了 身 何 似 了 心 休
了 得 心 兮 身 不 愁
若 也 心 身 俱 了 了
神 仙 何 必 更 封 侯
(Thân kia nào quí được như tâm,
Tâm đã ngộ rồi nhẹ cái thân.
Ham gì trọn vẹn hai đàng nhỉ,
Là Phật rồi, phong chức có cần?)
Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Kiếp (kalpa), theo cách hiểu thú vị của người Ấn Độ là một nền đá rộng vuông vức, mỗi cạnh bốn mươi dặm, cứ một trăm năm lại có người tiên giáng hạ, lấy áo lông vũ quét nhẹ lên. Nếu nền đá chưa bị mài mất thì kiếp chưa hết. Ý nói khoảng thời gian cực dài. Người Trung Quốc không biết làm sao giảng nghĩa, chỉ dùng chữ “trường thì”.
Phật Đại Thông Trí Thắng có nghĩa là vị Phật trí tuệ lỗi lạc, cái gì cũng hiểu, cái gì cũng biết. Ông tu thiền đã 10 kiếp, lý ra đã thành tựu Phật đạo rồi nhưng cớ sao vẫn chưa. Nhà sư kia căn vặn và Thanh Nhượng đã phải giải thích lý do là vì Đại Thông Trí Thắng tự mình chưa thành Phật.
Khi dạy người ta trở thành kẻ đánh cờ chuyên nghiệp, trước hết không được dạy cờ thế mà phải để cho người ấy sau khi đánh nhiều ván, tự nhiên tự mình lãnh hội được. Trong chốn thiền môn, giảng nghĩa đến một lúc nào đó phải ngừng nếu không lại làm vướng bận tâm trí ngưới tu học. Thế nhưng trước quí độc giả nếu là những người không chuyên thì tôi không thể nào làm lối đó. Cho phép tôi dài dòng một chút:
Phật (Buddha) có nghĩa là bậc giác ngộ (The Awakened One), nghĩa là kẻ “tự mình thức tỉnh” về cái “con người chân thực” xưa nay của mình.Phật đạo chỉ là con đường “chân thực” để đi tìm con người mình có xưa nay (tự kỷ bản lai).Một khi đã thức tỉnh rồi, chúng sinh đều là “bản lai Phật”.Thành một thứ Phật cao hơn Phật là chuyện không cần thiết. Câu nói “Phật Đại Thông Trí Thắng không thành Phật” nằm trong ý nghĩa đó. Đã là Phật rồi thì mắc mớ gì trở thành Phật nữa. Thiền sư Bankei Yôtaku (Bàn Khuê Vĩnh Trác) ở Nhật nhân đấy có nói : “ Thay vì làm sao cho mình trở thành Phật, hãy làm những gì để mình là Phật thì mới gọi là biết chọn con đường rút ngắn”.
Chắc nhiều người trong số quí vị sẽ nói “À, ra là thế! Chỉ có nhiêu đó sao?” rồi dùng đầu óc, tư tưởng để tìm hiểu, xem công án này như trò chơi khăm. Thế nhưng, cách “tín tâm quyết định” ở đây không phải chuyện dễ đâu nhé! Nếu chỉ ngừng lại ở chỗ hiểu biết công án bằng đầu óc thì không thể tham thiền một cách đứng đắn và quả là chuyện đáng tiếc.
Chúng sinh đã là bản lai Phật rồi thì cần gì thành Phật nữa. Cho nên thiền sư mới bảo rằng cho dù là điều tổ sư Đạt Ma dạy, chỉ nên nghe theo một phần thôi. Ở điểm này, Vô Môn có vẻ khoáng đạt hơn Đạt Ma. Đây là một khuyến cáo thân mật và thích hợp mà ông đã truyền lại cho chúng ta.
Tắc số 10: Sư Thanh Thoát nghèo khó (Thanh Thoát cô bần)93.
清税孤貧
Bản tắc:
Hòa thượng Tào Sơn94 nhân có một tăng sĩ hỏi:
-Thanh Thoát 95tôi nghèo khó cô đơn. Dám xin đại sư có gì chẩn tế cho.
Tào Sơn bèn gọi:
-Nầy thầy Thanh Thoát!96
Thoát bèn thưa:
-Vâng!
Tào Sơn lúc đó mới bảo:
-Rượu ngon Thanh Nguyên97 của họ Bạch, đã uống cạn ba bát lớn rồi mà thầy vẫn chưa thấy môi mình ướt hay sao!98
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Thanh Thoát thoạt nhìn ra vẻ nghiêm trang nhưng đang vụng về mánh mung thử thách chi đây. Tào Sơn lại là kẻ có con mắt soi thấu gan ruột kẻ đứng trước mặt. Đành vậy, nhưng thử hỏi Thanh Thoát đã uống được thứ mỹ tửu đó ở đâu cơ!
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Bần tự Phạm Đan99,
Khí như Hạng Vũ.
Hoạt kế tuy vô,
Cảm dữ đấu phú100.
貧 似 笵 丹
氣 如 項 羽
活 計 雖 無
敢 與 闘 富
(Nghèo tựa Phạm Đan,
Hăng như Hạng Võ.
Không cách kiếm ăn,
Cũng dám đọ của)
Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Thanh Thoát đến gặp Tào Sơn, có vẻ hết sức tự hào về cái nghèo khó của mình, nghĩa là muốn khoe rằng lòng mình trống không (chân không vô tướng), mảy may không có gì (vô nhất vật), tự mãn vì mình đã đạt được chữ Không, nghĩa là đã giác ngộ.
Tào Sơn bèn đột ngột gọi “Thoát xà-lê!” và Thanh Thoát bất chợt “Vâng!” theo phản xạ. Xà-lê xưa có nghĩa là tiên sinh, dùng để xưng hô với lòng tôn kính các bậc cao tăng nhưng giữa người tu thiền, nó chỉ có nghĩa thường là thầy, ông, mà thôi.
Kinh Thánh Tân Ước chép rằng: “Phước thay cho người nghèo khó vì họ sẽ được thấy mặt Chúa!”Lại có chuyện một vị giáo sư đại học nọ đến thăm Bạch Sơn đạo tràng của cụ Nan.in (Nam Ẩn), phát biểu dông dài về tôn giáo.Lão tăng lắng nghe không nói gì và chỉ lên tiếng mời ông ta uống chén trà. Dầu tách trà đã tràn đầy mà nhà sư già vẫn không ngừng rót. Trà đã tràn ngập mặt chiếu, cụ không chịu thôi cho. Lúc đó, cầm lòng không đậu, vị giáo sư kia yêu cầu cụ ngừng rót. Cụ mới cười bảo: “Thì nó cũng giống như trường hợp của giáo sư. Bên trong đã đầy rồi thì bên ngoài có đưa gì vào nữa cũng chỉ là vô ích”.
Nơi một chén trà, cái gì là quan trọng? Có phải hình thức, kiểu cọ, cách nung, hay là vì nó là di phẩm truyền lại từ một đại trà sư cỡ Sen no Rikyuu101? Không đâu, cái quan trọng nhất trong chén trà là khoảng trống không của nó. Chén không trống thì trà, vật quan trọng hơn cả, không thể đổ vào. Vì thế kẻ có con tim thanh bần mới là kẻ hạnh phúc hơn cả.
Trong khi thiền, ta ngồi trên tấm bồ đoàn, để cho tâm thân thống nhất và an định, trước tiên phải phủ định ngoại cảm. Chăm chỉ ngồi thiền được lúc lâu thì ngoại giới tuy không mất hẳn nhưng tan biến dần, như thể có đó mà không có đó. Chẳng khác nào khi tập trung xem một đoạn phim, ta quên cả tiếng quạt máy đang quay vù vù trên đầu. Đối với người ngồi thiền, nó tương đương với chữ Vô. Tiếp theo, ta sẽ phủ định nội cảm.Đây là chuyện khó thực hiện bởi vì vọng tưởng muốn xóa vọng tưởng lại là một vọng tưởng cũng như “dùng máu để rửa máu” cho nên vọng tưởng sẽ không bao giờ hết tuyệt. Phải dùng “nước để rửa máu”. Nước ấy chính là Sổ Tức Quán (quán pháp đếm số hơi thở xuất nhập trong lúc ngồi thiền). Nếu tinh tiến được trong phép ấy, nội giới cũng như ngoại giới đều tan rã và người tu thiền đến gần trạng thái “thuần nhất vô tạp”. Lúc đó, trong tâm, một cái lông thỏ cũng không còn, sẽ nhập vào cảnh “chân không vô tướng”. Đó là tâm cảnh thanh bần, trong lòng không có mảy may gì. Hòa thượng Thanh Thoát đã mang theo tâm cảnh đó đến đứng trước Thiền sư Tào Sơn, như thể một thách thức.
Khi Tào Sơn lên tiếng hỏi và Thanh Thoát trả lời “Vâng!” thì Tào Sơn xem như Thanh Thoát không thấy cái “diệu dụng” của “chân không” mà chỉ ràng buộc mình vào với cái “đản không” (chỉ là không mà thôi). Tào Sơn mới trách đã uống được ba bát rượu ngon rồi còn nói không là thế nào?
Truyện trên cũng cùng ý nghĩa với câu chuyện về một tăng sĩ đến gặp Hòa thượng Triệu Châu và hỏi:
-Khi không mang một vật (vô nhất vật) nào đến thì phải làm sao?
Triệu Châu trả lời:
-Phải đặt nó xuống! (Phóng hạ trước!)
Rồi lúc khách hỏi:
-Không mang vật gì đến mà sao lại bắt hạ nó xuống?
Thì hòa thượng mới trả lời:
-À ra thế! Nếu vật ấy quí giá đến cỡ đó thì vác nó đem đi đi!
Như thế, Triệu Châu đã phủ định chữ Không trong “vô nhất vật” của tăng sĩ cũng như Tào Sơn đã phủ định cái Không trong sự “cô bần” của Thanh Thoát.
Người học thiền bắt buộc phải qua giai đoạn thể nghiệm cái “cô bần” của Thanh Thoát. Tọa thiền vì thế không dễ dàng. Thế nhưng “chân không” là “vô tướng” cũng là “diệu dụng” (cái máy động tuyệt diệu), và phải “diệu dụng” mới được. Người thầy dẫn đến chân không (ông thầy thiền) đôi lúc còn phải lột mất đi cái không đơn thuần (đản không) trong tâm cảnh của người học thiền.
HẾT PHẦN I
05.05.09
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |