Trần TrúcLâm những hộ pháp vưƠng của phật giáo trong lịch sử ẤN ĐỘ



tải về 1.49 Mb.
trang14/17
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích1.49 Mb.
#35349
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

Sự suy vong của Đế quốc Kushan


Đến TK thứ 3 TL thì đế quốc Kushan bắt đầu tan rã. Sau khi vua Vasudeva I chết thì đế quốc Kushan bị phân làm 2 xứ đông và tây. Đến khoảng năm 290 TL Các triều đại Kushan bị Shapur I cầm đầu dân Sassanides lật đổ, rồi lên làm vua. Shapur I cũng đã đánh bại quân La-mã và bành trướng rất mạnh trong vùng. Các triều đại Sassanides cai trị vùng này từ 290 đến 651 TL. 

Dưới thời Sassanides Bái Hỏa giáo lại trở thành quốc giáo, nhưng cũng rất dung hòa với những tôn giáo khác, nên PG vẫn có cơ hội phát triển mạnh. Chính vào thời kỳ này hai bức tượng Phật đồ sộ lớn nhất tòan cầu đứng cao 177 bộ đã dược tạc vào núi đá ở Bamiyan, Afghanistan vào năm 554, mà gần đây đã bị bọn cuồng tín Hồi giáo Taliban phá hũy vào tháng 3 năm 2001. 

Đến TK thứ 5 thì đế quốc Sassanides bị tan rả bởi sự xâm lăng khác của rợ Hung nô mới và sau đó là sự lớn mạnh của triều đại Gupta ở Ấn và sự phục hồi Ấn giáo. Tuy vậy các triều vua về sau của Gupta lại hổ trợ mạnh mẽ cho PG, trong đó có việc tái dựng Phật học viện Nalanda vĩ đại hơn, và nâng lên tầm vóc quốc tế. Nhưng không lâu sau Ấn độ bị các thế lực Hồi giáo xâm lăng dẫn đến sự tàn lụi dần của PG. 

Trần Trúc-Lâm 
Seattle, Hè 2007 
---o0o---

Tài Liệu tham khảo:

1) Wikipedia and other numerous websites. 
2) Falk, Harry (2004): “The Kanika era in Gupta records.” Silk Road Art and Archaeology X (2004), pp. 167-176.  
3) Dobbins, K. Walton. (1971). The Stūpa and Vihāra of Kanishka I. The Asiatic Society of Bengal Monograph Series, Vol. XVIII. Calcutta.  
4) H. Hargreaves, H. (1910-11): "Excavations at Shāh-jī-kī Dhērī"; Archaeological Survey of India, 1910-11, pp. 25-32.  
5) Kumar, Baldev. 1973. The Early Kuāas. Page 95 New Delhi, Sterling Publishers.  
6) Nicholas Sims-Williams (1998): "Further notes on the Bactrian inscription of Rabatak, with an Appendix on the names of Kujula Kadphises and Vima Taktu in Chinese." Proceedings of the Third European Conference of Iranian Studies Part 1: Old and Middle Iranian Studies. Edited by Nicholas Sims-Williams. Wiesbaden. 1998, pp. 79-93. 
 

---o0o---


CHƯƠNG NĂM - TRIỀU ĐẠI GUPTA, HOÀNG ĐẾ HARSHAVARDHANA,  VÀ PHẬT HỌC VIỆN NALANDA


1. Dẫn Nhập  
2. BảngTóm Lược Các Mốc Lịch Sử  
3. Thời Đại Gupta (320-550)  
4. Triều Đại Harshavardhana (606-647)  
5. Phật Học Viện Nalanda  
6. Vài Nét Về Các Đại Sư Nổi Danh Chiêm Bái Tây Trúc Đương Thời 

---o0o---


I) DẪN NHẬP


Ở Việt nam trong quá khứ, xem ra số học giả về lịch sử, văn học và tôn giáo ở Trung quốc thực khá đông đảo, nhất là thơ văn đời Đường, Tống, Minh, Thanh nhưng lại có rất ít chuyên gia khảo cứu về văn minh Ấn-độ dù đại đa số dân chúng Việt sùng bái Phật Gíao (PG), một tôn giáo bắt nguồn từ lưu vực sông Hằng; để tìm hiểu xem nguyên do gì mà đạo Phật bị tàn lụi ở trên quê hương mình, hầu từ đó rút tỉa được nhiều bài học hầu chấn hưng tín tâm cho Phật tử. 

Như chúng ta đã biết lịch sử và văn minh Ấn Độ đã từng để lại dấu ấn lớn cho nhân lọai trong các sáng tạo về tôn giáo, học thuật, ngôn ngữ, tóan học, y học, kiến trúc, thiên văn...; thế nhưng, lại giống như Trung Hoa, những phát kiến của họ không được ứng dụng triệt để vào thực tiển đời sống nên sớm bị mai một, và bị kỷ thuật của người tây dương qua mặt. Ngay cả lịch sử của Ấn cũng không hề được ghi lại rõ nét chỉ vì họ quá quan tâm đến đạo học huyền bí, cho nên đất nước nhiều lần bị ngọai xâm cai trị. Những ngành học thuât của Ấn chỉ mới được hệ thống hóa gọi là Ấn học (Indology) và truyền bá dưới thời thực dân Anh (1757-1947). Hai người được xem là cha đẻ của ngành học này là William Jones (1746-1794) và Charles Wilkins (1749-1836). Năm 1784, the Asiatic Society of Bengal (Học Hội Á đông ở Bengal) được thành lập cùng với tập san Asiatic Researches đã đẩy mạnh những nghiên cứu, sao lục và ấn hành về văn minh Ấn. 

Ở lục địa Ấn, trong thời đức Phật Thích Ca còn tại thế, đã có khá nhiều vua chúa các tiểu quốc quanh sông Hằng rất sùng bái PG và hổ trợ tăng già. Về sau, cũng nhờ những sự ủng hộ tích cực của các hòang đế lừng danh của đất Phật này mà PG đã được truyền bá khắp nơi trong và ngòai nước Ấn. 

Sử sách Ấn và PG thường tôn vinh các vị hòang đế Phật tử, không những đã làm cho quốc gia thêm vĩ đại mà còn đem lại cho PG những giai đọan phát triển rực rỡ; đó là Ashoka Maurya (269-227 TTL.), Menander I (173-130 TTL.), Kanishka I (127-151 TL), các vua cuối của triều đại Gupta ở thề kỷ thứ 5 và Harshavardhana hay còn gọi là Harsha ở thế kỷ thứ 7 (606-647 TL). 

---o0o---

II) BẢNG TÓM LƯỢC CÁC MỐC LỊCH SỬ


Chúng tôi đã từng đề cập đến các vị hoàng đế hộ pháp trước (xin xem những bài viết của cùng tác giả trên các websites PG); bài khảo lược này xin nói về các vị vua cuối của thời đại Gupta và hoàng đế Harshavardhana của triều kế tiếp; về các vị đại sư đã qua Tây Trúc chiêm bái cùng thời; và những liên hệ của họ với Phật Học Viện Nalanda nổi danh. Để có cái nhìn khái quát về giai đoạn ấy, chúng tôi đã tham khảo và xin trình bày bảng đối chiếu tóm lược các mốc Lịch Sử Ấn - Hoa cho đến thiên niên kỷ đầu TL để quý độc giả tiện theo dõi: 

Lưu ý: Những tên danh nhân địa lý Ấn vốn bằng tiếng Hindu, khi được ghi âm theo chữ Latin thì có khá nhiều cách viết, nên dễ lẫn lộn.  


 

NIÊN KỶ

ẤN ĐỘ

TRUNG QUỐC

2700 TTL

Văn minh Harappa

Thời Tam Hoàng, Ngũ Đế: Hoàng Đế (Hiên viên thị); Thiếu Hiệu (Kim thiên thị); Chuyên Húc (Cao dương thị)

1000 TTL 

Giống Aryans tràn vào thung lũng sông Hằng

Nhà Tây Chu.  
Kinh Dịch được biên tập

900 TTL

Trận chiến Mahabharata 

Vua Hiếu vương nhà Tây Chu 

800 TTL

Giống Aryans tràn đến vịnh Bengal. Bắt đầu thời đại Sử thi: Mahabharata được kết tập.

Vua Tuyên vương; Vua U-vương và Bao Tự, Tây Chu

550 TTL

Kết tập kinh Upanishads 

Thời Xuân Thu (722 TTL – 481 TTL)

544 TTL

Đức Phật nhập Niết Bàn

Vua Cảnh Vương nhà Đông Chu 

327 TTL

Đại đế Alexander xâm lăng Ấn

Thời Chiến Quốc 481 TTL - 221 TTL

324 TTL

Vua Chandragupta Maurya đánh bại vua Seleacus Nicator

Thời Chiến Quốc 481 TTL - 221 TTL

322 TTL

Triều Mauryas khởi đầu. Chandragupta thiết lập đế quốc đầu tiên của Ấn

Thời Chiến Quốc 481 TTL - 221 TTL

298 TTL

Bindusara lên ngôi 

Thời Chiến Quốc 481 TTL - 221 TTL

272 TTL 

Vua Ashoka trị vì 

Thời Chiến Quốc 481 TTL - 221 TTL

180 TTL

Triều đại Mauryas sụp đổ của. Triều  
Sungas nối tiếp

Cuối Tần  Sơ Hán - Huệ Đế, nhà Tây Hán (hay Tiền Hán)

173-130 TTL

Vua Menander (Milinda) lập đế quốc Hy-  Ấn.

Từ Triều của Vũ Hậu đến Hán Vũ Đế 

145 TTL

Vua xứ Chola xâm lấn Tích Lan (Ceylon)

Vua Cảnh Đế, nhà Tiền Hán

58 TTL 

Kỷ nguyên Krita-Malava-Vikram 

Vua Tuyên Đế, Tiền Hán

30 TTL

Khởi đầu của triều Satvahana ở xứ Deccan

Vua Thành Đế, Tiền Hán 

40 TL 

Người Sakas cai trị thung lũng Indus và phía tây Ấn

Vua Quang Vũ Đế, Đông Hán hay Hậu Hán 

50 TL 

Tộc Kushan hùng mạnh dần 

Vua Quang Vũ Đế, Hậu Hán

78 TL

Khởi đầu của thời kỳ Saka-Kushana

Vua Chương Đế, Hậu Hán

127-151TL (1)

Hoàng đế Kanishka I và đế quốc Kushan

Từ vua Hán Hòa đế đến vua Hoàn đế, Hậu Hán 

320 TL

Vua Chandra Gupta I lập triều Gupta 

Vua Nguyên Đế, nhà Đông Tấn

360 TL 

Vua Samudra Gupta xâm chiếm đất bắc và hầu hết xứ Deccan 

Vua Ai Đế, nhà Đông Tấn

380 TL

Vua Chandra Gupta II lên ngôi; Thời đại  hòang kim của nền văn học phục sinh  
 Ấn-Gupta. 

Bắc Triều:  
- Vua An Đế, nhà Tấn  
- Vua Đạo Võ Đế, Bắc Hậu Ngụy

405 TL (2)

Đại sư Pháp hiển (Fa-hein) chiêm bái  
 Phật tích khắp vương quốc Gupta.

Bắc Triều:  
- Vua An Đế, nhà Tấn  
- Vua Đạo Võ Đế, Bắc Hậu Ngụy

415 TL

Vua Kumara Gupta I lên ngôi

Vua Minh Nguyên Đế, Bắc hậu Ngụy

427 TL

Vua Kumara Gupta I cho khởi công xây  dựng Phật Học Viện Nalanda.

Vua Thái Võ Đế, Bắc Hậu Ngụy

440 TL

Tổ Bodhidharma sinh ở nam Ấn,  xứ của  vua Pallava

Vua Thái Võ Đế, Bắc Hậu Ngụy

467 TL

Skanda Gupta lên ngôi 

Vua Hiến Văn, Bắc Hậu Ngụy

476 TL

Năm sinh của nhà thiên văn Aryabhatta

Vua Thuận Đế, Nam Tống

530 TL

Tổ Bodhidharma theo thuyền đến Trung  quốc, cặp bến Quảng châu.

Vua Tiết Mân Đế, Bắc: Hậu Ngụy 
Vua Võ Đế, Nam: Lương

606 TL

Harshavardhana lên ngôi 

Vua Văn Đế, nhà Tùy

622 TL 

Bắt đầu triều đại Hejira

Cung đế Hựu, bị ép nhường ngôi cho Đại thừa tướng Lý Uyên, lập ra nhà Đường

629 TL

Đường Tăng Huyền Trang (Huan Tsang) đi Ấn thỉnh kinh 

Vua Cao tổ Nhà Đường

649 TL

Vua Harshavardhana băng hà

Vua Thái Tôn, nhà Đường

672 TL 

Đại sư Nghĩa Tịnh (I-Tsing) đến chiêm  bái ở Ấn.

Vua Đường Cao Tôn, Vũ Hậu Tắc Thiên

711 TL 

Muhammad Bin Qasim xâm lăng xứ Sind

Vua Duệ tôn, nhà Đường

892 TL 

Khởi đầu của triều Chalukyas ở phía  
 đông 

Vua Chiêu tôn, nhà Đường

985 TL 

Triều Chola: Vua Rajaraja đăng quang

Vua Thái tôn, nhà Tống

1001 TL

Sultan Mahummad đánh bại Jaipal

Vua Chân tôn, Nhà Tống

1- Có chỗ ghi là 100-164  
2- Có chỗ ghi là 399 đến 414

Qua bản tóm lược đối chiếu trên, ta nhận thấy có hai triều đại huy hòang của Ấn đã được thiết lập bởi hai vị vua cùng tên nhưng cách nhau đến gần 8 thế kỷ, là Chandragupta lập ra triều đại Maurya ở TK thứ 4 TTL (324-180 TTL), và vua Chandragupta I sáng lập ra thời đại Gupta (320-540) ở TK thứ 4 TL. Với tên vị vua sau đúng ra phải viết là Chandra Gupta I. 

Có vài tác giả đã gom Hoàng đế Harsavardhana vào với giòng họ Gupta, có nơi lại còn viết là Harsavardhana Gupta. Điều này không đúng với lịch sử bởi vì thời đại Gupta huy hoàng đã chấm dứt vào cuối thế kỷ thứ 5, và triều đại của Harsavardhana mới xuất hiện ở đầu thế kỷ thứ 7.  

---o0o---


III) THỜI ĐẠI GUPTA (320 – 550)



A. Sự Thịnh Suy

Đại sư Nghĩa Tịnh (I-Tsing) đến Ấn vào khoảng năm 672, sau HT Huyền Trang (Xuan Zang hay Hiuen Tsang)  hơn 40 năm, và đã nghe nói đến danh hiệu vua ‘Maharaja Sri-Gupta’ của vương quốc Magadha xây một tăng viện gần Mrigasikhavana khoảng ‘500 năm trước’ cho những vị sư chiêm bái đến từ Trung quốc tạm trú. Các học giả về sau không đối chiếu được với lịch sử Ấn, và họ cho rằng Nghĩa Tịnh chỉ phỏng đoán theo cảm quan tôn giáo mà thôi. Nhưng ngày nay người ta đã chứng minh được đó là thời đại Gupta dựa vào bộ Bhagwatam. Dòng Gupta khởi đầu từ xứ Bengal, theo các ghi chú tại ngôi tháp "Varendra Mrigashihavan Stupa" trên đồi ở Nepal, rồi sau đó trở thành tiểu vương từ xứ Prayaga, Đông Uttar Pradesh, bây giờ là Allahabad từ năm 240 TL. 



Vị tiểu vương đầu tiên là Sri-Gupta khoảng từ 240-280 TL. Bản bia ký bằng đồng ở Poona (gần Bombay bây giờ) do công chúa Prabhavati Gupta (con gái của Chandragupta-II về sau) ghi rằng Sri-Gupta là Adhiraja của Gupta. Vua kế vị là Ghatotkacha (280-319) mà bia ký cũng còn có truy hiệu là Đại vương (Maharaja). Đến triều thứ ba, khoảng năm 320 vua Chandra Gupta I (320-335) dựa vào hôn nhân với công chúa Kumaradevi dòng Licchavi xứ Magadha (Ma-Kiệt-Đà) đã làm cho lãnh thổ bành trướng thêm; xưng là Đại đế (maharajadhiraja). Kể từ đó các triều đại Gupta mới trở nên vẻ vang, và lịch sử Ấn ghi về thời đại Gupta chỉ kể từ đây. 

Kumardevi và Chandragupta I trên đồng tiền vàng do vua con là Samudragupta cho đúc.  

Mặt trái là Nữ thần Ambika (Durga).

Khi vua Samudra Gupta (335-375) kế vị thì đến năm 360 kinh đô được dời về thành Hoa thị (Pataliputra), tức Patna bây giờ. Sử liệu về ông đã được bia ký ở Allahabad do Harisena ghi và trong ký sự của Đại sư Huyền Trang. Dưới triều này lãnh thổ lại còn được mở rộng thêm từ lưu vực sông Hằng đến tây, trung và đông Ấn cùng các hải đảo sau khi thâu tóm hơn 20 tiểu quốc khác. Nhiều tiểu vương lân bang phải triều cống để được bảo hộ, xa mãi đến tận Tích Lan (Sinhala hay Sri Lanka). Sau khi toàn trị vua Samudragupta làm lễ tế ngựa chiến Ashwamedha Yagna, một phong tục hiếm thấy, và cho đúc tiền vàng lưu hành trên đó khắc lại những chiến cụ và nhạc cụ đã từng xữ dụng trong triều. Việc đúc tiền vàng, triều Samudra Gupta đã mô phỏng theo kiểu cách của đế quốc Kushan trước đó. Thời đại Kushan đã đúc chuẩn mực tiền vàng 8 gram gọi là dinara, bắt nguồn từ tiền vàng La-mã Denarius Aurius. 



 
Vua Samudragupta đang gãy huyền cầm.  
Mặt trái: Nữ thần Thịnh vượng Shri-Laxmi.

Dưới triều ông, Bà-la-môn giáo (BLM) chiếm ưu thế vì ông thờ thần Vishnu (Vaishnava). Vì vậy các thánh tích PG, ngoại trừ Nalanda và Sanchi, theo Đại sư Pháp Hiển thì Bồ đề đạo tràng (Bodhgaya), Ca tỳ la vệ (Kapilavastu) và Câu-thi-na (Kusinagara) còn bị hoang phế. Vào giữa thế kỷ thứ IV, nhiều tăng sĩ từ xa đến chiêm bái Bồ đề đạo tràng không có nơi tá túc; vua xứ Tích Lan là Sri-Meghavarman đã cho sứ thần mang phẩm vật đến dâng tặng vua Samudra Gupta để xin được xây dựng một ngôi chùa tại Bồ-đề Đạo tràng (‘Bodh-Gayà”) và đã được tán thành. 

Vua Rama Gupta (375-380) tại vị chẳng được bao lâu. Truyền sử ‘Devichandraguptam’ kể rằng trong cuộc viễn chinh đánh xứ Malwa nhà vua bị bại trận và bị vua Saka Satrap (hậu duệ của dân Scythian)  bắt sống. Để được thả về nhà vua đồng ý sẽ đem trao hoàng hậu Dhruvadevi cho Saka Satrap. Điều này làm người em trai tức giận xin giả trang làm hoàng hậu để đến khi vào được doanh trại địch quân liền giết chết Saka Satrap, sáp nhập Malwa và còn giữ được thanh danh của Gupta. Do đó ông hoàng đệ được vinh danh là Shakari hay Sahasanka (Kẻ giết được Shakas). Dĩ nhiên dân chúng ủng hộ và hoàng hậu cảm kích nên vua Rama Gupta bị phế bỏ, nhường ngôi cho em. 

Dựa theo các bia đá ở Mathura và Bilsad, người ta biết được khá nhiều chi tiết về vua Chandra Gupta II (380-414). Sau khi lên ngôi, ông đã diệt các tiểu vương Gujarat, Saurashtra và vùng Bengal để mở mang thêm bờ cõi. Ông còn liên minh với xứ Naga qua hôn nhân với công chúa Kubernaga; và với dòng xứ Vakataka (đồng bằng Deccan) bằng cách gã con gái là Prabhavati Gupta cho vua Rudrasena II vào năm 390. Chính công chúa Prabhavati Gupta này đã cho ghi lại bia ký bằng đồng ở Poona kể ở trên về gia phả dòng họ mình. Chiến thắng quân sự vĩ đại nhất của ông là đã chiếm được xứ Saurashtra (nay là Maharashtra) cạnh biển Ả-rập, mở rộng thương mãi hàng hải qua phía tây Ấn. 

Ông được tôn vinh là Thái Dương Anh Hùng (Vikramaditya: Sun of Valour), vì ông là vị vua nỗi bậc nhất của thời đại Gupta, nhưng ông lại còn được ca tụng về những thành tựu văn chương, học thuật hơn là quân sự, bởi dưới triều ông, mọi ngành văn chương học thuật, nhất là đạo học cả Veda và Phât pháp, y học, thú-y học, toán học và thiên văn học của Ấn có một bước nhảy vọt xán lạn mà sử sách về sau tán dương là thời đại phục hưng của văn học Ấn. Triều ông còn được rực rỡ thêm bởi có sự trợ giúp của nhóm văn hào 9 người danh tiếng (navaratna); trong số đó có Kalidasa bất tử của nền văn học Ấn. Ngoài vương hiệu Vikramaditya, triều đại của ông còn được gọi thêm là Narendrachandra, Simhachandra, Narendra Simha, Vikrama Devaraja, Devagupta and Devasri. 

Dưới triều đại này có Đại sư Pháp Hiển (Fa-Hsien) từ Trung quốc đã đến chiêm bái các Phật tích và đã thăm viếng khắp đế quốc Gupta dưới triều vua Chandra Gupta II từ 401 (có sách ghi là 399) đến 410, và ghi lại nhiều ký sự trong bộ ‘Phật Quốc Ký’. 



Vua kế là Kumara Gupta I (414-455) còn có nhiều vương hiệu khác là Sri Mahendra, Ajita Mahendra, Sima Mahendra, Asvamedha Mahendra, Mahendra Karma, Mahendra Kalpa, Sri Mahendra Simha, Mahendra Kumar, Mahendra Aditya vv. Ông kế thừa một đế quốc rộng lớn, và có công giữ cho nó được toàn vẹn. Dưới triều ông xã hội Ấn vẫn còn ở hồi cực thịnh phồn vinh; sự bao dung tôn giáo có phần rộng rãi hơn. Triều ông còn lưu lại đến nay 14 loại tiền vàng đặc trưng, và về sau có cả tiền bạc miêu tả ông vừa là mãnh tướng, vừa là nhạc sĩ vv... Ông còn vang danh nổi bậc là vị vua cho xây dựng Viện Phật Học nổi tiếng thế giới Nalanda một cách bề thế vĩ đại. Ông có hai người con trai là Skandagupta (con với hoàng hậu Devaki) và Purugupta (con với hoàng hậu Ananthadevi). Vào cuối triều ông có quân Pushyamitra nổi loạn ở thung lũng Narmada đe dọa triều đình. 

Tiền vàng triều Kumara Gupta I (414-455) với hình nhà vua đang hạ hổ.  


Mặt trái hình nữ thần Nimbate, tượng trưng cho sông Hằng.

Đến thời vua Skanda Gupta (455-467), theo bia ký Bilsad và Bhitari, được xem là vị vua cuối của thời đại Gupta huy hoàng, vì tuy ông đánh bại được quân Pushyamitra, nhưng rợ Hung (Hephthalites – mà sử Ấn gọi là Huna) từ vùng tây bắc liên tục tràn xuống uy hiếp đến cả Hoa thị thành. Theo bia ký Kahaum thì ông đã diệt được hàng trăm tiểu vương (?) kể cả rợ Hung bị ông đánh bại ở thung lũng Aryavarta năm 467. Ông cũng rất bao dung với đa tôn gíao. Khi ông mất thì đế quốc Gupta đã bắt đầu suy yếu. 




Skanda Gupta (455-467)

Vua Pura Gupta (467-472) thay anh lên ngôi thì đã già nên trị vì chỉ có 5 năm thì mất. Con trai của ông với hoàng hậu Shri Vinayadevi lên thay. 

Đến triều vua Narasimha Gupta (472-476) thì thời đại Gupta đã bắt đầu suy yếu. Có lúc Ấn lại còn phải cống lễ vật cho vua Hung nô để cầu hòa. Nhưng khi nghe tin vua Hung nô Mihirakula, đóng đô ở Malwa mạn tây bắc, ra lệnh sát hại tăng sĩ PG, hũy diệt tăng viện, đốt bỏ kinh sách ở vùng Ngũ Hà, vua Narasimha Gupta liền đóng cửa biên giới và không hiến cống nữa. Mihirakula tức giận kéo quân tấn công kinh đô Hoa thị Thành của Magadha và truy đuổi Narasimha đến tận vịnh Bengal. Trên đường hành quân Mihirakula đã trút giận lên các tăng tín đồ PG, dã man tàn sát những người không trốn thoát được và đã huỹ diệt PHV Nalanda lần đầu tiên. [Heras, A Note on the Excavations at Nalanda and its History, J.B.B.R.A.S., II, N. S., p. 215-216.] Nhưng sau đó quân của Narasimha Gupta đã phản công và đánh bại được Mihirakula và đuổi rợ Hung nô về tận vùng Shakala (Sialkot, Kashmir ngày nay). 

Sự xâm lăng của Hung nô đã nhanh chóng đưa triều đại Gupta đến chỗ sụp đổ vì đã kéo theo sự xâm nhập ồ ạt của dân các bộ lạc biên cương từ Trung Á, cộng thêm kinh tế Ấn bị suy thóai trầm trọng do mất quyền kiểm sóat đường tơ lụa, con đường thương mãi huyết mạch. Điều đáng lưu ý ở đây là hậu duệ của dân Hung nô vốn chạy thoát được về mạn Kashmir đã dần thích ứng với xã hội và nền văn hóa mới để sau này biến dạng thành giống Rajputs. 

Vua kế vị là Kumara Gupta-II (476-477) không lưu lại được thành tích gì. Thời gian trị vì của ba triều sau này quá ngắn tổng cộng chỉ khoảng 10 năm nên sử liệu hiếm hoi. Và từ đấy việc truyền thừa các ngôi vua cũng không được ghi lại rõ ràng. Xứ Magadha cứ suy yếu dần và nội loạn cứ xảy ra mãi. Theo bia ký Apshad ở Adityasena thì vua vua Kumara Gupta II, rồi vua Damodara Gupta đã đánh bại được kẻ phản loạn Isanavarman – một dũng tướng đã từng có công đánh đuổi quân Andhra, Sulika, Gauda và rợ Hung, đã được vinh danh trên bia ký Haraha. Về sau vua Mahasena Gupta lại còn dẹp được quân phiến loạn Susthivarman. 

Người ta được biết thêm tên 14 vị vua nối tiếp nhau trong vòng hơn nửa thế kỷ là Budha Gupta (477-495), Tathagata Gupta, Krishna Gupta, Harsha Gupta, Jivita Gupta-I, Kumara Gupta-III, Damodara Gupta, Mahasena Gupta, Madhava Gupta and Deva Gupta-II, Adityasena, Deva Gupta-III, Jiva Gupta-III. Các triều này cũng chẳng lưu lại công trạng gì vẻ vang cả cho đến vị vua cuối là Vishnu Gupta thì thời đại Gupta chấm dứt khoảng 550.  


Sau khi thời đại Gupta suy sụp thì các thế lực nội bộ tranh nhau ngôi bá vương trong một thời gian khá dài. Trong đó đáng kể là Valabhi, Gujarata, Nandipuri, Maukhari của xứ Magadha, tiểu vương hậu Guptas ở Malwa cạnh Magadha, các xứ Bengal, Nepal, và Kamarupa trong thung lũng Assam. 

Đến đầu thế kỷ thứ 7, các thế lực đối kháng rốt lại gom vào trong tay của hai dòng họ đáng kể là Shashanka vua của xứ Gauda (Hạ Bengal) sau khi chiếm được xứ Orissa liền sáp nhập phần lớn lãnh thổ trong thung lũng sông Hằng; và dòng họ Puspabhukti ở vùng bắc Delhi đang hùng mạnh; mãi đến thời vua Harsavardhana mới thống trị được thiên hạ. 



---o0o---
B. Di sản của thời đại Gupta

Ngày nay người ta biết nhiều về thời đại này dựa vào đồng tiền cỗ, bia ký, đền đâi, và các tác phẩm cổ văn Sanskrit. Tuy lãnh thổ của Ấn dưới triều đại này không rộng lớn bằng vào thời Maurya và dòng Gupta kéo dài được 200 năm, nhưng nói chung đã được các nhà sử học xem là thời đại cổ điển hòang kim của nước Ấn. Các ngành văn học, nghệ thuật, y học, thiên văn, toán học, kiến trúc, đạo học và triết học của Ấn khởi sắc; kinh tế sung mãn nên các đô thị được phát triển và giàu có. 

Tượng Đức Phật vào thời Gupta, TK thứ 5.

Tương tự nhiều thời đại trước, các tiên vương thì theo đạo BLM giáo nhưng đến các triều sau thì sùng bái và hổ trợ PG. Vua Kumara Gupta I đã cho xây dựng và bảo hộ cho PHV Nalanda. Rồi về sau vua Narasimha Gupta đã nhường ngôi cho con mà vào Nalanda làm tăng sĩ. BLM giáo và PG hình như có sự pha trộn dưới thời này. Dù vậy, xã hội Ấn dưới thời Gupta ban đầu vẫn còn nặng về với nề nếp trật tự theo đẳng cấp phân biệt của Bà-la-môn giáo. 

Dưới thời Gupta văn chương Sanskrit đạt đến cao điểm; văn học PG thường được viết bằng Pali trước đây đều được dịch ra Sanskrit; hai mươi tám hang động của các tăng sĩ ở Ajanta với những bích họa tuyệt tác đầy sáng tạo linh động cũng được tạo ra. Ajanta nằm ở phía tây Maharashtra, một phần của vương quốc Vakataka đồng minh với Gupta. Nghệ thuật và văn học PG cũng đạt đến tuyệt đỉnh dưới thời này qua những lò mỹ nghệ danh tiếng Mathura và Sarnath, và từ đó lan tràn sang các hãi đảo ĐNA và Miến-điện, Xiêm-la, Thủy chân lạp, Lào và Lâm Ấp. Kiến trúc đền đài, điêu khắc và luyện kim đạt đến một nghệ thuật rất cao. Trụ sắt ở Meharulli, Delhi – mà nhiều học giả cho là do vua Chandra Gupta II cho dựng lên - dù đến nay đã hơn 16 thế kỷ vẫn còn đứng trơ trơ không rĩ sét. Thế nhưng đến nay những đền đài xây dựng vào thời này như Vaishnavite Tigawa ở Jabalpur vào năm 415, ngôi khác ở Deogarhnear Jhansi xây năm 510, và Bhita ở bang Uttar Pradesh hầu hết đều hoang tàn đổ nát. 

Nhiều văn hào, thi gia, luận gia đạo sĩ trứ danh như Harishena, Vasubandhu (Thế Thân), Asangha (Vô Trứ), Kalidasa, Dandi, Visakhadatta, Shudraka, và Bharavi cũng xuất hiện vào thời này. Những kinh sớ (shastras), truyền thuyết luận (puranas) tôn giáo nổi tiếng cũng đều được sáng tác, kể cả cuốn kinh về nghệ thuật yêu đương nổi danh ‘Kama Sutra’. Nhà thơ Sanskrit vĩ đại Kalidasa của Ấn với hai tác phẩm Meghdoot và Kumarsanhita cũng đã phục vụ dưới triều Chandra Gupta II. 

Riêng về toán học, Varahamihira đã đưa ra khái niệm về số lẽ, vô cực trong khảo luận ‘Bhrihatasamhita’. Đồng thời biểu hiện của con số từ 1 đến số 9, và số ‘không’ (zero: lấy từ dấu hiệu vòng tròn ‘0’ viên mãn tượng trưng cho pháp không của PG) đã được phát kiến vào thời này, mà về sau người Á-rập truyền qua phương tây đã dần thay thế hệ thống số của La-mã. 

Các nhà thiên văn Aryabhatta đã khám phá ra số pi và đã chứng minh được quả đất có hình tròn vào năm 499. Họ cũng đã tính được lịch theo mặt trời có 365.358 ngày và sự chuyển dịch của các hành tinh một cách tương đối chính xác. 

---o0o---




tải về 1.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương