Trần TrúcLâm những hộ pháp vưƠng của phật giáo trong lịch sử ẤN ĐỘ


PG Hy-lạp và sự hưng thịnh của phái Đại thừa



tải về 1.49 Mb.
trang9/17
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích1.49 Mb.
#35349
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   17

PG Hy-lạp và sự hưng thịnh của phái Đại thừa


Không ít thì nhiều, chính sự chung sống khắng khít lâu dài giữa hai nền văn hóa PG và Hy-lạp trong vùng đã ảnh hưởng lên hệ thống triết học của nhau. PG lên trên nền triết học của Hy; và Hy lên trên sự manh nha của học phái Đại thừa, trước cả giai đọan ảnh hưởng của Trung Á hoặc đông bắc Á. 

Theo nhiều học giả thì những bản kinh đại thừa chủ yếu đã được sáng tập khỏang năm 100 TTL, khi có sự khác biệt trong sự luận giải lời dạy của đức Phật giữa phái thủ cựu (Thượng tọa bộ) và phái canh tân (Đại thừa), và nhất là sự tranh luận về ứng thân (humanity) hay pháp thân (superhumanity) của đức Phật và về A-tì đạt-ma tạng (metaphysical essentialism). [McEvilly, "The shape of ancient thought"]. Phái đại thừa bao dung và chấp nhận những ý niệm tiến bộ hơn ngòai những kinh bộ truyền thống Nikaya, vượt xa hơn ý niệm về giác ngộ giải thóat cá nhân của Thượng tọa bộ, để thờ phượng đức Phật gần như nhân-thần linh thiêng (man-god status) tương tự như quan niệm thần linh hóa nhà vua (god-king) của Hy-lạp, và sự xuất hiện một lọat các chư thánh bồ tát muốn cứu độ chúng sinh (pantheon of deities - bodhisattva). 



Theo Katsumi Tanabe, giáo sư tại Chuo University, Nhật, trong cuốn "Alexander the Great.East-West cultural contact from Greece to Japan" thì ảnh hưởng Hy-lạp trong PG còn được truyền sang Nhật bản và lưu nhiều dấu tích, ví dụ thần gió Fujin là gợi ý từ thần Boreas, hay thần mẹ Hariti hoặc Kishibojin từ thần Tyche. 

Đến triều Kanishka I thì phái đại thừa càng được khởi sắc thêm. Tiếng Pali được dùng trong văn học thay thế tiếng Sankrit và đặc điểm nổi bậc nhất là sự trưởng thành tột đỉnh của nghệ thuật Gandhara. Nghệ nhân vùng này đã khéo léo trộn lẫn hai truyền thống Ấn và Hy-lạp trong các tác phẩm một cách hài hòa. Rõ rệt nhất là các tượng Phật và chư bồ tát mà hiện nay vẫn còn tồn tại. Foltz trong cuốn “Religions on the Silk Road” cho rằng sự giao lưu đa văn hóa trong vùng trên “con đường tơ lụa” đã đóng góp vào sự phát triển và lớn mạnh của phái đại thừa và Tịnh độ tông. 

Tượng đức Phật Thích Ca lúc khổ hạnh; tìm thấy ở Taxila và hiện lưu ở Bảo tàng viện Lahore.

Nhiều tượng Phật tạc theo nghệ thuật Gandhara còn mang vẻ thần mặt trời Apollo. Bentley trong cuốn "Old World Encounters" cho rằng có thể triết lý khắc kỷ (stoicism) của Hy-lạp đã có chút ảnh hưởng đến sự nhìn nhận khả năng bình đẳng giác ngộ của mỗi cá nhân (ai cũng có Phật tính). 

Đáng tiếc là sự tương sinh này đã chấm dứt vào khoảng TK 5 TL, khi vùng bắc Ấn bị rợ Hung xâm lấn, và kế tiếp là sự phục hồi của Ấn giáo và sau cùng là sự bành trướng của Hồi giáo làm cho ảnh hưởng Hy vào PG đã phai tàn nhường chỗ cho ảnh hưởng của Trung Hoa về sau. 

---o0o---

Ảnh hưởng đến các tôn giáo khác ở phương tây


Xa hơn nữa, sự giao thoa PG - Hy-lạp cũng đã gây ảnh hưởng đến sự hình thành của nhiều tôn giáo khác trong vùng Địa trung hải, đặc biệt là Ki-tô giáo. 

Bentley, trong sách dẫn thượng đã khẳng định rằng khái niệm luân lý của PG vào thời đại của Menander, dựa vào lý tưởng thuận trị theo Chánh Pháp của Asoka được truyền qua phương tây đã ảnh hưởng đến giáo lý của Ki-tô xuất hiện khỏang 2 thế kỷ sau, như ý niệm về hiếu sinh, bình đẳng, thương xót kẻ yếu đuối, tránh bạo lực, biết dung hòa và tha thứ vv… 

Những thành phố Hy-lạp quan trọng ở vùng Trung đông như Antioch và đặc biệt là Alexandria, về sau đã trở thành những trung tâm phát triển Ki-tô giáo và đóng vai trò không nhỏ trong sự kết tập giáo lý của Ki-tô giáo. 

Ảnh hưởng của PG còn được thấy phảng phất trong vài phần khác của Thánh Kinh Ki-tô, ví dụ sự thiên ứng về sự ra đời của Phật và Jesus; sự báo trước của các nhà tiên tri Asita và Simeon về đứa bé sơ sinh sẽ là đấng cứu thế; Phật bước trên hoa sen, Jesus đi trên nước; việc chữa lành cho người bệnh; việc nhịn đói nhiều tuần trước khi thành đạo; sự cám dỗ của Mara và Satan; ý niệm về tam bảo và ba ngôi; đời sống độc thân trong tu viện, vv…(Sedlar 281). 

Trong cuốn “Intertextuality, Buddhism, and the Infancy Gospels,” Zacharias P. Thundy khẳng định không phải là do sự trùng hợp mà cho rằng văn hóa và văn học PG và Ấn đã cung cấp nhiều yếu tố trong văn chương Thánh Kinh Ki-tô (Thundy 18). Thời kỳ ấy, tín đồ PG đã từng sinh sống ở Alexandria. Origen qua cuốn “Commentary on the Book of Ezekiel,” còn cho là PG cũng đã có mặt ở Anh quốc. Giáo sư Hajime Nakanura còn bảo là ông đã tìm thấy dấu tích của các tăng viện PG ở vùng bắc Âu. (Ikeda 74). 

Trong Cựu ước kinh, phần Thánh vịnh, bộ “Các sách giáo huấn”, đặc biệt là quyển thứ 4 “Ecclesiastes” (Truyền Đạo, có người dịch là Giảng Viên), vốn được biên soạn ở thế kỷ 3 TTL, nhưng lại ngụ ý là do vua Salomon của Do-Thái. Tác giả vô danh suy ngẫm về ý nghĩa cuộc sống và cho rằng tất cả đều là phù vân, sau khi đã quan sát về vòng sinh tử, luân hồi của đời sống. Ngay trong câu mở đầu của cuốn sách Qohelet (Thầy giảng) phán: “Hư không, tất cả đều là hư không” (emptiness, everything is emptiness). Ý này còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong cuốn kinh. Ông vốn có đủ quyền lực và khả năng để thử nghiệm đời sống một cách tận cùng về trí thức, rồi các thú vui vật chất, tình tiền, nhưng rồi cũng thất vọng và đau khổ vì cái giới hạn của cuộc sống. Rốt lại ông cho rằng chỉ có cuộc sống tâm linh thánh thiện mới là nguồn an lạc lâu dài. Năm 1894, nhà thần học E. J. Dillon vốn thấy nó rõ ràng là đã chịu ảnh hưởng của PG, nên muốn lọai cuốn này ra khỏi Thánh Kinh Ki-tô (Dillon 153-76). 

Cũng trong giai đọan này triết gia Pyrrhon đã tháp tùng đại đế Alexander vào vùng tây bắc Ấn và khi trở về Hy-lạp đã lập nên trường phái Cynic, sau khi chịu ảnh hưởng của Kỳ na giáo và PG. Hiển nhiên sự bành trướng của trường phái này trong thế giới Hy-lạp đã có ít nhiều ảnh hưỡng đến cuốn Ecclesiastes. 

---o0o---


Bộ kinh Milinda Vấn Đạo


Người ta tin rằng bộ kinh Milindapanha đã được khẩu tập không lâu sau khi vua Menander băng hà. Thời gian ấy các người kế vị là Hòang hậu Agathocleia rồi vua Strato I Soter ở ngôi khỏang 40 năm nữa trước khi xứ Bactria bị chia ra nhiều tiểu vương quốc. Nội dung kể lại những câu hỏi và đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena. Sau đó bộ kinh này đã được kết tập ở vùng bắc Ấn khỏang giữa TK 1. 

V. Trenckner cho rằng nguyên bản được viết bằng chữ Sanskrit, vì khi ông dịch bản Pali vào những năm 1860 nhận xét thấy bộ kinh được bắt đầu bằng dòng “Tam yathà  nusuyatà” (được truyền lại như sau), chứ không theo lối kinh gốc Pali thông thường được khởi đầu bằng “Evam me sutam” (tôi nghe như vầy). 

Điều ngạc nhiên nữa là câu mở đầu này cũng đã được dịch ra trong bản chữ Hán, như thế tõ rằng hai bản dịch đều bắt nguồn từ nguyên bản chữ Sanskrit. Các dịch giả Sylvain Levy và Specht cũng khẳng định là các bản dịch ra Hán văn của bộ Milinda-panha có nguồn gốc không từ bản Pali, mà có thể từ bản kinh cổ hơn. 

Nhiều học giả như W. W. Tarn, George Woodcock, và Rabindra Nath Basu đã gợi ý rằng có một bản (có thể là gốc) viết bằng Hy ngữ của Milinda-panha với tựa đề là “the Letter of Pseudo–Aristeas”đã xuất hiện ở Alexandria trong vòng 50 năm sau khi vua Menander từ trần. Điều này đã hổ trợ cho thuyết bảo rằng bộ kinh đã được khẩu tập dưới thời Menander. (Basu 3; Woodcock 113). 

Đến nay người ta vẫn không rõ ai là tác giả bộ kinh này, nhưng xem ra phải là người đã từng sống ở vùng tây bắc Ấn xa xôi hay vùng Punjab, bởi vì ngài đã không hề nhắc nhở đến những thành phố nổi danh thời bấy giờ ở nội địa Ấn phía nam sông Hằng. Có học giả, như tỳ kheo Pesala sau khi nghiên cứu bộ kinh Milinda-panha, rất ngạc nhiên với sự hiểu biết thâm thúy về PG của vua Menander đã cho rằng có thể tác giả ẩn danh vốn là một đại sư, khi thuật lại cuộc gặp mặt của hai nhân vật lịch sử trong kinh đã điểm xuyết thêm vào sự liễu ngộ Phật pháp của mình để kéo dài câu chuyện và làm đẹp ý nhà vua, đồng thời làm sáng tõ giáo pháp của đạo Phật và bác bỏ những ngộ nhận từ các giáo phái khác chống PG. 

Bộ kinh thường được truyền tụng ở tây phương đến nay là bản Pali; và đây cũng là bộ kinh khởi thủy thuộc hệ nam tông đã không xuất phát từ Tích-Lan. Theo đó thì cuộc đàm đạo giữa vua Milinda và thánh tăng Nagasena xảy ra vào khỏang từ 400 đến 500 năm sau khi đức Phật nhập diệt. Về sau đã đươc đại đức Pitakaculàbhaya, ở trung Ấn độ biên tập lại bằng tiếng Pàli từ những khẩu truyền. 

Theo bản Hán dịch hiện lưu hành thì cho rằng soạn giả là Bồ tát Long Thọ (Nagarjuna), vị đại luận sư của phái Ðại thừa, xuất hiện khỏang đầu của thiên niên kỷ TL. Có 3 bản dịch ra Hán văn lần lượt xuất hiện vào các thế kỷ III, IV, và V. Bản hiện lưu hành là bản thứ nhì, dịch trong khoảng từ năm 317 đến năm 420, nhan đề là "Na Tiên Tỳ Kheo Kinh", có lẽ từ bản Pràkrit. 

Vào thế kỷ thứ V, đại luận sư Phật Âm (Buddhaghosa) cũng thường trích dẫn kinh nầy để dùng làm luận cứ chứng minh cho các tác phẩm của ngài. Ngài Thế Thân (Vasubandhu) cũng nhắc đến kinh Milindaphanhà trong khi soạn bộ luận trứ danh của ngài là bộ A tỳ đạt ma Câu xá luận (Abhidharmakosa). 

Trong bộ Mahavamsa của Tích Lan, vốn do Mahànàma viết vào đầu thế kỷ thứ 6 TL, nhắc đến tiểu sử của Moggaliputta Tissa, đã sống khỏang trăm năm trước Nagasena, nhưng lại giống với câu chuyện về Nagasena được đề cập đến hai lần trong bộ kinh [Miln. pp 3-71]. Như thế rõ ràng là Mahànàma đã mượn ý từ bộ kinh Milinda-panha, vì lúc bấy giờ bộ Milinda-panha đã là thánh điển được Buddhaghosa (Phật Âm) sao lục. Trong cuốn Milinda Tika, luận về bộ Milinda Panha, cho biết là đọan mở đầu và đọan kết của bộ kinh là do Buddhaghosa viết. 

Trong phần giới thiệu của bộ kinh, có đọan nói rằng vua Menander đã từng đàm đạo với Purana Kassapa, Makkhali Gosala và những vị đạo sư khổ hạnh khác thì được xem như là hư cấu, bởi chư vị này sống đồng thời với đức Phật Thích Ca. Câu chuyện có lẽ mượn từ cuốn Sàmana Phala Sutta của bộ Digha Nikàya. 

Ngày nay thì bộ kinh, cũng như tam tạng kinh điển PG, đều đã được dịch ra rất nhiều ngôn ngữ khác. Ở châu Âu, bộ kinh Milinda-panha đã được nhiều học giả dịch ra và nghiên cứu lần đầu vào TK 19; đơn cử: 1) V. Trenckner, Milinda-panho (London, 1880). 2) Rhys Davids, Questions of King Milinda (2 vols. Oxford, 1890-1894). 3) R. Garbe, Beitrdge zur indischen Kulturgeschichte (Berlin, 1903, ch. 3, Der Milinda-panha).4) Milinda Prashnaya, in Sinhalese, (Colombo, 1877). 5) R. Morns, in the Academy (Jan. II, 1881). 6) Sylvain Levy, Proceedings of the 9th International Congress of Orientalists (London, 1892), i. 518-529, and Journal of the Royal Asiatic Society (1891), p. 476. (T. W. R. D.) 

Phần đối thoại phản ảnh giáo pháp Kinh bộ Nikaya như bàn về vô ngã, luân hồi, tái sanh của danh sắc, trạng thái của La Hán, bản thể của Niết Bàn, sự xuất thế của Phật, tính cách vô thượng của Phật v.v. Trong cuộc đối thoại nầy, có một điều làm cho vua Menander hài lòng nhất là câu giải đáp của ngài Nàgasena về sự lợi ích của đời sống tu hành mà từ trước nhà vua chưa được nghe, đó là “người xuất gia chắc chắn đạt được thánh thiện, và đạt được mau chóng hơn kẻ tại gia.” 

---o0o---

Đặc điểm của Bộ Kinh


Đặc điểm của nó là được xem như một cuộc giao thoa Âu-Á đầu tiên, một cụộc học đạo giữa một người tây phương (vua Menander) với văn hóa Hy lạp muốn học hỏi giáo pháp uyên áo của đạo Phật ở đông phương qua sự giải đáp của một vị tăng (Tỳ kheo Nàgasena) ở thung lũng sông Indus. Qua đó Phật pháp đã được trình bày một cách đầy thuyết phục và dễ nhớ. 

Vốn dòng dõi Hy-lạp, vua Menander đã hỏi khá nhiều câu hỏi mà người tây phương thường thắc mắc về những đề tài rất cấp thiết đại lọai như “Nếu không có linh hồn thì cái gì sẽ tái sanh?” hoặc “Nếu không có cái ta thì ai đang chuyện trò với ngài?”, cho nên bộ kinh Milindapanha rất gần gũi với người tây phương muốn tìm hiểu về PG. Thực ra lối đàm thọai này đã từng được đức Phật sử dụng trong Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya); Bài giảng cho người Kàlàmà. (Phẩm 5-7; Đọan 65). 

Mọi câu hỏi được đặt ra từ một kẻ ngạo mạn đầy uy quyền với óc đa nghi, sắc bén đều đã được giải đáp hòa nhã, thỏa đáng kèm với nhiều tỉ dụ cụ thể và giản dị bởi một vị thánh tăng. Cũng vì thế mà vua Menander liễu ngộ Phật pháp mà qui y rồi ủng hộ PG mạnh mẽ dưới triều ông. 

Văn phong trong bộ Milinda-panha hao hao lối đối thọai của Socrates (470-399 TTL) / Plato (428 – 347 TTL; học trò của Socrates và thầy của Aristotle). T.W. Rhys Davids, một nhà ngữ học Pali đã cho đó là một kiệt tác văn chương cổ của PG và cũng của nền văn học Ấn. 

Bộ kinh cũng cho thấy ẩn chứa những điểm tế nhị ảo diệu manh nha của tư tưởng đại thừa. Có lẽ chính vì đặc điểm này mà ngài Long Thọ (xuất hiện hơn 2 thế kỷ sau) cũng trước soạn lại bộ kinh Na Tiên để mở màn cho giáo lý trung quán xuất hiện. Xét ở khía cạnh này, có thể xem tư tưởng Nàgasena là tư tưởng chuyển tiếp giữa Tiểu thừa và Ðại thừa. Vì thế địa vị của bộ kinh trong tam tạng kinh điển không kém phần quan trọng. 

---o0o---


Vài điểm khác biệt giữa hai bản dịch Pali và Hán văn


Đại khái chúng ta có thể nêu vài điểm khác biệt như sau: 

1. Bản Hán văn lấy tên tỳ kheo làm tựa đề là Nàgasena-bhikshusutra (Na-tiên tỳ kheo kinh) chia làm 3 phần. Bản Pali lại tên vua làm đề là Milinda-Panha (Milinda Vấn Kinh), phân làm 7 quyển. 

2. Nội dung của một phần quyển I, trọn quyển II, và quyển III của hai bản giống hệt nhau. Nhiều học giả cho rằng bốn quyển còn lại, từ quyển IV đến quyển VII, là do phái Thượng tọa bộ Nam tông thêm dần vào từ thế kỷ thứ V, cho hợp với lập trường giáo nghĩa của phái mình. 

3. Bản Pali có dư trội 12 câu hỏi. Đây là do sự sắp xếp khác nhau của những lần biên tập về sau, nên có sự khác biệt. Bản Pali: có 6 quyển, 22 chương gồm 262 câu hỏi, mà nay chỉ còn 237 câu hỏi. Bản Hán văn có 250 câu hỏi. 

4. Giữa hai bản, chuyện tiền thân của Nàgasena và Milinda không giống nhau. 

5. Trong bản Hán văn không thấy đề cập đến Abhidhamma (A-tì-đạt-ma: Thắng Pháp), vốn thường được nhắc đến trong bản Pali. 

6. Trong phần sắp xếp Bodhipakkhiya Dhammas (Bồ-đề Phần), người dịch ra Hán văn xem ra không quen với bản Pali. 

7. Bản Pali nói rằng súc vật có suy tính nhưng thiếu khôn ngoan; bản Hán văn thì bảo súc sinh có khôn ngoan nhưng cái tâm thì khác nhau. 

---o0o---

Lời Kết


Nhân tìm hiểu lịch sử của giai đọan quanh thời kỳ xuất hiện bộ kinh Milindapañha, chúng ta thấy đã có nhiều chứng cớ để kết luận rằng: Cuộc đàm đạo giữa vua Menander (hay Milinda, Di-Lan-Đà) và Tỳ kheo Nàgasena (hay Na-Tiên) là một sự kiện lịch sử, đã từng xảy ra ở tăng viện Sankheyya, thuộc kinh đô Sagala của nước Bactria vào khỏang giữa thế kỷ thứ 2 TTL. 

Sử liệu cũng cho thấy vùng tây bắc Ấn sau khi bị người Hy-lạp xâm chiếm đã có một thời thấm nhuần PG được truyền từ lưu vực sông Hằng. Có thể bảo đấy là thành quả sớm nhất của các cuộc truyền pháp của PG sang phương tây, còn trước cả phương đông. Sự giao hòa giữa hai nền văn hóa và triết học của PG và Hy-lạp trong vùng đã tạo nên một sắc thái đặc thù của đất thánh Gandhara, nơi phát xuất và đóng góp ý niệm đại thừa vào PG về sau. 

Nhưng nhìn vào sự thăng trầm sinh diệt nhanh chóng của các nền văn hóa trong vùng cũng làm cho người đọc chạnh lòng. Với tham vọng đế quốc thống trị tòan cầu, nhất là từ tây phương kể từ thời Alexander, thì sức mạnh của bạo lực là chủ yếu. Mạnh được yếu thua. Họ chẳng cần đếm xỉa gì đến đạo lý. Đạo lý chỉ được tạo dựng sau khi đã hòan tất sự khống chế để biện giải cho việc giết người cướp của của họ; vì thế mà vai trò của tôn giáo và giới tăng lữ vẫn luôn có giá trị lợi dụng cho kẻ xâm lược. 

Suốt dòng lịch sử nhân lọai hơn hai ngàn năm, tham vọng ấy của tây phương vẫn liên tục được tiến hành với chiêu thức có thay đổi tùy theo thời đại kỷ thuật mới. Đến nay thì họ không cần chiếm đất mà chỉ muốn áp đặt quyền lực lên các nước nhược tiểu. Dĩ nhiên song hành với tham vọng này, họ vẫn là xữ dụng “vũ khí mềm” là bành trướng tôn giáo Ki-tô lợi hại, “mở mang nước Chúa” để đạo và đời cùng có lợi như đã từng làm trong quá khứ qua các chế độ xâm chiếm thực dân. 

Đã có biết bao nhiêu tiểu quốc, bao sắc dân, bao nền văn hóa và tôn giáo của thế giới đã bị hũy diệt bởi những tham vọng này. Từ đó ta thấy thêm rằng chỉ những tôn giáo nào được kẻ mạnh xử dụng là hy vọng tồn tại, và vì thế tôn giáo nào muốn độc tôn trên thế gian đều phải dựa vào lưởi gươm của thế lực, chứ chẳng phải từ thần linh hay giáo lý mà giới tăng lữ thường kêu gọi tín đồ tuân phục. Thần quyền luôn liên kết với thế quyền để cùng hưỡng lợi. Tín đồ càng nhiều, cộng đồng càng lớn thì vai trò của giới tăng lữ mới càng quan trọng để bảo vệ quyền lợi kinh tế và vật chất cho nhau. Giáo chủ xưa thì sống trong thanh bần áp bức để làm sáng thiện tâm, nhưng giáo hội nhân danh họ được dựng lên thì sống trên xa hoa, dư dật của vật chất và quyền lực. Hóa ra những lời thuyết giảng chỉ là những xão ngôn lừa mị. Nhưng tín đồ thì chẳng mấy bận tâm với những điều trái khuấy ấy khi quyền lợi kinh tế của họ được bảo đảm bởi giáo hội. 

Riêng PG, với bản chất từ bi, nhẩn nhục, hiếu sinh và thanh tịnh, giới tăng già thì nghiên về thóat tục (nhưng chưa hẳn hòan tòan đã thế), xem ra thiếu khả năng tổ chức và lãnh đạo khối tín đồ trở thành một lực lượng kinh tế và chính trị quan trọng trong từng quốc gia (ngọai trừ một vài nước theo phái Tiểu thừa), chứ đừng nói đến một trung tâm hoằng pháp chỉ đạo quốc tế. Vì thế PG chỉ thích nghi với những xã hội nông nghiệp ít biến động, chứ không có đủ sức mạnh để kháng cự khi bị ngọai xâm. Khi bị tấn công đàn áp, thì tín đồ PG lại hay chọn thái độ dĩ hòa vi quí, co rút, tự diệt hơn là chống lại một cách đại hùng đại lực. 

Do đó mà ta thấy PG sau nhiều thế kỷ sáng lạng huy hòang ở Ấn và vùng tây bắc Ấn đã bị hòan tòan tiêu diệt một cách dễ dàng bởi những tôn giáo mới vốn chỉ dựa vào bạo lực và o ép kinh tế để truyền đạo. Hiện nay nhiều Phật tử cảm thấy phấn khởi khi chùa chiền đua nhau mọc lên, nhất là ở hải ngọai, nhưng xét kỷ lại thì mới thấy rằng gốc rễ PG đã lung lay ngay tại những xứ thường tự hào là đất Phật như Tây tạng, Trung Hoa và Việt-nam. Những bài học lịch sử này có gây được sự xét lại đường lối sinh họat và truyền giáo của giới tăng ni hiện nay hay không? Bởi vì cứ tiếp tục thái độ thụ động, xa rời quần chúng tín đồ, thiếu tổ chức, thiếu uyển chuyển thích nghi với thời đại và thiếu đòan kết của giới lãnh đạo thì vai trò của PG trong xã hội, vốn là động lực của dân tộc, e một ngày kia sẽ bị mai một. Hối thì đã muộn. 

Trần Trúc-Lâm  
Seattle, Mùa thu 2004 

 

---o0o---




tải về 1.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương