soát 
đường thở phù hợp hơn, đồng thời có phương 
án chủ động đối phó với những tình huống xảy 
ra khi đặt ống.
1-3
Khi áp dụng phân loại Mallampati sửa đổi 
trong đánh giá đường thở chúng tôi nhận thấy 
đa số bệnh nhân thuộc nhóm dự đoán không có 
khó khăn khi soi thanh quản và đặt nội khí quản 
(tỉ lệ Mallampati I, II chiếm 85,1%), trong khi tỉ lệ 
dự đoán có soi thanh quản khó (Mallampati III, 
IV) chiếm 14,9%. Các nghiên cứu trước đây xác 
nhận tỉ lệ dự đoán soi thanh quản hoặc đặt nội 
khí quản khó khi áp dụng tiêu chẩn Mallampati 
loại III, IV thay đổi từ 9,32% đến 21%.
11,12
Với 
định nghĩa soi thanh quản khó là phân độ 
Lehane - Cormack 3,4, tỉ lệ soi thanh quản khó 
được ghi nhận trong nghiên cứu của chúng tôi 
là 8,2%. Tỉ lệ này theo công bố của Prakash 
là 9,7%, của Ramapati là 14% và của Yemam 
và cộng sự là 14,9%.
4,9,12
Sự khác biệt về đặc 
điểm hình thể (nhân trắc học) giữa các quần thể 
nghiên cứu, sai số về nhận định, kỹ năng của 
người đánh giá có thể giải thích một phần sự 
khác nhau về tỉ lệ phân loại Mallampati và phân 
độ Lehane-Cormack giữa các nghiên cứu.
Chúng tôi nhận thấy có mối liên quan với OR 
= 35,6, 95%CI: 16,6 - 76,3, p < 0,0001 khi lấy 
phân loại Mallampati III-IV là tiêu chuẩn dự đoán 
và phân độ Lehane-Cormack 3 - 4 là tiêu chuẩn 
xác nhận soi thanh quản khó. Độ nhạy, độ đặc 
hiệu, giá trị dự đoán dương tính, giá trị dự đoán 
âm tính tương ứng là; 78,26%, 90,82%, 43,4%, 
97,9%. Kết quả này cũng phù hợp với công bố 
từ một phân tích gộp trước đây. Với phân loại 
Mallampati (gồm 6 nghiên cứu với 2165 bệnh 
nhân trong đó có 153 trường hợp soi thanh 
quản khó), độ nhạy chung là 0,4 (95%CI: 0,16 
- 0,71), độ đặc hiệu chung là 0,89 (95%CI: 0,75 
- 0,96). Trong khi với phân loại Mallampati sửa 
đổi (gồm 80 nghiên cứu với 232.939 bệnh nhân 
trong đó có 10.545 trường hợp soi thanh quản 
khó), cả độ nhạy và độ đặc hiệu thay đổi từ 0 
đến 100%, độ nhạy chung là 0,53 (95%CI: 0,47 
- 0,59) và độ đặc hiệu chung là 0,80 (95%CI: 
0,74 - 0,85).
2
Nghiên cứu gần đây của Yemam 
và cộng sự cũng xác nhận Mallampati ≥ III có 
độ nhạy 47,6% và độ đặc hiệu là 93,3% trong 
dự đoán soi thanh quản khó.
9
Trong khi, một 
phân tích gộp khác xác nhận Mallampati III - IV 
có giá trị chẩn đoán đặt nội khí quản khó tốt 
với diện tích dưới đường cong (AUC) là 0,75, 
tỉ suất chênh sau hiệu chỉnh là 5,89 (95%CI: 
4,74 - 7,32), tuy nhiên chỉ 35% (95%CI: 34 - 
36%) bệnh nhân có đặt nội khí quản khó được 
dự đoán đúng.
5
Như vậy, giá trị dự đoán của 
phân loại Mallampati sửa đổi trong nghiên cứu 
này kém hơn so với công bố của một phân tích 
gộp khác trước đây (gồm 42 nghiên cứu trên 
34.513 bệnh nhân) với kết quả cả hai cách 
phân loại Mallampati đều có độ chính xác tốt 
(với diện tích dưới đường cong chung - sROC- 
là 0,89 và 0,78).
8
Như vậy, với ưu điểm là đơn giản và có thể 
đánh giá nhanh tại giường bệnh, phòng mổ, 
nhưng cũng giống như kết quả được công 
bố trên thế giới chúng tôi thấy rằng ở bệnh 
nhân Việt Nam áp dụng đơn thuần phân loại 
Mallampati sửa đổi là không đủ để dự đoán 
đúng tất cả các trường hợp soi thanh quản 
hoặc đặt nội khí quản khó (độ nhạy và giá trị 
chẩn đoán dương tính còn thấp). Nhiều yếu 
tố tiên lượng quan trọng khác chưa được đề 
cập như; độ mở miệng, khoảng cằm giáp, di 
động đầu cổ, chu vi và độ dài cổ… Do đó nên 
áp dụng phân loại Mallampati sửa đổi như một 
thành phần trong mô hình dự đoán đa biến về 
soi thanh quản và đặt nội khí quản khó.
5


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
112
TCNCYH 167 (6) - 2023

tải về 282.88 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương