Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của đất nước mà nguyên nhân và hình thái của chấn thương tai ngoài có khác nhau



tải về 16.51 Mb.
trang3/14
Chuyển đổi dữ liệu24.04.2018
Kích16.51 Mb.
#37085
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14

Hình 1.2: Vị trí của vành tai [11], [55].

1.2.2. Vành tai (auricula, pinna)



1.2.2.1. Hình thể ngoài

Vành tai có hình cái loa hướng ra hai bên đầu nên còn được gọi là loa tai.



Kích thước vành tai trung bình: dài 60 - 65 mm (nam ≈ 63,5 mm, nữ ≈ 59 mm), rộng 25 - 35mm, tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng gần bằng 2/1 [11], [20], [30], dái tai trung bình dài 1,5 - 2 cm [59]. Đối với người Việt Nam, vành tai trung bình ở nam dài 6,2 ± 0,6 cm, rộng 3,3 ± 0,3 cm; ở nữ dài 5,7 ± 0,5 cm, rộng 3,1 ± 0,3 cm; chiều dài của dái tai ở nam 1,7 ± 0,2 cm, nữ 1,6 ± 0,2 cm [11].

Vành tai có hai mặt: mặt trước và mặt sau (hoặc mặt ngoài và mặt trong).



Ở mặt trước, vành tai có những chỗ lồi và những chỗ lõm mà cách gọi tên có khác nhau chút ít tùy theo tác giả. Để thống nhất cách gọi chúng tôi dựa vào cách gọi trong sách Atlas giải phẫu người của Nguyễn Quang Quyền (2000) [19].

- Những chỗ lồi, tính từ chu vi về trung tâm, là: gờ nhĩ luân (helix), gờ đối luân (antihelix), bình tai (tragus) và gờ đối bình tai (antitragus) [20], [36].

+ Gờ nhĩ luân xuất phát từ trụ nhĩ luân, sau đó đi lên theo một hình vòng cung với 3 đoạn: đoạn lên, đoạn ngang và đoạn xuống. Đoạn nhĩ luân bắt đầu đi xuống có một chỗ hơi phình ra, đó là củ nhĩ luân Darwin. Bờ nhĩ luân uốn gấp vào trong làm cho nhĩ luân có hai mặt, mặt ngoài (đồng thời là mặt trước) và mặt trong.

+ Gờ đối luân là một gờ đồng tâm với gờ nhĩ luân, xuất phát từ phía trước đuôi luân, đi ngược lên phía trên rồi chia làm hai nhánh hình chữ Y, giữa hai nhánh này có một hõm hình tam giác gọi là hố tam giác hay hố đối luân.



­­­+ Bình tai hay nắp tai là một mảng gồ lên ở phía trước ÔT. Bình tai có hình tam giác, nửa bầu dục, có khi giống một hình thang. Nếu bình tai có hình lõm ở giữa thì phần lồi ở trên được gọi là củ trên bình tai, phần lồi ở dưới là bình tai. Giữa bình tai ở dưới và gờ nhĩ luân ở trên có một rãnh ngăn cách gọi là rãnh trước tai.

+ Gờ đối bình tai cũng là một mảng gồ lên ở phía sau xoắn tai, đối diện với bình tai ở phía trước. Gờ đối bình thường có hình nửa bầu dục.



- Những chỗ lõm là rãnh luân nhĩ, hố ghe, hố tam giác, khuyết gian bình và xoắn tai (hõm cửa tai) [20].

+ Rãnh luân nhĩ hay hố thuyền là rãnh lõm giữa gờ nhĩ luân và gờ đối luân.

+ Hố tam giác hay hố đối luân là rãnh lõm giữa hai nhánh chữ Y ở phía trên của gờ đối luân.

+ Ở giữa vành tai là một vùng lõm xuống như một cái phễu gọi là xoắn tai, đáy phễu là lỗ ÔT. Trụ nhĩ luân chia xoắn tai thành 2 phần không đều nhau: xoắn tai trên và xoắn tai dưới. Xoắn tai trên nhỏ, có hình bầu dục, còn gọi là hố ghe. Xoắn tai dưới lớn hơn, thường có hình tam giác, còn gọi là hõm cửa tai hay ổ xoắn tai.

+ Khuyết gian bình hay khuyết liên bình là một rãnh rộng, có hình dạng khá đối xứng nằm giữa bình tai và gờ đối bình, ngay trên dái tai.



Hình 1.3: Hình thể vành tai [2], [19].

- Phần dưới của vành tai được gọi là dái tai (lobule) hay thùy tai. Dái tai nối phía trên với gờ luân, gờ đối luân, khuyết gian bình và bình tai, giữa chúng có thể không có ranh giới phân chia hoặc có thể có một rãnh nông gọi là rãnh trên dái tai.

Ở mặt sau, vành tai uốn theo các chỗ lồi lõm ở mặt trước theo chiều ngược lại (mặt trước lõm thì mặt sau lồi và ngược lại) và bớt gồ ghề hơn. Giữa mặt sau gờ nhĩ luân và xoắn tai có một đường rãnh, tương ứng với mặt sau gờ đối luân. Mặt sau vành tai ngăn cách da đầu bởi một rãnh hình cung gọi là rãnh tai - đầu hoặc rãnh sau tai [30].

Hai vành tai của người thường không hoàn toàn giống nhau. Các bộ phận của vành tai cũng biến đổi theo tuổi tác và nghề nghiệp: vành tai trẻ em da mịn, các chỗ lồi lõm không quá gồ ghề; vành tai người già có những nếp nhăn, gập khúc, sụn cứng hơn và gồ lên rõ hơn, người lao động chân tay nhiều vành tai cứng và gồ ghề hơn.

1.2.2.2. Cấu tạo

Vành tai là một cái loa bằng sụn, ngoài có da mỏng bao bọc và được gắn tại chỗ bởi dây chằng.

  • Da có mô liên kết dưới da, các nang lông và một số tuyến bã. Da vành tai dính chặt vào mặt ngoài của sụn hơn là mặt trong.

- Sụn tạo thành dạng lồi lõm của vành tai, chiếm khoảng 3/4 - 4/5 diện tích vành tai. Sụn VT là sụn chun, dày từ 0,5 - 1 mm, bọc bởi màng sụn [3]. Sụn ở gờ bình tai liên tiếp với sụn ÔT. Sụn vành tai có vô số những khe và lỗ thủng nhỏ, xuyên qua các khe và lỗ thủng ấy là lỗ trục liên kết chứa các mạch máu nên khi va chạm hoặc chấn thương (CT) nhẹ ở vành tai thôi đã có thể vỡ các mạch máu và xuất huyết giữa sụn và màng sụn gây tụ máu VT [18]. Sụn vành tai giúp vành tai giữ nguyên hình dạng và có một độ vểnh nhất định so với đầu. Do đó, nếu sụn bị huỷ hoại vành tai sẽ biến dạng. Dái tai không có sụn, chỉ có da, mô sợi và mô mỡ, là nơi thường dùng để đeo hoa tai hay chọc kim thử thời gian chảy máu [3].

  • Cơ và dây chằng: Ngoài da và sụn, vành tai được gắn vào da hai bên đầu bởi các cơ và dây chằng ngoại lai.

+ Cơ: gồm các cơ ngoại lai và cơ nội tại. Các cơ ngoại lai là loại cơ bám da, gồm 3 cơ: cơ tai trước, cơ tai sau và cơ tai trên. Các cơ nội tại gồm 8 cơ: cơ luân nhĩ lớn, cơ luân nhĩ bé, cơ bình tai, cơ đối bình tai, cơ ngang tai, cơ chéo tai, cơ tháp tai và cơ khuyết nhĩ luân [20], [36].

+ Các dây chằng ngoại lai gồm: dây chằng tai trước, dây chằng tai sau và dây chằng tai trên.

Nhìn chung, cơ và dây chằng của tai kém phát triển, hầu như không có hữu ích gì cho việc vận động vành tai [48].

1.2.2.3. Mạch máu và thần kinh

- Động mạch (ĐM): vành tai được cấp máu rất tốt, các ĐM đi đến VT đều có xuất phát từ ĐM cảnh ngoài gồm: nhánh của ĐM thái dương nông và ĐM tai sau. nối với nhau tạo thành một mạng nhánh bàng hệ phong phú tập trung ở rìa VT [40].

+ ĐM thái dương nông chia ra các nhánh nhĩ trên, nhĩ giữa và nhĩ dưới cung cấp máu cho mặt trước của vành tai.



+ ĐM tai sau luôn song song với nhánh sau tai của dây thần kinh tai to cấp máu cho mặt sau vành tai [36].

- Tĩnh mạch (TM) của vành tai không có sự hệ thống hóa như ĐM. Các TM phía trước chảy vào TM thái dương nông, phía sau chảy vào TM cảnh ngoài hay TM liên lạc chũm [20], [36].



Hình 1.4: Động mạch của vành tai [40].

  1. ĐM thái dương nông. (b) ĐM tai sau.

- Bạch mạch: mặt trước vành tai đổ vào hạch chũm, mặt sau đổ vào hạch tuyến mang tai trước (ở phía trên) và hạch tuyến mang tai dưới (ở phía dưới).

- Thần kinh (TK):

+ Dây vận động tách từ dây TK mặt (dây VII) đi vào các cơ.

+ Dây cảm giác có nguyên ủy ở dây thái dương và ngành tai của đám rối thần kinh cổ.

1.2.3. Ống tai ngoài (meatus, ear canal)



1.2.3.1. Hình thể ngoài

Ống tai ngoài đi từ cửa tai đến màng nhĩ. Do màng nhĩ nằm chếch xuống dưới và vào trong nên thành trên sau ống tai dài khoảng 24 - 25mm, trong khi thành trước dưới dài khoảng 31mm. Thiết diện ngang của ống tai hình bầu dục, dẹp theo chiều trước sau [36].

Nhìn chung, ống tai ngoài đi từ ngoài vào theo hướng từ trước xuống dưới thành một đường cong hình chữ S, ở gần vành tai nó cong lồi ra trước và đến màng nhĩ thì cong lõm ra trước [36], chúng tạo ra một chỗ rất hẹp của ống tai, được gọi là khuỷu. Vì vậy, ở người trưởng thành, khi soi tai muốn nhìn thấy màng nhĩ phải kéo vành tai lên trên và ra sau để làm bớt đi độ cong này.



Hình 1.5: Hình thể ống tai ngoài [2].

(1) Ống tai ngoài. (2) Màng nhĩ. (3) Xương con.

1.2.3.2. Liên quan

- Thành trước liên quan với hố hàm ở phía trong và một phần tuyến mang tai ở phía ngoài. Vì vậy, một chấn thương vào cằm có thể làm cho lồi cầu xương hàm dưới trật ra sau và làm vỡ thành trước ống tai [57] và ngược lại, một nhiễm trùng ở ống tai ngoài có thể lan đến tuyến mang tai.

- Thành dưới liên quan đến tuyến mang tai.

- Thành trên cách ngách thượng nhĩ và tầng giữa của sọ bởi một mảnh của xương thái dương.

- Thành sau cách xoang chũm bằng một lớp xương mỏng [20].

1.2.3.3. Cấu tạo

Ống tai là được cấu tạo bởi sụn, xương và da.

Một phần ba ngoài ÔT được cấu tạo bởi sụn (sụn chun và sụn xơ), sụn này liên tiếp với sụn vành tai [36]. Ở thành trước sụn có hai khuyết sụn ÔT làm cho vành tai dễ di động và giúp dễ dàng nong rộng ống tai ngoài.

Hai phần ba trong ống tai được cấu tạo bởi xương nhĩ (một phần của xương thái dương). Xương nhĩ có hai mặt, bốn bờ. Trong đó, mặt trên sau của xương tạo nên thành trước của ống tai ngoài và hòm nhĩ; bờ ngoài tạo thành phần lớn ống tai ngoài; bờ trong nằm ngang phía dưới và phía ngoài lỗ ống tai .

Ống tai ngoài được lót bởi da liên tục với da loa tai và phủ mặt ngoài của màng nhĩ [36]. Da của ÔT có lông, tuyến bã và tuyến ráy tai có tác dụng làm lớp da khỏi bị khô, giữ độ pH và ngăn cản một phần các dị vật xâm nhập, bảo vệ màng nhĩ [36]. Da dính chặt vào sụn và xương nên nhọt ở ÔT gây đau đớn dữ dội [3], [20].

1.2.3.4. Mạch máu và thần kinh

- Động mạch: Ống tai ngoài được cấp máu bởi ĐM tai sau, ĐM thái dương nông và ĐM tai sâu của ĐM hàm.

- Thần kinh: Cảm giác ống tai ngoài được chi phối bởi TK ống tai ngoài thuộc TK hàm dưới (dây V3) và nhánh tai thuộc TK lang thang (dây X). Vì vậy, những bệnh của răng dưới và lưỡi, nơi chịu sự chi phối cảm giác của dây V3 cũng có thể gây cảm giác đau tai ngoài và những vật lạ ở ống tai ngoài có thể kích thích dây X gây nên phản xạ buồn nôn và ho [20].

1.3. SINH LÝ TAI NGOÀI



Tai ngoài và đầu thì thụ động nhưng cũng đóng vai trò quan trọng trong chức năng nghe [48].

Vành tai trông giống như chiếc loa hướng ra hai bên đầu có tác dụng hứng tất cả những âm thanh trong không khí từ bốn phía và cũng có thể định hướng được nơi phát ra âm thanh. Phía sau VT hơi lồi và mỏng, phía trước VT lại lõm vào để có thể thu đủ mọi âm thanh và phản xạ được mọi âm ba [24], [48]. Xoắn tai của vành tai có tác dụng cộng hưởng khoảng 5 kHz và bề mặt lồi lõm của vành tai tạo ra những cộng hưởng và phản cộng hưởng khác [48].

Ở loài động vật hạ đẳng có vú thường có vành tai rất to và dài vì cơ nhục nơi đó rất dài và nhiều nên có thể tùy tiện xoay hay vểnh tai đủ mọi phía để nghe ngóng. Nhưng tai của loài người lại không như thế được, tai người tuy cố định một chỗ nhưng vẫn có thể nghe được âm thanh phát ra từ mọi phía, song chỉ đứng ở một vị trí thích hợp nào đó mới có thể phân biệt được nơi phát âm [12], [22], [48].

Ống tai ngoài có nhiệm vụ đưa sóng âm ba vào đến màng nhĩ. Đồng thời, ống tai giống như một cái ống một đầu mở, một đầu đóng nên nó có tác dụng như một vật cộng hưởng sóng. Sự cộng hưởng này được quyết định bởi chiều dài ống tai, không liên quan đến độ cong của ống, ví dụ nếu ống dài 2,5cm thì tần số cộng hưởng xấp xỉ 3,5 kHz [48]. Có tác giả cho rằng, nhờ sự cộng hưởng ở ống tai ngoài áp lực sóng âm ba ở tần số 2888Hz có thể tăng lên gấp ba lần [22].

1.4. NGUYÊN NHÂN CỦA CHẤN THƯƠNG TAI NGOÀI



Định nghĩa trường hợp chấn thương là những trường hợp cơ thể có những tổn thương ở các mức độ khác nhau do phơi nhiễm cấp tính đối với một nguồn năng lượng tác động lên cơ thể với mức quá ngưỡng chịu đựng của cơ thể hay bởi sự thiếu vắng đột ngột của các yếu tố thiết yếu, xảy ra do: tai nạn giao thông, tai nạn sinh hoạt, tai nạn lao động, ngã, ngộ độc, bỏng, điện giật, tự tử, tự làm hại, hành hung, đánh nhau… dẫn đến bị vết thương chảy máu, bong gân, phù nề, xây xát, gãy xương, vỡ sụn, chấn thương sọ não, bỏng, ngạt nước, ngộ độc .v.v. [27]

1.4.1. Tai nạn giao thông



Hiện nay, chấn thương do tai nạn giao thông thường chiếm tỷ lệ cao nhất do rất nhiều yếu tố như hệ thống đường sá không đảm bảo, các phương tiện giao thông cũ nát, xuống cấp… [43]. Nhưng quan trọng hơn cả là do hiểu biết và ý thức chấp hành luật giao thông của nhiều người còn kém.

Mặt khác, từ khi có Quyết định của chính phủ về việc bắt buộc người đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông thì có một số ít bệnh nhân lại bị chấn thương tai ngoài (CTTN) do những mảnh vỡ của mũ bảo hiểm cắt vào tai khi bệnh nhân ngã đập đầu xuống đất. Như vậy, mũ bảo hiếm không đảm bảo chất lượng hiện cũng là một yếu tố góp phần gây CTTN khi bị tai nạn giao thông.

1.4.2. Tai nạn lao động



Xảy ra khi làm việc thiếu phương tiện bảo hộ cần thiết hoặc do sự thiếu cẩn thận và ý thức chấp hành kỷ luật lao động không nghiêm chỉnh. Ví dụ như: công nhân xây dựng ngã giàn giáo, bỏng xăng, gas khi đang làm việc .v.v.

1.4.3. Tai nạn sinh hoạt

Trong sinh hoạt cũng có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến CTTN như trẻ nhỏ bị ngã khi chạy nhảy, ngã sàn ướt, ngã cầu thang, ngã vào nước sôi hay khi đang ngoáy tai bị va chạm gây tổn thương ống tai hoặc những CT nhỏ như đập vành tai vào cửa, gối cứng cũng gây chấn thương vi thể dẫn đến tụ máu vành tai…

1.4.4. Tai nạn thể thao



Trong khi luyện tập và thi đấu thể thao, các vận động viên có thể bị CTTN khi bị ngã, bị đấm vào tai trong quyền anh, bóng đá, đua xe… , nhất là các môn võ thuật có tính đối kháng cao [45], [57]. Theo Perhins S. W., ở Mỹ năm 1991 có hơn 100.000 trường hợp CT đầu mặt do tai nạn thể thao xảy ra ở trẻ dưới 14 tuổi [53].

1.4.5. Đánh nhau (hay ẩu đả)



Trong chấn thương tai ngoài, đánh nhau cũng là một nguyên nhân thường gặp do bị đánh, đấm vào tai bằng tay không hoặc bằng dụng cụ, một số khác do bị chém vào tai bằng dao, mã tấu…, đặc biệt còn có một vài trường hợp bị CTTN do bị động vật cắn hay người cắn trong lúc đánh nhau. Những trường hợp chấn thương này thường có liên quan đến vấn đề pháp lý nên bệnh nhân thường khai không đúng sự thật và ít tuân thủ theo đúng yêu cầu điều trị và tái khám của bác sỹ.

Tổ chức Y tế Thế giới năm 2002 đã đưa ra dự đoán chấn thương do tai nạn giao thông và bạo lực sẽ tăng một cách mạnh mẽ cho tới những năm 2020 [27]. Do đó, đây là một trong những mối lo ngại cho cộng đồng và ngành y tế.

1.4.6. Tai nạn hỏa khí



Nguyên nhân này gặp nhiều trong thời chiến do sát thương của mảnh đạn, mảnh bom, mìn… Tuy nhiên, trong thời bình cũng có thể gặp khi bộ đội diễn tập, ở những công trình có dùng đến thuốc nổ, vô tình dẫm phải mìn trong chiến tranh còn sót lại…

1.4.7. Các nguyên nhân khác



Các nguyên nhân này có thể là biến chứng mổ tai [50], [57], tự sát hay không rõ nguyên nhân (theo nghiên cứu của Phạm Xuân Phụng có 58% CT tụ dịch VT không rõ nguyên nhân [18])... Tuy nhiên, chúng chiếm tỷ lệ rất thấp trong CTTN.

1.5. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA CHẤN THƯƠNG TAI NGOÀI



Vết thương được định nghĩa chung là sự mất liên tục của bất cứ phần nào của cơ thể do CT hoặc những tấn công cơ học gây ra, kể cả những tổn thương do hóa chất, nhiệt, tia xạ, vi khuẩn và những chất có tính độc hại cho mô tế bào [21].

Chấn thương tai ngoài có những hình thái sau:



1.5.1. Rách, đứt, giập vành tai

1.5.1.1. Lâm sàng

- Đau, chảy máu, sưng nề, biến dạng vành tai.

- Có vết thương trên vành tai. Các vết thương này có thể là vết thương xây xát da, rách da lộ sụn, vết thương xuyên, thiếu hổng vành tai, vết thương đứt rời một phần hoặc vết thương đứt lìa vành tai hoàn toàn. Các vết thương đứt lìa vành tai hoàn toàn thường kéo theo đứt lìa ống tai.



Каталог: 2009
2009 -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
2009 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôN
2009 -> Nghị ĐỊnh số 163/2004/NĐ-cp ngàY 07/9/2004 quy đỊnh chi tiết thi hành một số ĐIỀu của pháp lệNH
2009 -> BỘ CÔng thưƠng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Mẫu số: 01 (Ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 31 /2009/ttlt-btc –BLĐtbxh ngày 09 tháng 09 năm 2009) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> BỘ y tế Số: 12/2006/QĐ-byt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở TƯ pháP Độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> CÔng ty cp đIỆn tử BÌnh hòa cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Ủy ban nhân dân thành phố HỒ chí minh

tải về 16.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương