TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên ngô Thị Quỳnh Trang


Kháng nguyên bề mặt của VRVGB ( HBsAg)



tải về 1.24 Mb.
trang2/11
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.24 Mb.
#15206
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Kháng nguyên bề mặt của VRVGB ( HBsAg)

HBsAg là dấu ấn đầu tiên của VRVGB xuất hiện trong huyết thanh của bệnh nhân, khoảng 2-12 tuần sau khi nhiễm vi-rút và khoảng 2-6 tuần trước khi có triệu chứng lâm sàng. Sự hiện diện của HBsAg là bằng chứng giá trị nhất đang nhiễm VRVGB dù có hay không có triệu chứng lâm sàng.Trong viêm gan vi-rút B cấp HBsAg đạt đến nồng độ cao nhất tương ứng với thời kỳ vàng da rõ trên lâm sàng rồi sau đó giảm dần. Có khoảng 5-10% trường hợp HBsAg biến mất rất sớm trước khi có triệu chứng lâm sàng. HBsAg có thể dương tính kéo dài từ 1-3 tháng và trở về âm tính sau khi transaminase đã trở về bình thường.  Nhiễm VRVGB mạn tính được xác định khi HBsAg tồn tại trên 6 tháng sau giai đoạn khởi phát của VGVRB cấp.

Thăm dò  bằng kỹ thuật ELISA hay RIA có thể phát hiện được HBsAg ở nồng độ 0,1-0,5 ng/ml.

Kháng thể kháng HBs (Anti-HBs)

Anti-HBs là kháng thể duy nhất có khả năng trung hoà. Đây là dấu ấn huyết thanh phản ánh tình trạng VG B đã khỏi bệnh và (hay) được miễn nhiễm đối với VRVGB. Anti-HBs tồn tại trong huyết thanh một thời gian dài. Trong phần lớn các trường hợp, Anti-HBs bắt đầu xuất hiện khi HBsAg đã biến mất. Thời điểm xuất hiện Anti-HBs rất thay đổi, từ 1-10 tuần, có khi đến 6 tháng sau khi HBsAg biến mất. Phần lớn bệnh nhân sẽ có miễn dịch bảo vệ lâu dài đối với VRVGB khi có Anti-HBs.
Sau khi tiêm chủng phòng VRVGB, Anti-HBs là dấu ấn huyết thanh duy nhất hiện diện trong huyết thanh của người được tiêm chủng. Anti-HBs được phát hiện bằng kỹ thuật ELISA hay RIA.

Kháng nguyên lõi vi-rút viêm gan B (HBcAg)

HBcAg là kháng nguyên cấu trúc nhân nucleocapsid, có thể được phát hiện trong nhân tế bào gan bị nhiễm VRVGB nhưng không bao giờ có trong huyết thanh. HBcAg không có đoạn peptid tín hiệu cho nên nó không dược bài tiết ra khỏi tế bào gan.

Kháng thể kháng HBc (Anti-HBc)

Anti-HBc là dấu ấn huyết thanh quan trọng nhất để chứng minh bệnh nhân đã từng bị nhiễm HBV. Có 2 loại Anti HBc :

+ Anti-HBc IgM: có nồng độ cao trong huyết thanh của bệnh nhân viêm gan B giai đoạn cấp, kéo dài trong vài tháng, sau đó nồng độ sẽ giảm dần hay biến mất trong giai đoạn mạn tính.

+ Anti-HBc IgG: xuất hiện sau và tồn tại trong một thời gian dài ở bệnh nhân viêm gan B mạn tính.

Kháng nguyên HBe (HBeAg)

HBeAg là một dấu ấn hiện diện sớm trong huyết thanh của bệnh nhân VGVRB cấp, xuất hiện sau HBsAg vài ngày và biến mất khi vi-rút ngừng nhân lên.
HBeAg được tổng hợp vượt trội trong giai đoạn vi-rút nhân lên, có liên quan đến sự hiện diện các virion hoàn chỉnh và cũng là bằng chứng về tính lây nhiễm cao. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với phụ nữ mang thai. Nếu họ có HBeAg(+) thì khả năng lây cho con có thể lên đến 80-90% nhưng nếu HBeAg (-) thì khả năng lây cho con chỉ 10-20% .

Nếu HBeAg tồn tại kéo dài trên 8 tuần khi bắt đầu có triệu chứng lâm sàng sẽ là chỉ điểm sớm khả năng diễn biến sang giai đoạn mạn tính. Người ta cũng nhận thấy rằng trong viêm gan cấp có HBeAg (+) thì bệnh thường diễn biến kéo dài và nặng hơn.
Trong trường hợp xảy ra đột biến tiền lõi (precore mutation), HBeAg không được tổng hợp nhưng sự nhân đôi của vi-rút vẫn diễn ra. Điều này được chứng minh bằng sự hiện diện của HBV DNA trong huyết thanh bệnh nhân.

Kháng thể kháng HBe (Anti-HBe)

Sự chuyển huyết thanh HBeAg (+) sang AntiHBe (+) có thể xảy ra một cách tự nhiên 10-15% mỗi năm hay được thúc đẩy nhanh chóng nhờ những thuốc kháng vi-rút ( Lamivudin, Interferon...). Tuy nhiên một số trường hợp AntiHBe (+) nhưng HBeAg có thể tái xuất hiện trở lại do các đợt tái hoạt động của VRVGB.

HBV DNA:

HBV DNA (+) chứng tỏ vi-rút đang ở giai đoạn nhân lên mạnh mẽ; sự nhân lên này được đánh giá bằng phương pháp định tính hay định lượng và được xác định bằng kỹ thuật sinh học phân tử ( PCR). Bằng kỹ thuật PCR, HBV DNA có thể được tìm thấy trong huyết thanh và trong gan sau khi HBsAg mất đi, đặc biệt là ở những bệnh nhân đang được điều trị bằng các thuốc kháng vi-rút. HBV DNA là một dấu chỉ điểm chính xác của mức độ nhiễm vi-rút huyết và có thể tương quan với nồng độ transaminase và song song với sự hiện diện của HBsAg trong huyết thanh.Có sự

liên quan chặt chẽ giữa HBV DNA với tính lây nhiễm cũng như liên quan với HBeAg. HBV DNA có giá trị tiên lượng giống như HBeAg.

Những bệnh nhân có đột biến pre-core thì có HBeAg(-) và HBV DNA(+).[3 ], [41 ], [53 ], [75 ], [126], [133]


1.1.4.2. Các dấu ấn của HCV:

Hiện nay người ta chưa tìm được kháng nguyên của HCV trong huyết thanh người vì vậy dấu ấn của vi rút viêm gan C trong huyết thanh người thường được sử dụng là anti HCV, Sự có mặt của anti HCV trong huyết thanh người chứng tỏ người đã nhiễm vi rút viêm gan C. Ngoài dấu ấn anti HCV thì ARN- HCV cũng là dấu ấn chứng tỏ vi rút đang trong giai đoạn nhân lên.

1.2. Bệnh học viêm gan B và viêm gan C:

1.2.1. Triệu chứng bệnh viêm gan B và viêm gan C:

1.2.1.1. Triệu chứng bệnh viêm gan B:

Viêm gan B là một trong những bệnh có tần suất mắc và tử vong cao.

Viêm gan B có thể chia làm nhiều loại: cấp tính, mãn tính hay thể kéo dài [19], [28],[35]. Tuy mỗi dạng có những đặc trưng riêng, nhưng đều có chung một số triệu chứng sau:

Người mới bị viêm gan vi rút B cấp, thường bị sốt nhẹ trong những ngày đầu của bệnh. Tuy nhiên, những người bị viêm vi rút B mãn cũng có thể sốt nhẹ nhưng bệnh nhân thường bị sốt thất thường vào chiều.

Bệnh nhân có cảm giác người rất mệt mỏi, không muốn ăn uống, không  muốn đi lại. Triệu chứng này tồn tại ở đa số bệnh nhân với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, cũng có những bệnh nhân viêm gan vi rút B chỉ có triệu chứng mệt mỏi là duy nhất.

Bệnh nhân có thể có rối loạn tiêu hoá, thể hiện: khi ăn vào ậm ạch khó tiêu, đi ngoài phân lỏng, nát… Đặc biệt, với những trường hợp viêm gan B có ứ mật nặng thì phân bị bạc màu.

Bệnh nhân có nước tiểu vàng. Có nhiều bệnh nhân bị viêm gan B không thể hiện những triệu chứng trên mà chỉ có hai triệu chứng là mệt mỏi và đi tiểu vàng.

Một số bệnh nhân có biểu hiện đau tức vùng gan.



Viêm gan B cấp:

Biểu hiện lâm sàng của viêm gan vi rút B ( VGVRB) cấp thường phong phú và đa dạng. Tỷ lệ nhiễm VRVGB cấp có triệu chứng lâm sàng tương đối thấp, khoảng 10% trường hợp và phụ thuộc vào tuổi của bệnh nhân. Đối với trẻ em trước tuổi đến trường, viêm gan cấp rất hiếm xảy ra. Khi tuổi càng lớn, tỷ lệ mắc viêm gan B cấp tăng tương ứng. Ở người lớn có khoảng 25% người nhiễm VRVGB có các dấu hiệu lâm sàng. Thể điển hình thường có 4 giai đoạn:

- Thời kỳ ủ bệnh: khoảng 30-180 ngày. Thời gian này tuỳ thuộc vào nồng độ của vi-rút trong huyết thanh và các yếu tố của ký chủ. Đây là giai đoạn im lặng, không có triệu chứng.

- Thời kỳ khởi phát (trước vàng da): kéo dài 1-2 tuần, trung bình 3-7 ngày. Đây là giai đoạn tiền triệu với các triệu chứng giống như cúm. HBsAg có thể được phát hiện ở giai đoạn này. Trên lâm sàng ghi nhận các triệu chứng: sốt nhẹ (12-55%), đau cơ (15-50%), đau khớp (15-40%), mệt mỏi, chán ăn (95%), buồn nôn, đau hạ sườn phải...Ngoài ra có thể có nhức đầu, đau họng, sợ ánh sáng…Đau khớp, phát ban có liên quan đến sự  hình thành các phức hợp miễn dịch.

    Khởi phát của bệnh có thể đột ngột nhưng cũng có thể âm thầm với những triệu chứng giống cảm cúm như đau cơ, đau khớp. Điều cần chú ý là sốt cao kèm theo vàng da-vàng mắt không phải là đặc điểm của bệnh VGVRB. Mệt mỏi, uể oải là những dấu hiệu xuất hiện rất sớm, hiện diện trong khoảng 95% trường hợp. Đây không những là dấu hiệu xuất hiện đầu tiên mà còn là dấu hiệu kéo dài lâu nhất.

Chán ăn là triệu chứng rất thường gặp và thường kéo dài. Bệnh nhân thường không còn thích những món ăn mình ưa thích trước đây. Buồn nôn, nôn và chán ăn  thường có liên quan với thay đổi cảm giác và khẩu vị. Có khi bệnh nhân có cảm giác khó tiêu sau mỗi lần ăn, vì vậy khiến cho bệnh nhân không muốn ăn uống.

Đau bụng thường xuất hiện trong khoảng 60% trường hợp. Bệnh nhân cảm thấy đau âm ỉ ở hạ sườn phải, không giảm khi dùng các thuốc trung hoà dịch vị, khi ăn hoặc khi thay đổi tư thế.Viêm khớp cũng rất thay đổi từ mức độ nhẹ đến trung bình, xảy ra ở nhiều khớp nhưng không gây biến dạng khớp. Bệnh nhân thường đau ở các khớp khuỷu tay, cổ tay, đầu gối, khớp liên đốt bàn tay...Ở trẻ em bị VGVRB cấp có thể bị bệnh Gianotti với 3 đặc điểm: phát ban ngoài da, nổi hạch, viêm khớp.

Tiểu vàng đậm và phân có màu đất sét có thể được ghi nhận ở bệnh nhân khoảng 1-5 ngày trước khi bắt đầu thời kỳ vàng da.

- Thời kỳ toàn phát (thời kỳ vàng da): Các dấu hiệu toàn thân của thời kỳ trước vàng da giảm dần, bệnh nhân hết sốt. Bệnh nhân thấy nước tiểu ít đi, tiểu vàng đậm, sau đó vàng mắt, vàng da, phân hơi bạc màu. Khoảng hơn 40% bệnh nhân có triệu chứng ngứa ngoài da. Tình trạng ngứa tăng lên theo mức độ vàng da. Khi nồng độ bilirubin trong huyết thanh <10 mg% thì rất khó phát hiện vàng mắt.

Thăm khám thực thể có thể phát hiện gan lớn (50-80%), mềm, gây cảm giác đau và khó chịu ở hạ sườn phải. Khoảng 10-20% bệnh nhân có lách lớn và hạch lớn ở cổ. Xét nghiệm có transaminase và bilirubin tăng cao, tỷ lệ prothrombin giảm. Trên 20% bệnh nhân có các dấu hiệu bệnh lý ngoài gan như viêm mạch dạng  nút (polyarteritis nodosa), viêm vi cầu thận cấp, hiện tượng Raynaud, ban đỏ  dạng nút (erythema nodosa). Các bệnh lý này xuất hiện chủ yếu do hình thành phức hợp kháng nguyên-kháng thể. Bệnh nhân có thể có giảm cân nhẹ khoảng 2,5-5 kg trong suốt thời kỳ vàng da. Có một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân VGVRB cấp không có giai đoạn vàng da rõ.

- Thời kỳ hồi phục: Dấu hiệu vàng da kéo dài trong 2-6 tuần, có khi dài hơn, sau đó bệnh nhân tiểu trong hơn và nhiều hơn, ăn ngon miệng, ngủ được, cảm giác mệt mỏi giảm rõ rệt. Thăm khám thấy gan nhỏ lại. Các thông số sinh hoá, huyết học dần trở lại bình thường nhưng chậm hơn. Giai đoạn hồi phục kéo dài khoảng 2-12 tuần, nhưng sự hồi phục hoàn toàn về lâm sàng và sinh hoá ở 3/4 bệnh nhân VGB cấp không có biến chứng kéo dài khoảng 3-4 tháng kể từ khi bắt đầu vàng da.

Ngoài thể điển hình còn có các thể không vàng da, thể ứ mật, thể viêm gan tối cấp... [14], [20], [25] [79], [111].



Viêm gan B mạn: Là tình trạng nhiễm vi rút viêm gan B kéo dài. 90% trường hợp nhiễm SVVG B ở tuổi trưởng thành sẽ hồi phục hoàn toàn và không bao giờ bị siêu vi quấy rầy lại. Chỉ có 10% chuyển thành người mang vi rút mạn tính [9], [28], [38], [47]

Tuy nhiên, ở trẻ nhiễm vi rút viêm gan B từ lúc mới sinh, bệnh diễn biến khác hẳn. Khoảng 90% số trẻ này sẽ trở thành người mang bệnh mạn tính. Giai đoạn này kéo dài nhiều năm, có thể không có biểu hiện lâm sàng, cuối cùng dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng như xơ gan, có nước trong ổ bụng, chảy máu đường tiêu hóa do vỡ mạch máu bị giãn, ung thư gan.

Nói chung, khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn xơ gan, chức năng gan khó có thể hồi phục, ngay cả khi tình trạng viêm gan được cải thiện. Vì vậy, các thầy thuốc thường điều trị bệnh sớm nhằm ngăn ngừa hoặc làm chậm quá trình xơ gan

Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm gan B mạn: để chẩn đoán bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính người ta dựa trên các tiêu chí sau:


  • HBsAg dương tính > 6 tháng

  • Nồng độ DNA- HBV trong huyết thanh > 105 copies/ml, giá trị thấp hơn khoảng 104-105 thường thấy ở người viêm gan B mạn tính có HBeAg âm tính

  • Nồng độ ALT/AST tăng cao lien tục và kéo dài

  • Sinh thiết gan cho thấy mức độ viêm gan vừa hoặc nặng.[9], [35]



Hình 1.7. Tiến triển của nhiễm vi rút viêm gan B

1.2.1.2. Triệu chứng bệnh viêm gan C:



Sau khi bị nhiễm HCV, thời gian ủ bệnh thường kéo dài từ 2 đến 26 tuần. Giai đoạn đầu gọi là nhiễm bệnh cấp tính. HCV cấp tính thường chấm dứt sau 2 đến 12 tuần. Tuy nhiên, có đến 80% số người mới bị nhiễm bệnh cơ thể của họ không loại trừ được hết siêu vi nên trở thành bệnh kinh niên. Ða số người có viêm gan C kinh niên không hề có triệu chứng nào và vẫn có một cuộc sống gần như bình thường. Nhưng trong số 10% đến 25% người có bệnh kinh niên, bệnh vẫn âm thầm phát triển suốt trong khoảng 10 đến 40 năm. HCV kinh niên có thể dẫn đến hư gan, mô sợi phát triển trong gan (fibrosis), tụ mỡ trong gan (steatosis), xơ gan (cirrhosis), và ung thư gan. Trong trường hợp nghiêm trọng, người bệnh có thể cần phải được thay gan.

Bảng 1.1. Các Triệu Chứng của Người Viêm Gan C


Viêm gan C cấp tính

Ðau ốm như bị cúm

Sình bụng

Buồn nôn

Mệt mỏi (nhẹ đến nặng)

Đau vùng bụng

Nôn mửa

Ăn không ngon (biếng ăn)

Sốt

Đổ mồ hôi vào đêm

Tiêu chảy

Vàng da

Khó tiêu

Nhức bắp thịt, khớp

Nhức đầu

 



Viêm gan C mạn tính

Mệt mỏi (nhẹ đến nặng)

"Brain fog" (Rối trí)

Tâm thần bất thường

Ăn không ngon (biếng ăn)

Buồn nôn

Khó tiêu

Nhức bắp thịt, khớp

Đau vùng bụng

Sốt

Nhức đầu

Trầm cảm

 




Giai đoạn cuối của viêm gan C với tình trạng xơ gan

Mệt mỏi (nhẹ đến nặng)

Sốt

Buồn nôn

Ăn không ngon (biếng ăn)

Nôn mửa

Tiểu nhiều

Vàng da

Khó tiêu

Nhức đầu

Nhức bắp thịt, khớp

Đau vùng bụng

Sình bụng

Trầm cảm

Tâm thần bất thường

Nhận thức chậm chạp

Không tập trung

Rối loạn tinh thần

Chóng mặt

Thị giác kém

Tụ nước (phù)

 



ăng


10 – 30 năm

Hình 1.8. Tiến triển của nhiễm vi rút viêm gan C.

1.2.2. Chẩn đoán bệnh viêm gan B và viêm gan C

Có nhiều kỹ thuật giúp phát hiện vi rút viêm gan B và viêm gan C như:

Kỹ thuật test nhanh HBsAg và an ti HCV: là dụng cụ xét nghiệm sắc ký miễn dịch định tính bằng phương pháp dòng chảy một chiều để phát hiện sự có mặt của kháng nguyên vi rút Viêm gan B hay kháng thể HCV trong huyết thanh hoặc huyết tương. Màng kit thử được phủ một lớp kháng thể kháng HBsAg hay lớp kháng nguyên HCV ở vùng kết quả.

Kỹ thuật ELISA: là kỹ thuật dựa vào sự kết hợp giữa kháng nguyên với kháng thể gắn enzym để phát hiện kháng thể hoặc kháng nguyên trong huyết thanh. Kỹ thuật này có độ nhạy cao, áp dụng được cùng lúc nhiều mẫu bệnh phẩm. Hiện nay kỹ thuật ELISA được sử dụng rộng rãi trên thế giới để phát hiện vi rút viêm gan B và viêm gan C.

Kỹ thuật RT-PCR: Kỹ thuật này có giá trị chẩn đoán cao, cho phép phát hiện trực tiếp vi rút viêm gan B và vi rút viêm gan C trong huyết thanh nhờ khả năng khuếch đại sao chép ngược các đoạn ADN và ARN đặc hiệu trên hệ gen của vi rút viêm gan B và viêm gan C. Kỹ thuật này có thể dung để định lượng và định typ vi rút viêm gan B và viêm gan C

Kỹ thuật Sequencing:

Nguyên lý: Kỹ thuật Sequencing dựa trên phương pháp enzym Sanger ( Phương pháp đầu tận cùng của chuỗi). Chìa khóa của phản ứng này là sử dụng dideoxynucleotide không có nhóm OH ở vị trí 3’ trong phản ứng tổng hợp ADN. Do đó khi enzym ADN polymerase gắn chúng vào sợi ADN thì quá trình tổng hợp bị ngừng lại. Vì vậy phương pháp này còn được gọi là phương pháp dideoxy[21].

1.2.3.Vắc xin tiêm phòng:

Vắc xin tiêm phòng viêm gan B:


Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
ChuaChuyenDoi -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường

tải về 1.24 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương