Trần TrúcLâm những hộ pháp vưƠng của phật giáo trong lịch sử ẤN ĐỘ


Vua Kanishkan và sự hưng thịnh của phái Đại thừa PG



tải về 1.49 Mb.
trang13/17
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích1.49 Mb.
#35349
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

Vua Kanishkan và sự hưng thịnh của phái Đại thừa PG


Các tiên vương trước thời Kanishka đều tôn thờ đa thần giáo, nhưng đến thời ông thì trở nên một Phật tử thuần thành. Thời bấy giờ phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivādins) của Đại chúng bộ đã bén rễ vững chắc ở vùng Kashmir và Gandhara. PG đã được truyền bá đến vùng này nhờ vào đoàn truyền giáo thứ 2 do đại sư Majjhantika cầm đầu theo lệnh vua Asoka, và lời đề nghị của cao tăng Moggaliputta Tissa sau kỳ kêt tập kinh điển lần thứ ba tại Pàtaliputra vào khoảng năm 256 trước TTL.

Được sự hộ trì của vua Kanishka, phái Nhất thiết hữu bộ càng được phát triễn mạnh mẽ và cao điểm là nhà vua đã bảo trợ cho lần kết tập kinh điển mà trong Phật sử đại thừa gọi là lần thứ tư, vào năm Phật lịch 618, tức khỏang đầu TK thứ 2 TL, tại Jālandhar Kashmīrthat, Kashmir, gồm 500 vị tỷ-kheo dưới sự chủ tọa của đại sư Vasumitra (Thế Hữu, dịch âm là Bà-tu Mật-đa). Mục đích của kỳ kết tập này là để soạn ra các bộ luận: Kinh Sớ, Luật Sớ và Luận Sớ. Ðại hội này chính là khởi điểm cho sự phát triển của Ðại thừa (Mahayana) về sau; và cũng nhờ vua Kanishka mà PG đã được truyền sang Trung quốc vào khoảng thế kỷ thứ 2 TL. 

Lần kết tập này đã ghi lại tam tạng kinh bằng tiếng Sanscrit, và được khắc lên rất nhiều tấm đồng, đặt rong những hòm đá và  để thờ trong các tháp; thế nhưng ngày nay nội dung những bản kinh này chỉ còn lưu truyền qua các bản dịch Hán tự. 

Cũng trong thời kỳ huy hòang này có sự xuất hiện của những đại luận gia PG như Nagarjuna (Long Thọ), Vasumitra (Bà-tu Mật-đa: Thế Hữu) và Asvaghosha (Mã Minh). Tương truyền Asvaghosha còn giữ vai cố vấn tôn giáo cho nhà vua.

Vào giữa thê kỷ thứ 2, tăng đoàn ở Gandhara đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá PG về phương bắc và đông Á châu. Một cao tăng người Vu-điền, tên Lokaksema (Chi-Lâu-Ca-Sấm, kh. 178 TL), đã đến hoằng hóa tại kinh đô Lạc-dương (Lo-yang) trở thành người đầu tiên dịch các kinh Đại thừa ra Hán ngữ. Từ đó con đường truyền bá PG sang Trung quốc đã thiết lập vững vàng. 

Chính dưới thời Kanishka đã làm cho PG thay đổi triệt để để thích nghi với thời đại mới. Nhiều học giả đề ra giả thuyết cho rằng với đế quốc rộng lớn kiểm soát con đường tơ lụa nối từ châu Âu đến châu Á làm dung hòa nhiều tư tưởng tôn giáo đông tây và bản địa, đã xúc tác cho việc phát triển tư tưởng Đại thừa, chủ yếu ở phia bắc Ấn (nên Phật sử hay gọi là “bắc truyền”). Người ta cũng cho rằng vì thế mà làm cho cốt lỏi PG bị biến đổi nên suy yếu tại quê hương mình; và Ấn giáo có cơ phục hồi một khi đế quốc Kushan của ông bị tan rã. Nhưng người khác lại cho rằng sự di cư ồ ạt của những bộ tộc du mục ở nội lục địa Á châu vào vùng tây bắc Ấn dươi thời thịnh trị của Kanishka, hoặc tràn sang châu Âu đã tàn phá những nền văn minh và học thuật của địa phương trong đó có La-Mã và PG, và đã đưa châu Âu vào thời kỷ Trung cổ tối tăm. Những ý kiến này cần phải được tìm hiểu cặn kẻ thêm trước khi có một kết luận chính xác. 



Vua Kanishka còn cho xây một đại tháp hùng vỹ tại thành Kanishkapur (mang tên ông) ở Peshawar không xa đèo Baramula là bao để thờ phụng xa-lị Phật trong một chiếc hộp bằng vàng.

Ngày nay đại cổ tháp chỉ còn trơ lại cái nền cao năm tầng. Vào các năm 1908-1909, các nhà khảo cổ đã xác định được rằng nền tháp có đường kính là 286 bộ (feet), và chiều cao thì ký sự của đại sư Trung quốc chiêm bái Huyền Trang (Xuan Zang) đã ghi là từ 600 đến 700 bộ Tàu, tức khoảng 180-210 metres hay 591-689 feet; cao khoảng 13 tầng nhà theo tiêu chuẩn ngày nay, bằng gỗ chạm trổ tinh vi được chống đở bởi hàng cột bằng sắt mà bên trên cột toả ra với bệ đở bằng đồng mạ vàng. Rõ ràng nó là một kỳ quan của nhân loại vào thời bấy giờ.



Hộp chứa xá-lị (s. sarira) của đức Phật Thích Ca do vua Kanishka dựng, cho thấy có đúc tượng Phật đang ngồi thiền định và bao quanh bởi Brahma và Indra. Kanishka đứng phí dưới bên trái. Một mẫu sao được lưu giữ ở British Museum.

Hộp xá-lị chính của đức Phật Thích Ca tương truyền có chứa ba mảnh xá-lị (xương Phật) vốn được tôn thờ trong đại tháp tại Shah-Ji-Ki-Dheri, ngoại ô Peshawar đã được an trí ở Mandalay, Miến Điện vào năm 1910; còn hộp thì được lưu giữ ở Viện Bảo tàng Peshawar. 

Hộp chứa xá-lị có khắc giòng chữ Kharoshthi: "(*mahara) jasa kanishkasa kanishka-pure nagare aya gadha-karae deya-dharme sarva-satvana hita-suhartha bhavatu mahasenasa sagharaki dasa agisala nava-karmi ana*kanishkasa vihare mahasenasa sangharame" “Thần tử Agisalaos (gôc Hy-lạp), quản đốc mọi công việc tại đền Kanishka trong tu viện Mahasena.”



Chung quanh có điêu khắc hai hình đức Phật ngồi trên tòa sen được hoàng gia hầu kính, và hình các thần Persian như Nhật thần và Nguyệt thần. Một tràng hoa trang trí chạy vòng quanh hộp. 

Hiện nay đang có sự bàn cãi về vị vua nào là người cho làm chiếc hộp dựa vào hình vua trên hộp không có râu rậm như hình thường thấy về vua Kanishka. Có người cho là đó là hình của vua kế vị là Huvishka. 

Vua Kanishka trong truyền thống PG thường được mô tả như một bạo quân vô đạo trước khi qui y PG như trong kinh Sri-dharma-pitaka-nidana sutra: "Bấy giờ vua xứ Ngan-si (Pahlava) rất ngu xuẩn và tâm tánh cuồng bạo. Một vị A-la-hán nhìn thấy những việc ác mà nhà vua đã làm liền muốn làm nhà vua hồi tâm nên đã dùng thần thông cho nhà vua thấy cảnh sẽ bị tra tấn ở địa ngục. Nhờ thế nhà vua kinh hãi và hồi tâm.” [theo Kumar, Baldev. 1973. The Early Kuṣāṇas. Trang 95 New Delhi, Sterling Publishers].

Ngoài ra việc xuất hiện của vua Kanishka và việc xây dựng đại tháp vốn đã được đức Phật báo trước. Trong Vinaya sutra kể: “... đức Phật chỉ vào đứa bé đang ngồi chơi xxây tháp với đất sét .. [phán rằng] chính trên chỗ này, Kanishka sẽ xây một bảo tháp mang tên ông ấy.” [trang 91; SKT].

Câu chuyện tương tự đã được ghi lại trong một cuộn kinh tiếng Khiết Đan tìm thấy ở Đôn Hoàng (Dunhuang), báo trước việc vua Kanishka sẽ xuất hiện 400 năm sau khi đức Phật nhập Niết bàn và xây một đại tháp. [trang 89; SKT]

Đại sư Huyền Trang khi đi chiêm bái qua Ấn vào khoảng năm 630 cũng ghi lại câu chuyện này. [trang 93, SKT]

Các đồng tiền được đúc vào thời vua Kanishka có hình đức Phật Thích Ca và Di Lặc đào được chỉ chiếm khoảng 1%. Mặt kia có hình nhà vua như đã thấy ở trên. Hình ảnh trên các đồng tiền thời khắc chưa được khéo, không chi tiết và thiếu cân đối. 






Mặt sau của đồng tiền vàng có hình của đức Phật (kh. 130 TL) với giòng chữ Hy-lạp ΒΟΔΔΟ ("Boddo", đức Phật), hay ϷΑΚΑΜΑΝΟ ΒΟΔΔΟ ("Shakamano Boddho", đức Phật Thích Ca, hay Ο ΒΟΔΔΟ ("Metrago Boddo", đức Phật Di Lặc).

Dưới đây là 6 mẫu tiêu biểu được vẽ lại. 




Tượng Phật mặc áo tu sĩ theo kiểu Hy-lạp, gồm antaravasaka, uttarasanga,  


và áo khoác ngoài sanghati.


Hình Phật Thích Ca trên tiền bằng đồng cho thấy hình vẽ áo cà sa rất mỏng, có lẻ là lớp áo lót antaravasaka và uttarasanga. Tay trái khoác dãi uttariya.

 

 



Các mẫu khắc trên đồng tiền vàng về đức Phật đã được biểu tượng hóa khá xa với dáng tự nhiên của các điêu khắc kiểu Hy-lạp ban đầu ở Gandhara.




Hình đức Phật Di Lặc dược kkhắc trên đồng tiền Kanishka, mang giòng chữ "Maitreya" (ΜΕΤΡΑΓΟ ΒΟΔΔΟ "Metrago Boddo") đang ngồi kiết già và tay trái làm địa ấn (Abhaya mudra).


Tượng đồng Phật đứng đúc ở Gandhara, khoảng TK 3 hay 4.

---o0o---




tải về 1.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương