Trần TrúcLâm những hộ pháp vưƠng của phật giáo trong lịch sử ẤN ĐỘ


Sự hưng thịnh của Vương quốc Bactria (hay Bactriana)  và cuộc chinh phục đất Ấn



tải về 1.49 Mb.
trang7/17
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích1.49 Mb.
#35349
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   17

Sự hưng thịnh của Vương quốc Bactria (hay Bactriana)  và cuộc chinh phục đất Ấn


Vào năm 281 TTL vua Seleukos I bị ám hại, và sau khi ông chết thì đế quốc Seleucid cũng bị chia thành 2 xứ: Syria (với vua Antiochos I, dòng dõi của Seleukos) và Parthia (với vua Arsaces). 

Vua Antiochos I cử Diodotos làm thái thú ở xứ Bactria (Kinh sách Hán văn gọi là nước Đại Hạ, vùng bao gồm Pakistan và Afghanistan bây giờ). Bactria (hay Bactriana - tiếng Iran cổ là Paktra) là một xứ màu mở nằm giữa dãy núi xanh Hindu-Kush (Paropamisus) và con sông Amu Darya (Oxus). 

Khi thấy Syria và Parthia mãi lo tiêu diệt lẫn nhau, Diodotos tự xưng làm vua vào năm 255 TTL, đóng đô ở Bactra - nay là Balkh, tên cũ là Taxila – rồi chiếm luôn xứ Sogdiana ở phía bắc. Tuy vậy vua Antiochus III của Syria lại xua quân tái lập nền thống trị lên Bactria. 

Mãi đến khi Antiochus III bị quân La-mã đánh bại thì ở Bactria, Euthydemos vốn là một đại thần của Diodotos, lên ngôi năm 227 TTL và đẩy lui được những đợt tấn công của vua Antiochos III. Năm 205 TTL. Euthydemos I đã chống cự được cuộc vây hảm thành Bactra sau hơn hai năm, rốt cuộc Antiochos III đành giảng hòa rút quân và gả con gái cho con trai của Euthydemos I là Demetrios. Từ đó vương quốc Bactria mới hòan tòan độc lập, và các vị vua cai trị được sử gọi là vua Hy-Bactria. 




Vua Diodotos



Về sau, Euthydemos I còn bành trướng đất đai mãi đến vùng Tiểu Á. Strabo đã viết “họ bành trướng vương quốc xa đến vùng Seres và Phryni” (Strabo XI.II.I). [Chú thích thêm: Có lẽ Phryni ở đây phải được viết là Phrygia]. 

 


Vua Demetrios I (khỏang 200-180 TTL) Người chinh phục Ấn.  
(chân dung trên đồng tiền cổ).

Sau khi Euthydemos I mất năm 200 TTL, con là Demetrios I kế vị và năm 180 TTL kéo quân xâm lăng đất Ấn sáp nhập thung lũng Indus (vùng Ngũ Hà) vì chính sách bách hại PG của vua Ấn là Sunga. Từ đó các vua Bactria được gọi là Hy-Ấn. Đến năm 170 TTL đời vua Demetrios II quân Bactria tiến được đến miền đông vây hãm lâu dài kinh đô Ấn là thành Pataliputra, sau khi chiếm bán đảo Surastra  (Kathiavar), Gandhara, và Vahika (Punjab bây giờ). Vương quốc Ấn của triều Sunga bị thu hẹp ở phía đông. 

Năm 169 TTL, trong khi vua Demetrios II đang hành quân ở miền đông Ấn thì tướng Eucratides I cướp ngôi ở kinh đô Bactra tự lập làm vua. Trên đường trở về kinh dẹp lọan thì vua Demetrios II bị tử thương. Em là Apollodots I lên thay, nhưng không bao lâu sau cũng bị Eucratides I tấn công hạ sát vào năm 165 TTL. Vương quốc của Eucratides I cũng bị tan rã nhanh chóng sau khi ông bị giết năm 150 TTL. 

Một bộ tướng tin cẩn của vua Demetrios II là Menandros (còn viết là Menander) lên kế vị. Vua Menander liền dời đô về Sagala (Xá Kiệt) và ngưng cuộc vây hảm Pataliputra. Khi rút quân về lại Sakala, ông mang theo về cái lý tưởng thuận trị theo Chánh Pháp của Asoka. Nhờ vậy Phật pháp lại được tiếp tục truyền bá mạnh đến cố đô Taxila rồi vùng Trung Á và còn xa hơn nữa. Ông trị vì được 35 năm, nhưng sau khi ông mất thì vương quốc rộng lớn của ông bắt đầu bị chia xẻ thành nhiều tiểu quốc. 

Sagala (bây giờ là Sialkot ở Punjab), kinh đô mới của nước Bactria, nơi có cuộc đàm đạo giữa vua Menander và tỳ kheo Nagasena tại chùa Sankheyya, là một vùng rất phì nhiêu, nằm giữa hai con sông Chenab và Ravi gần biên giới của Kashmir, mà trong bộ kinh (Miln. trang 83 – câu 5, Chương 7) đề cập đến là cách Kashmir 12 do-tuần (yojanas) tức khỏang 84 miles. 

Tổng cộng có cả thảy hơn 30 vị vua Hy-Ấn (Indo-Greek Rulers) trong vùng đã cai trị trong vòng 2 thế kỷ từ 323 đến 10 TTL. Các triều đại huy hòang của Hy-Ấn bị suy tàn kể từ 130 TTL và sau rốt bị người Kushan chiếm đọat. Vua cuối cùng là Strato II, tại vị từ 40-10 TTL. 

---o0o---

Phổ Hệ của những vị vua của vương quốc Bactria với các năm trị vì


Vương quốc Hy-Bactria (Greco-Bactrian Kingdom):  
Sophytes hay Seleukos (305-294 TTL)  
Diodotos I (khỏang 250 – 230 TTL)  
Diodotos II  
Euthydemos I; lật đổ Diodotos (khỏang 230-200 TTL) 

Vương quốc Hy-Ấn (Greco-Indian Kingdom):  
Demetrios I (khỏang 200-180 TTL) Con của Euthydemos I. Người đã chinh phục được Ấn.  
Euthydemos II (190-171 TTL) Con của Demetrios I  
Pantaleon (190-180 TTL) Con của Demetrios I  
Demetrios II (175-170 TTL)  
Apollodotos I (khỏang 174–165 TTL) Em của Demetrios II, sau bị phản lọan Eucratides I giết.  
Antimachos I (171-160 TTL):  
Agathokles (171-160 TTL) Con của Demetrios I đồng trị với Antimachos I 

Menandros (khỏang 173–130 TTL) Kế vị Apollodotos I.  
Eucratides I (171-145 TTL)  
Eucratides II (145-140 TTL)  
Epander (135 - 130 TTL)  
Strato I (125 - 110 TTL)  
Zoilos I (130 - 120 TTL)  
Lysias (120 - 110 TTL)  
Antialcidas (115 - 95 TTL)  
Heliokles II (110 - 100 TTL): Vị vua sau cùng của vương quốc Bactria.  
Philoxenus (khỏang 100–95TTL)  
Demetrios III & Aniketos (khỏang 100 TTL)  
Diomedes (95 - 90 TTL)  
Amyntas (95 - 90 TTL)  
Theophilos (khỏang 90 TTL)  
Peukoloas (khỏang 90 TTL)  
Nicias (khỏang 90–85 TTL)  
Menander II & Dikaios (90 - 85 TTL)  
Archebios (90 - 80 TTL)  
Hermaeus (khỏang 90–70 TTL)  
Apollodotus II (80 - 65 TTL)  
Hippostratos (65 - 55 TTL)  
Dionysios (65 - 55 TTL)  
Artemidoros (60-40 TTL)  
Zoilos II (55 - 35 TTL)  
Apollophanes (35 - 25 TTL)  
Strato II (40 - 10 TTL)  
Hermaeus (10-1 TTL) (Có vẽ không thực trị mà chỉ được truy phong sau khi mất). 

---o0o---


Vua Menander hay Menandros



Chân dung Vua Menander, vương quốc Bactria, được khắc trên đồng tiền cổ. (National Museum, New Delhi)

Vua Menander (có chỗ khác viết là Menandros, Minedra hay Menadra; tiếng Pali là Milinda) trị vì khỏang từ 160 – 135 TTL, là vị vua vĩ đại trong những vua Hy-Ấn, đã cai trị một vùng rộng lớn ở tây bắc Ấn, được gọi là vương quốc Bactria thụôc bán lục địa Ấn, chạy dài hướng tây đông từ thung lũng Kabul đến sông Ravi, hướng bắc nam từ thung lũng Swat (Pakistan ngày nay) đến Arachosia (thuộc Afghanistan ngày nay), và vịnh Arab. 

Menander sinh năm 183 TTL ở “Alasandra” (mà ngày nay được biết là Alexandria của vùng Caucasus hay Alexandria trên sông Oxus), vốn là kinh đô Kapisa của vùng Gandhara cổ đã bị Alexander đổi tên vào năm 329 TTL, cách 150 km phía bắc Kabul ngày nay; và theo bộ kinh Milinda-Panha thì cách Sagala 200 yojanas, và lớn lên ở thung lũng Kabul. Có học giả cho ông là cháu của vua Demetrios II; khi lớn lên trở thành một bộ tướng anh dũng của Bactria, đã từng theo phò vua Demetrios II đánh đuổi quân Parthians ở phía tây và uy hiếp Pataliputra, kinh đô của Ấn ở phía đông. 

Menander đã được thần dân ngưỡng mộ vì tư cách đạo đức, có tài điều binh khiển tướng, cách trị quốc công minh, lối đối xử bình đẵng với các truyền thống Hy, PG, Ấn giáo và Bái Hỏa giáo (Zoroastrianism), làm cho nước mạnh dân giàu. Ông còn được mọi người kính trọng xem như là Vua Công Chính, Dharmaraja. Khi về già ông lại thường hay chú trọng đến việc thảo luận về triết và thần học. Ông hay tranh biện với những tư tưởng gia của nhiều đạo phái khác nhau và thường làm cho họ sững sốt về những sự hiểu biểt rất thâm sâu của ông. Trong một cuộc gặp mặt như thế với tỳ kheo Nagasena, vua Menander đã bái phục và xin quy y theo PG. Ông đã cho xây một tăng viện lớn cho Nagasena tại kinh đô Sagala gọi là Milindavihara. Sau đó ông đã nhiệt tâm hổ trợ PG. 

PG dưới triều Menander có một địa vị rất quan trọng. Một đọan trong bộ Mahavamsa của Sri-Lanka đã ghi: “Nhân có lễ đặt đá cho việc xây Đại Tháp tại Anuradhapura ở Sri-Lanka, một phái đòan tăng già Hy-lạp (tiếng Pali: Yona) gồm 30 ngàn người dẫn đầu bởi đại sư Mahadhammarakkhita (Sanskrit: Mahadharmaraksita) đã đến từ Alasandra” (Mahavamsa - XXIX). 

Sử gia La-mã Trogus Pompeius đã đề cập đến các vua Apollodotus và Menander trong bộ sử dày cộm của ông. Hai nhà sử học danh tiếng Hy-lạp là Strabo và Plutarch cũng viết khá nhiều về công trạng của vua Menander, đã cho thấy ông không những nổi danh ở vùng Tiểu Á và tây bắc Ấn mà còn được đề cao ở thế giới Hy-La về sau. Strabo (XI. 516) cho rằng Menander đã chinh phục nhiều bộ lạc hơn cả Alexander, khi ông vượt dãy Hypanis về phía đông để đến Isamus. Ông ta còn chiếm xứ Patalene ở đầu lưu vực sông Indus, đến bờ biển Saraostes, và bành trướng đến Seres (Trung quốc) và Phryni. 



Bộ sưu tâp cổ vật của Mir Zakah gồm 521 đồng tiền dưới triều Menander đã được công bố gần đây chứng tõ triều đại lâu dài của ông và sự buôn bán thịnh vượng trong nước. Nhiều đồng tiền đào xới được trong vùng từ Afghanistan đến trung Ấn dưới triều Menander đều có khắc hình ông qua nhiều thời kỳ, lúc trẻ và lúc già cùng với bánh xe pháp. Những đồng tiền khác với chân dung của vua Menander mang dòng chữ “Vua cứu độ Menander” bằng chữ Hy-lạp Basileos Sothros Menandroy ở một mặt, và mặt kia mang dòng "Maharajasa Dharmika Menandrasa" (Vua vĩ đại Menander truyền bá PG) bằng chữ Prakrit và Kharoshthi. 


Vua cứu độ Menander (khỏang 173–130 TTL).

Theo văn học truyền thống của PG thì ông đã nhường ngôi cho con để lui về ở ẩn ở tăng viện, nhưng Plutarch đã ghi là ông chết trên chiến trường trong cuộc viễn chinh tái chiếm Bactria bất thành khỏang 130 TTL.  Plutarch (Praec. reip. ger. 28, 6) đã viết về vua Menander như sau: ”Ông là một vị vua nổi danh rất chính trực và được lòng dân dến độ khi ông mất ở trận tiền, nhiều thành phố đã tranh nhau tro cốt của ông; sau cùng đã đồng ý chia đều để mang về tôn thờ trong các ngôi tháp lớn”. 

---o0o---



tải về 1.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương