Trần TrúcLâm những hộ pháp vưƠng của phật giáo trong lịch sử ẤN ĐỘ


CHƯƠNG BỐN - VUA KANISHKA VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO



tải về 1.49 Mb.
trang10/17
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích1.49 Mb.
#35349
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   17

CHƯƠNG BỐN - VUA KANISHKA VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO

Khởi Nhập


Trong bài lược khảo về “Khung cảnh lịch sử quanh bộ kinh Malindapanha” người viết có nhắc đến sự xuất hiện vào thế kỷ thứ 3 TTL của các sắc dân Scythian và Kushan ở vùng tây bắc lục địa Ấn, bao gồm Afghanistan và Pakistan, đã làm thay đổi sâu sắc lịch sử trong vùng cho đến ngày nay. Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất, có một vị vua nổi bậc mang tên Kanishka (Hán-Việt âm là Ca Nị Sắc vương, Ca Nị Sắc Ca, Kế Nị Ca vương, Ðàn Kế Nị vương, Cát Ni Thi Cát vương, Ca Nị Sắt Tra vương – GCTG) của đế quốc Kushan, hậu duệ của những sắc dân ấy đã đóng một vai trò thiết yếu cho sự phát triển của Đại thừa Phật giáo (viết tắt PG) và rồi truyền bá sang Trung quốc. Ông đã được kinh sách PG tán tụng không kém gì vua Asoka của đế quốc Maurya ở Ấn vào 3 thế kỷ trước, vua Menander của xứ Ấn-Hy vào giữa TK 2 TTL, các vua triều đại Gupta ở TK thứ 5 TL và vua Hashavardhana ở TK thứ 6 TL.

---o0o---


Nguồn gốc của dân Sakas (Scythians) Và Yuezhi (Kushans):


Suốt lịch sử Trung quốc từ thời cổ đại cho đến cận đại, nước Tàu luôn bị các giống dân du mục ở phía tây mà sử Tàu có khi gọi là rợ Hồ, hay có khi gọi chung là Hung nô luôn kéo quân sang cướp phá uy hiếp. Ngay cả dưới thời nhà Hán, nhiều khi triều đinh còn phải cống phẩm vật để cầu hòa, và còn gã cả phụ nữ hoàng gia cho các vua Hung (gọi là thiền-vu) như chuyện “Chiêu Quân cống Hồ”; hay chuyện một vị quan tên Tô Vũ triều Hán Vũ đế bị Hung Nô bắt, phải đi chăn dê ở gần hồ Balkan, Tây vực suốt 19 năm; có khi sử Tàu còn ghi việc tướng Pan-Chao (Ban Siêu, đời Hán Minh đế) chống lại quân Kushan ở Khotan (Hán ngữ hay ghi là Khuất Ðan, Vu Điền, Vu Ðiện, Vu Ðộn, Khê Ðan) vào năm 90 TL. Áp lực của rợ ở tây vực vẫn còn nặng nề mãi về sau cho đến thời Ngũ đại sau khi nhà Tống bị sụp đổ, rồi nhà Nguyên, nhà Thanh đều là gốc man di vv.. 

Ở Trung quốc, vào khỏang đầu thế kỷ thứ 3 TTL, Tần Thỉ Hòang sau khi thống nhất đất nước vào năm 221 TTL đã tạm đuổi được rợ Hung Nô (Xiongnu, Hiung-nu: Huns) ra xa bờ cõi. Khi thua trận quân Hung di dân sang phía tây đánh đuổi những bộ tộc Yuezhi (Nguyệt Chi hay Nhục Chi) sinh sống ở lưu vực Tarim (Xinjiang và Kansu ngày nay) đến vùng sông Ili vào khỏang 175 TTL. Đến lược họ, người Nhục Chi, lại đẩy các bộ lạc Sakas (mà tiếng Hy-lạp gọi là Scythians, và tiếng Hán là "Sai" 塞), có nguồn gốc Mông cổ, về phía tây nam vào các xứ Parthia (vùng đất bị tách ra từ đế quốc Seleucid vào năm 281 TTL, xứ còn lại là Syria – GCTG) khỏang 138-124 TTL. 

Đến khỏang giữa TK 2 TTL, các bộ lạc Sakas và Yuezhi liên kết nổi dậy giết được các vua Phraates II và Artabanus I của xứ Parthia, nhưng rồi bị vua Mithridates II (kh. 123-87 TTL) đánh bại vào khoảng năm 100 TTL. Dân Yuezhi liền kéo vào xứ Bactria, vốn đã được độc lập khỏi Seleucid từ năm 205 TTL. Bấy giờ vùng này được cai trị bởi những triều vua Hy-Ấn (Indo-Greek), hậu duệ từ các cuộc xâm lăng của người Hy-lạp do đại đế Alexander khởi xuất vào khoảng 326 TTL. Vùng đất họ định cư ở Bactria được gọi là Tokharistan, và dân Yuezhi được người Hy gọi là Tocharians. Các giống dân mới, sau khi định cư dần đồng hóa với nền văn hóa Hy.

Trong khi ấy thì dân Sakas tái địinh cư ở phía nam xứ Afghanistan ngày nay, được gọi là Sakistan, và sống lẫn lộn với các giống Pahlavas và Kambojas. Từ đó họ dần bành trướng vào phía bắc của lục địa Ấn sau khi Maues chiếm được vùng Gandhara và Taxila khoảng năm 80 TTL. Năm 78 TTL dân Sakas chiếm được Ujjain và năm 60 TTL chiếm  Mathura ở phía đông và Surastrene (Gujarat) ở phía tây nam của Ấn; rồi đặt quan thái thú hay tiểu vương cai trị. Nhưng vương quốc này sớm tan rã sau khi vua Maues qua đời. Các vua Hy-Ấn Apollodotus II (80-65 TTL) và Hippostratos (65-55 TTL) chiếm lại Gandhara và vua Vikrama ở Ấn tái chiếm Ujjain vào năm 58 TTL.



Ba năm sau, vua Azes I của dân Sakas phản công chiếm lại toàn vùng tây bắc lục địa Ấn sau khi đánh bại vua Hippostratos lập nên vương quốc Indo-Scythians. 

Đồng tiền có hình của vua Azes II

Đến triều vua Azes II (90-12 TTL), ông đã diệt hết các tiểu vương quốc Hy-Ấn. Nhưng sau khi vua Aze II mất thì vương quốc Indo-Scythian bị giống Kushan, vốn là một bộ phận của rợ Yuezhi, xâm chiếm lập nên Đế quốc Kushan (nên sử Tàu hay gọi lẫn lộn là xứ Khuất Chi hay Nhục Chi) kéo dài vài thế kỷ, chỉ bị tạm dứt khỏang một thế kỷ khi bị dân Parthians xâm lăng từ 20 TL đến 75 TL, rồi phục hồi trở lại. 

Ban đầu dân của 5 bộ lạc Yuezhi được vua Kujula Kadphises I kết hợp lại, tiến về phía đông chiếm và định cư tại vùng Hindu Kush rồi các vị vua kết iếp dần bành trướng khắp phía bắc Ấn. 

Đế quốc Kushan tồn tại từ TK thứ I đến TK 3 TL, trãi dài từ Tajikistan đến biển Caspian và Afghanistan, cho mãi đến thung lũng sông Ganges. Trong nhiều thế kỷ, đế quốc này là trung tâm giao dịch giữa các xứ đông và tây phương. Các triều đại huy hòang nhất là từ 100 đến 250 TL có Kanishka I (127-151 TL), Huvishka (156-184 TL), Vasudeva I (188-222 TL), Kanishka II (222-241 TL) và Vashishka (241- 256 TL.) 

---o0o---


Phổ hệ của các vương triều Kushan:


Bia ký Rabatak đã ghi rõ phổ hệ của các vương triều Kushan, cho thấy Kanishka kế vị  vua Vima Kadphises và kẻ kế vị ông là Huvishka mà chi tiết các việc lên ngôi không được lưu lại rõ ràng. [Nicholas Sims-Williams (1998): "Further notes on the Bactrian inscription of Rabatak, with an Appendix on the names of Kujula Kadphises and Vima Taktu in Chinese." Proceedings of the Third European Conference of Iranian Studies Part 1: Old and Middle Iranian Studies. Edited by Nicholas Sims-Williams. Wiesbaden. 1998, pp. 79-93.]  

Tên Vua

Thời gian trị vì

Năm trị vì tìm thấy trên bia ký

Kajula Kadphises

Ít nhất 23 năm

103-136 (?)

Vima Takpiso

Ít nhất 20 năm

279-299 (?)

Vima Kadphises 

 

184(?)

Kanishka I

23-27 năm 

1-23 (Đây không phải là năm theo tây lịch mà là năm đầu của lịch triều Kanishka); 127 - 151 TL.

Huvishka

32-40 năm

28-60 kể từ triều Kanishka; 156-184 TL.

Vasudeva

34-40 năm

64-98; 188-222 TL

Kanishka II

Khoảng 19 năm

222-241 TL.

Vasishka 8

8 - 20 năm

241-256 TL (?)

Kanishka III

Không rõ

Không rõ

Vasudeva II

Không rõ

170 (297 ?i)

Shaka

Không rõ 

 

Có vẻ như Kanishka không trực thuộc giòng của tiên vương Kadphises. Nhiều ý kiến cho rằng ông từ một giòng khác như Khiết Đan từ Tân cương tranh được ngôi vua, hoặc là thủ lãnh từ một tiểu vương Ấn cướp ngôi thành công.

---o0o---






tải về 1.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương