Trả lời Câu 1



tải về 1.34 Mb.
trang5/14
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.34 Mb.
#13206
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14
Câu 2: Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ ngày, tháng, năm nào? So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có bao nhiêu điều được giữ nguyên? Có bao nhiêu điều được sửa đổi, bổ sung? Điều sửa đổi, bổ sung nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?

Trả lời Câu 2. Điểm mới của Hiến pháp sửa đổi

- Sau 21 năm từ Hiến pháp năm 1992, đất nước ta có Hiến pháp sửa đổi mới, Hiến pháp của thời kỳ hội nhập, thời kỳ đổi mới.

Sáng ngày 28/11/2013, tuyệt đại đa số Đại biểu Quốc hội khóa XIII (97,59%) đã ấn nút thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (SĐHP) năm 1992 để trở thành Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi. Như vậy sau 21 năm từ Hiến pháp năm 1992, đất nước ta có Hiến pháp sửa đổi mới, Hiến pháp của thời kỳ hội nhập, của thời kỳ đổi mới. Hiến pháp của một đất nước ngày càng phát triển, dân chủ, văn minh.

Nhìn lại quá trình soạn thảo, lấy ý kiến, tiếp thu chỉnh lý, Hiến pháp sửa đổi có những điểm mới sau:

Thứ nhất, với tư cách là “người trong cuộc” Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã nêu bật những cái mới của dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này là: có 11 chương 120 điều, so với Hiến pháp năm 1992 thì giảm 27 điều, dự thảo chỉ giữ nguyên 7 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi lên đến 101 điều. Trong đó có sự sắp xếp các chương, như chương 11 về Quốc huy, Quốc kỳ, Quốc ca, thủ đô nhập vào chương 1. Về chế độ chính trị ở chương 5 trong Hiến pháp hiện hành, về quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân được đưa lên vị trí chương 2 với tên gọi mới là quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân; có 1 chương hoàn toàn mới là  chương 10, quy định về các thiết chế hiến định độc lập.

Về nội dung, ngay từ Lời nói đầu được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng, súc tích và ngắn gọn chỉ bằng 1/3 so với Lời nói đầu của Hiến pháp hiện hành. Thứ hai, về chủ quyền nhân dân thì được thể hiện rõ và nhất quán trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, làm nổi bật vai trò của nhân dân, là chủ thể cao nhất, duy nhất của quyền lực nhà nước. Thứ ba, thể chế hóa, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điểm mới thứ 4 là nội dung kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường được thể hiện theo hướng ngắn gọn rõ ràng và mang tính nguyên tắc, bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp; nội dung này trước đây là 2 chương, ở chương 2 và chương 3, bây giờ được nhập lại thành chương mới là chương 3. Điểm mới thứ 5, là việc dành hẳn 1 chương về thiết chế hiến định độc lập, có 2 điều, tại chương 10 quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia và kiểm toán nhà nước.

Thứ hai, cái mới của Hiến pháp từ góc độ các Đại biểu Quốc hội (ĐBQH): 498 ĐBQH được cử tri cả nước ủy quyền, đại diện cho ý nguyện của nhân dân đã dành tâm huyết, trí tuệ và thời gian thảo luận ở tổ, ở hội trường; đã trăn trở, tranh luận, phân tích, bàn thảo một cách kỹ lưỡng, thận trọng, khoa học; đã góp ý, tham gia từng câu, từng chữ, từng dấu chấm, dấu phẩy của bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Nhiều đại biểu còn giữ nguyên từ bản dự thảo đầu tiên cho đến bản dự thảo sửa đổi cuối cùng để đối chiếu, so sánh về sự tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Có đại biểu rất phấn khởi vì ý kiến của mình được tiếp thu, chỉnh sửa câu, chữ trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp… Qua đó cho thấy các ĐBQH đã hiểu rất rõ vai trò, trọng trách của mình trước cử tri, trước đất nước. 

Cái mới của các ĐBQH tại kỳ họp này còn ở chỗ, không chỉ nhận thấy vai trò, trọng trách của mình trước một sự kiện có tính chất lịch sử mà còn nhận thức rất rõ ý nghĩa, nội hàm, nội dung từng chương, từng điều của Hiến pháp. Các ĐBQH đã có thời gian, không gian để thẩm thấu, để hiểu và nhận thấy trách nhiệm, vinh dự, tự hào, hạnh phúc vì được trực tiếp tham gia, góp ý, trao đổi; được trực tiếp tham gia quyết định Hiến pháp sửa đổi lần này bằng việc ấn nút thông qua vào thời khắc quan trọng. Trọng trách ấy, vinh dự ấy là sự kết tinh về ý chí, nguyện vọng của cử tri được đặt lên vai các ĐBQH; đồng thời cũng là đòi hỏi khách quan tất yếu trong thời kỳ mới của cách mạng nước ta.

Thứ ba, cái mới của Hiến pháp từ góc độ nhân dân và cử tri cả nước: Hiến pháp đầu tiên ra đời năm 1946, sau đó là các Hiến pháp 1959, 1980, 1992. Mỗi bản Hiến pháp đều có vai trò, sứ mệnh lịch sử riêng của nó. Tuy nhiên, không phải cán bộ hay cử tri nào cũng có điều kiện, thời gian để theo dõi và hiểu biết sâu sắc, đầy đủ về Hiến pháp; thậm chí có những cán bộ, cử tri xem Hiến pháp là của ai đó cao xa, không phải là của mình. Nhưng lần này, qua gần một năm với hàng chục triệu ý kiến, hàng nghìn hội nghị, hội thảo của các tầng lớp xã hội, mới thấy rằng nhân dân, cử tri, các nhà khoa học, quản lý... rất quan tâm, đóng góp trí tuệ vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Tuy còn một bộ phận, một số người thuộc các tầng lớp nhân dân và ngay cả một số ĐBQH của chúng ta còn có những ý kiến khác nhau nhưng tuyệt đại bộ phận nhân dân và Quốc hội đã đồng tình cao với sửa đổi Hiến pháp lần này.

Cái mới và cũng là cái được lớn nhất của Hiến pháp sửa đổi đó là nhân dân và cử tri cả nước đã coi Hiến pháp là của chính  mình; Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản có tầm ảnh hưởng để định hướng và điều chỉnh các hoạt động của đất nước, của xã hội, thông qua các luật và các văn bản dưới luật; đây là bản Hiến pháp đổi mới cho thời kỳ tiếp tục đổi mới của đất nước chúng ta. Hiến pháp sửa đổi lần này thực sự đã thể hiện sự kế thừa các Hiến pháp trước, thể hiện đầy đủ ý chí, tinh hoa, nguyện vọng của đồng bào, cử tri của cả nước và phát triển ở một tầm vóc mới; thực sự là Hiến pháp của dân, do dân và vì dân./.

Một số điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi

Sau một thời gian tổ chức lấy ý kiến đóng góp của toàn thể quần chúng nhân dân và thông qua quá trình tiếp thu, chỉnh lý của cơ quan soạn thảo, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được thông qua sau 3 lần cho ý kiến tại các kỳ họp Quốc hội với tỷ lệ 97,59%. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi (sau đây gọi tắt là Hiến pháp sửa đổi) với 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; bố cục hợp lý, chặt chẽ và khoa học, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính ổn định lâu dài. Những điểm mới cụ thể như: 

Một là, phần Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi xúc tích, ngắn gọn hơn so với Hiến pháp năm 1992. Theo đó, Hiến pháp sửa đổi khẳng định: "Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, Nhân dân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội".  

Hiến pháp sửa đổi lần này đã thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên cơ sở phát huy dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đề cao được quyền con người, quyền nghĩa vụ công dân.

Hai là, Hiến pháp năm 1992 quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở Chương 5, nhưng Hiến pháp sửa đổi đã đưa chế định này lên sau chương Chế độ chính trị, đặt ở Chương 2, như vậy riêng bố cục cũng đã thể hiện tầm quan trọng của chương về quyền con người. Đồng thời, tên chương cũng đã có sự thay đổi, cụ thể: Ở Hiến pháp năm 1946 là Chương "Nghĩa vụ và quyền lợi công dân”, từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1992 là Chương "Quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân", đến Hiến pháp sửa đổi Chương này có tên gọi là "Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản công dân". Qua đó để khẳng định rằng, quyền con người là quyền tự nhiên, Nhà nước phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền con người đúng như những công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể Điều 14 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng".

Thay cụm từ "mọi công dân" thành "mọi người", theo đó Điều 16 nêu rõ: "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội".

Bổ sung thêm quy định: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật".

Ba là, Hiến pháp sửa đổi lần này vẫn tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của Đảng cộng sản Việt Nam, trong đó có những điểm lớn như thể hiện rõ hơn bản chất của Đảng một cách công khai. Trong Điều 4 của Hiến pháp trước đây không nói rõ trách nhiệm của Đảng, thì lần này Hiến pháp sửa đổi đã đưa vào và nhấn mạnh Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân. Đó là sức sống của Đảng.

Thêm vào đó, Đảng phải phục vụ nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Nếu như quyết định không đúng, ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, nhân dân thì Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và trước dân tộc. Đây là điểm rất mới của Hiến pháp.

Bốn là, Hiến pháp sửa đổi phân định rõ được chức năng nhiệm vụ cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp so với Hiến pháp hiện nay[1]. Theo đó:

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 69). Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:

- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;

- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

- Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;

- Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 

- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia;

- Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;

- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

- Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;

- Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

- Quyết định đại xá;

- Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;

- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;  

- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực củađiều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;

- Quyết định trưng cầu ý dân. 

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước (Điều 94). Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:

- Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

- Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện  nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;

- Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;

- Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ,quyền hạn do luật định;

- Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;

- Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;

- Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. 

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 102).

Bản Hiến pháp Quốc hội thông qua lần này là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, làm việc cần mẫn, tâm huyết, tận tụy, nghiêm túc chắt lọc tinh hoa trí tuệ của toàn dân, tiếp thu ý kiến xác đáng của cử tri trong và ngoài nước, các chuyên gia, nhà khoa học, các ngành, các cấp và cả hệ thống chính trị của các vị đại biểu Quốc hội. Do đó, bản Hiến pháp mới thể hiện tinh thần đổi mới và thể hiện được ý Đảng, lòng dân, phản ánh được nguyện vọng của đại đa số nhân dân.

Một số điểm mới về kỹ thuật lập hiến trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013

- Ngày 28-11-2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và Nghị quyết 64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 có hiệu lực kể từ ngày 01-01-2014 và có nhiều điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến. Bài viết phân tích một số điểm mới về kỹ thuật lập hiến trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013.

Kỹ thuật lập hiến

Kỹ thuật lập hiến hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ những cách thức soạn thảo, thông qua và ban hành Hiến pháp. Theo nghĩa hẹp, kỹ thuật lập hiến là kỹ năng diễn đạt Hiến pháp thông qua cách thức thể hiện viết các điều khoản quy định của Hiến pháp.

Kỹ thuật lập hiến có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm giá trị pháp lý của Hiến pháp; là nhân tố quan trọng làm cho nội dung Hiến pháp được trình bày một cách khoa học, chặt chẽ, lô gích; từ đó góp phần nâng cao chất lượng của Hiến pháp, đồng thời bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thực thi Hiến pháp sau khi ban hành. 

Lịch sử lập hiến của nhân loại cho đến nay chủ yếu là lịch sử của các bản Hiến pháp được thể hiện dưới dạng văn bản, chỉ trừ một số rất ít quốc gia Hiến pháp được thể hiện dưới hình thức bất thành văn như ở Anh, Ix-rai-en, Ca-na-đa. Kỹ thuật lập hiến của hiến pháp dưới dạng văn bản là kỹ năng diễn đạt hiến pháp thông qua cách thức thể hiện, viết các điều khoản quy định của Hiến pháp. Như vậy, về cơ bản, kỹ thuật lập hiến có thể xem xét ở 3 yếu tố chính: 

- Một là, bố cục và kết cấu của Hiến pháp. Cụ thể là kết cấu trong các chương, mục, điều, khoản và thứ tự sắp xếp các chương, mục, điều khoản như thế nào.

- Hai là, phạm vi những nội dung cần phải thể hiện trong Hiến pháp. Cụ thể, những vấn đề nào phải được quy định trong Hiến pháp và những vấn đề gì điều chỉnh trong các văn bản luật.

- Ba là, cách diễn đạt nội dung của Hiến pháp thông qua ngôn từ, câu chữ sao cho rõ ràng, minh bạch nhưng lại đủ bao quát và cụ thể.

Những điểm mới về bố cục và kết cấu của Hiến pháp

Ngoài Lời nói đầu, Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 điều, so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) chỉ giữ nguyên 7 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi 101 điều.

Chương I được xây dựng trên cơ sở nhập 2 chương: Chương I: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính trị” và Chương XI: “Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh” của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); đồng thời, viết gọn lại tên chương thành “Chế độ chính trị”. Việc kết cấu lại như thế là lô gích vì đây đều là những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia. 

Chương II, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Việc thay đổi vị trí chương và tên chương thể hiện giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Đây cũng là một bước tiến lớn về nhận thức. Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chung, còn lần này đã quy định rõ ràng và minh bạch rằng “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.

Chương III: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường” được quy định trên cơ sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Việc sắp xếp như vậy về mặt nội dung thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường; về mặt hình thức, khá gọn về bố cục.

Chương IV là những quy định về bảo vệ Tổ quốc nhưng tên chương viết gọn lại là “Bảo vệ Tổ quốc” (trong Hiến pháp năm 1992 là Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”) để phù hợp với tiêu đề Chương I.

Chương VIII: “Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân” được đổi vị trí từ Chương X: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân của Hiến pháp năm 1992; sắp xếp ngay sau Chương VII: “Chính phủ” và trước Chương IX: “Chính quyền địa phương”. Việc thay đổi này lô gích về trật tự vì từ Chương V đến Chương VII trình bày hệ thống các cơ quan chính của trung ương, về mặt nội dung, thể hiện sự gắn kết giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (trong Hiến pháp năm 1992, Chương này sắp xếp sau Chương quy định về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân).

Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992 được đổi tên thành Chương IX: “Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Nội hàm của chương này không chỉ quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở địa phương. 

Chương X là chương hoàn toàn mới, quy định về một số thiết chế hiến định độc lập gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Một số điểm mới về nội dung, thể hiện trong Hiến pháp

Thông thường những quy định của Hiến pháp quá chi tiết gây khó khăn cho việc xây dựng các văn bản luật và văn bản dưới luật. Thực tế cho thấy, nếu Hiến pháp quy định quá cụ thể thì sẽ không thể phù hợp với mọi điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt khi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thay đổi. Quy định nào của Hiến pháp có tính chất “làm thay” quy định của luật, thậm chí văn bản dưới luật thì quy định đó sẽ mau chóng trở nên lỗi thời. Chính vì thế việc xác định phạm vi những nội dung cần phải thể hiện trong Hiến pháp cũng thể hiện một trình độ kỹ thuật lập hiến.

Điều 111, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định: 

1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đon vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.

Với quy định như trên, Hiến pháp chỉ xác định mô hình khung chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính lãnh thổ. Còn việc tổ chức cụ thể như nào sẽ do luật định để phù hợp với điều kiện đặc thù mỗi địa phương cũng như sự thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Thiết nghĩ đây cũng là một quy định thể hiện kỹ năng lập pháp trong việc xác định phạm vi những nội dung cần thể hiện trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định việc tổ chức chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đều giống nhau ở các loại đơn vị hành chính đã tạo ra sự rập khuôn, cứng nhắc, ít phân biệt được sự khác nhau trong quản lý hành chính nhà nước ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo và cũng không bảo đảm được tính tập trung cao từ trung ương xuống địa phương.

Để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, cũng như xác định việc phân cấp giữa trung ương và địa phương, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Về thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức năng của hai cơ quan này còn những vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn sẽ do luật điều chỉnh. Như vậy sẽ tránh tình trạng sao chép hay lặp lại quy định của Hiến pháp trong các luật tổ chức về nhiệm vụ, quyền hạn.

Về cách thức diễn đạt trong Hiến pháp

Về nội dung, ngay từ Lời nói đầu được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng, súc tích và ngắn gọn chỉ bằng một phần ba so với Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nhưng vẫn phản ánh được lịch sử hào hùng của dân tộc và những mốc lịch sử quan trọng, những thành quả cách mạng đã đạt được. Lời nói đầu của Hiến pháp đã thể hiện ý chí, quyết tâm của nhân dân ta, thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50). Đến Hiến pháp sửa đổi năm 2013, dù chỉ sửa đổi một vài câu chữ nhưng tinh thần của Hiến pháp đã có thay đổi lớn. Điều 14 Hiến pháp sửa đổi năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người và quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Với cách diễn đạt này, quyền con người không chỉ bị pháp luật giới hạn sự tôn trọng trong quyền công dân nữa mà còn được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, quyền con người chỉ bị hạn chế bởi luật do Quốc hội ban hành, còn văn bản dưới luật chỉ là quy định về trình tự, thủ tục để thực hiện các quyền đó… Về một số quyền cơ bản như quyền biểu tình, hội họp, nếu theo Hiến pháp năm 1992, những quyền này phải “theo quy định của pháp luật” thì lần này Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã quy định công dân có các quyền đó, không phải chờ đến luật và pháp luật nữa. Luật sẽ quy định trình tự, thủ tục tạo điều kiện cho công dân thực hiện các quyền này. Hạn chế quyền này phải bằng luật. Ngoài ra, cũng có rất nhiều quy định mang tính tuyên ngôn, diễn đạt một cách ngắn gọn, súc tích như “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật” (Điều 19 Hiến pháp 2013)…

Tóm lại, cách thức thể hiện các quy định thành văn trong một bản Hiến pháp có vai trò trực tiếp đến chất lượng và thực thi Hiến pháp sau khi ban hành. Việc sửa đổi Hiến pháp trên nhiều phương diện, trong đó có phương diện kỹ thuật lập hiến một cách đúng đắn, phù hợp sẽ góp phần bảo đảm vai trò của Hiến pháp đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Kinh nghiệm xây dựng Hiến pháp trên thế giới cho thấy, cần phải xử lý khá linh hoạt về kỹ thuật lập hiến theo hướng kết hợp trong một bản Hiến pháp cả các quy định chung, có tính khái quát (chức năng một số cơ quan) và những quy định chi tiết, cụ thể (hạn chế quyền công dân). Có như vậy, Hiến pháp mới bảo đảm tính ổn định, có hiệu lực lâu dài và không gây khó khăn cho việc thể chế hóa. Đồng thời, Hiến pháp sẽ phát huy vai trò của một đạo luật gốc để xây dựng hệ thống pháp luật tốt. Đó không chỉ là một hệ thống pháp luật minh bạch, đạt được sự đồng thuận cao của người dân trong xã hội mà nội dung và hình thức còn phải bảo đảm tính nhất quán, tính ổn định, và khả thi. Có thể nói, với những điểm mới được xác định về mặt kỹ thuật lập hiến, bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được Quốc hội thông qua đã thể hiện quan điểm đổi mới cũng như quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN./.

NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 2013

Tóm tắt:


Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013) đánh dấu bước phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam.  Bài viết này giới thiệu những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về cơ cấu và hình thức thể hiện; về chế độ chính trị; chính sách kinh tế - xã hội; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về bộ máy nhà nước; về hiệu lực của Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.  

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013, Chủ tịch nước công bố ngày 08/12/2013, có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới, đồng thời đánh dấu bước phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Để phân biệt Hiến pháp này với các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992, sau đây gọi tắt là Hiến pháp năm 2013. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi giới thiệu những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về cơ cấu và hình thức thể hiện; về chế độ chính trị; chính sách kinh tế - xã hội; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về bộ máy nhà nước; về hiệu lực của Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.

1. Về cơ cấu và hình thức thể hiện của Hiến pháp năm 2013

Về cơ cấu của Hiến pháp: Hiến pháp năm 2013 gồm 11 chương, 120 điều. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 giảm 1 chương, 27 điều, trong đó có 12 điều mới (Điều 19, 34, 41, 42, 43, 55, 63, 78, 111, 112, 117 và 118); giữ nguyên 7 điều (Điều 1, 23, 49, 86, 87, 91 và 97) và sửa đổi, bổ sung 101 điều còn lại[1].

Hiến pháp năm 2013 có cơ cấu mới và sắp xếp lại trật tự các chương, điều so với Hiến pháp 1992, như: đưa các điều quy định các biểu tượng của Nhà nước (quốc kỳ, quốc huy, quốc ca ...) ở Chương XI Hiến pháp năm 1992 vào Chương I "Chế độ chính trị" của Hiến pháp năm 2013. Đổi tên Chương V Hiến pháp năm 1992 “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và đưa lên vị trí trang trọng của Hiến pháp là Chương II ngay sau Chương I "Chế độ chính trị". Chương II "Chế độ kinh tế" và Chương III "Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ" của Hiến pháp năm 1992 có tổng cộng 29 điều đã được Hiến pháp năm 2013 gộp lại thành một chương là Chương III "Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và mội trường" và chỉ còn 14 điều nhưng quy định cô đọng, khái quát, mang tính nguyên tắc so với Hiến pháp năm 1992.

Khác với các bản Hiến pháp trước đây, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 có một chương mới quy định về "Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước” (Chương X).Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 còn đổi tên Chương IX Hiến pháp năm 1992 "Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND)" thành "Chính quyền địa phương" và đặt Chương IX "Chính quyền địa phương" sau Chương VIII "Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân".

Về hình thức thể hiện của Hiến pháp năm 2013: so với với Hiến pháp năm 1992, hình thức thể hiện của Hiến pháp năm 2013 từ Lời nói đầu đến các điều quy định cô đọng hơn, khái quát, ngắn gọn, chính xác, chặt chẽ hơn. Ví dụ, Lời nói đầu Hiến pháp năm 2013 được rút ngắn, cô đọng, súc tích, đủ các ý cần thiết nhưng chỉ có 3 đoạn với 290 từ so với 6 đoạn với 536 từ của Hiến pháp năm 1992.

2. Những nội dung các chương của Hiến pháp năm 2013

2.1 Chương I “Chế độ chính trị”: gồm 13 điều, từ Điều 1 đến Điều 13. So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 có những điểm mới cơ bản sau đây:

Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định những giá trị nền tảng và mục tiêu cơ bản của của Nhà nước CHXHCN Việt Nam (Điều 1, Điều 3), đồng thời khẳng định rõ hơn chủ quyền nhân dân: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ”, những bảo đảm thực hiện chủ quyền nhân dân đầy đủ hơn: "bằng dân chủ trực tiếp"[2]và "bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước", với chế độ bầu cử dân chủ, quyền cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và HĐND, cũng như cơ chế không chỉ phân công, phối hợp mà còn kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước (Điều 2, Điều 6, Điều 7). Những quy định mới này thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ và pháp quyền của Nhà nước ta. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tất cả các từ “Nhân dân” đều được viết hoa một cách trang trọng, thể hiện sự tôn trọng và đề cao vai trò của Nhân dân với tư cách là chủ thể duy nhất của toàn bộ quyền lực nhà nước ở nước ta.

Thứ hai, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; đồng thời bổ sung thêm trách nhiệm của Đảng trước Nhân dân:“Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”.

Thứ tư, Điều 9 liệt kê đầy đủ các tổ chức chính trị - xã hội gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức này. Đặc biệt, Điều 9  Hiến pháp năm 2013 bổ sung vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc “tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (khoản 1), đồng thời quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (khoản 3).

Thứ năm, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định chủ quyền quốc gia và đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác của Nhà nước CHXHCN Việt Nam với tất cả các nước trên thế giới; đồng thời cam kết "tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên", khẳng định Việt Nam "là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc" (Điều 11, Điều 12).

Thứ sáu, kế thừa cách quy định của Hiến pháp năm 1946, Điều 13 Chương này quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, ngày Quốc khánh và Thủ đô chứ không để một chương riêng (Chương XI) như Hiến pháp năm 1992.

2.2 Chương II “Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”: gồm 36 điều, từ Điều 14 đến Điều 49. Trong 11 chương của Hiến pháp năm 2013, đây là chương có số điều quy định  nhiều nhất (36/120 điều), có nhiều đổi mới nhất cả về nội dung quy định, cả về cách thức thể hiện. Cụ thể như sau:

Trước hết, khác với tất cả các bản Hiến pháp trước đây, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 xác định rõ và quy định ngay tại Điều 3 về Nhà nước có trách nhiệm "công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân". Vì vậy, khi quy định quyền con người, quyền công dân, hầu hết các điều của Hiến pháp năm 2013 quy định trực tiếp"mọi người có quyền ...", "công dân có quyền " để khẳng định rõ đây là những quyền đương nhiên của con người, của công dân được Hiến pháp ghi nhận và Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền này, chứ không phải Nhà nước “ban phát”, “ban ơn” các quyền này cho con người, cho công dân.  "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng" (khoản 2 Điều 14).

Đây chính là nguyên tắc hiến định rất quan trọng về quyền con người, quyền công dân và theo nguyên tắc này, từ nay không chủ thể nào, kể cả các cơ quan nhà nước được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp[4]. Cũng từ nguyên tắc này, các quy định liên quan đến các quyền bất khả xâm phạm của con người, của công dân (như quyền được sống, quyền không bị tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp luật v.v.) là các quy định có hiệu lực trực tiếp; chủ thể của các quyền này được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo vệ các quyền của mình khi bị xâm phạm. Các quyền, tự do cơ bản khác của con người, của công dân và quyền được bảo vệ về mặt tư pháp cần phải được cụ thể hóa nhưng phải bằng luật do Quốc hội, - cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân ban hành, chứ không phải quy định chung chung “theo quy định pháp luật”[ như rất nhiều điều của Hiến pháp năm 1992 quy định v.v.

Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền nào là quyền con người, quyền nào là quyền công dân và quy định chương này theo thứ tự: đầu tiên là các nguyên tắc hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tiếp đến là các quyền dân sự, chính trị rồi đến các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và cuối cùng là các nghĩa vụ của cá nhân, của công dân. Hầu hết các điều của chương này trong trong Hiến pháp năm 2013 thay vì quy định “công dân” như Hiến pháp năm 1992[ đã quy định “mọi người”, “không ai” . Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức lý luận và giá trị thực tiễn khi không đồng nhất quyền con người với quyền công dân.

Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 quy định một số quyền mới của con người, quyền và nghĩa vụ mới của công dân, như: "Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác" (Điều 17); "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật" (Điều 19); "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình ..." (Điều 21); "Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội" (Điều 34); "Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa" (Điều 41); "Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp" (Điều 42); "Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường" (Điều 43) v.v. Điều này thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển các quyền, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới hơn 1/4 thế kỷ ở Việt Nam. Nội dung của các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong các điều khác của Hiến pháp năm 2013 phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, nhất là Công ước quyền con người về chính trị, dân sự  và Công ước quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của Liên hợp quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định của Nhà nước ta trước Nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.

2.3 Chương III “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”: từ Điều 50 đến Điều 63. Đây là chương gộp nội dung quy định của Chương II "Chế độ kinh tế" (15 điều) và Chương III "Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ" (14 điều) của Hiến pháp năm 1992 đã quy định quá chi tiết, cụ thể, nhưng mang tính tuyên ngôn, ít tính quy phạm. Chương III Hiến pháp năm 2013 chỉ còn 14 điều, quy định những chính sách kinh tế - xã hội mang tính nguyên tắc, khái quát, cô đọng thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường nhằm hướng đến sự phát triển có tính chất bền vững.

Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định chính sách phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng XHCN nhưng không liệt kê các thành phần kinh tế; vẫn ghi nhận kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ... nhưng không còn ghi: được củng cố và phát triển; tiếp tục khẳng định: "đất đai ... thuộc sở hữu của toàn dân" nhưng quy định rõ "do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý" (Điều 53). Hiến pháp năm 2013 vẫn quy định về Nhà nước thu hồi đất nhưng xác định rõ hơn về mục đích thu hồi, nguyên tắc công khai, minh bạch và chế độ bồi thường: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (tác giả nhấn mạnh). Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật" (Điều 54).  

Hiến pháp năm 1992 bổ sung về: thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước (Điều 55); về quản lý ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia và các nguồn tài chính công khác (Điều 56); về sử dụng, quản lý, bảo vệ môi trường (Điều 63) v.v.

2.4 Chương V “Quốc hội”: gồm 17 điều (từ Điều 69 đến Điều 85). Về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 kế thừa các quy định của Chương VI "Quốc hội" của Hiến pháp năm 1992, nhưng có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng sau:

Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 vẫn xác định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam" nhưng không có nghĩa là  "cơ quan có toàn quyền", "là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp" như Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 quy định. Vì thế Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định: "Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước" (Điều 69).Những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thuộc quyền hành pháp chuyển về cho Chính phủ, Quốc hội chỉ quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,  không còn quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm để Chính phủ chủ động, năng động hơn trong điều hành, quản lý đất nước].

Thứ hai, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội liên quan đến thành lập hai cơ quan mới là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước; đặc biệt là thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn, miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán TANDTC theo đề nghị của Chánh án TANDTC để làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với TANDTC, nâng cao vị thế của đội ngũ Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp (Điều 70).

Thứ ba, liên quan đến cơ quan thường trực của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 quy định bổ sung một số thẩm quyền quan trọng cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, như: “phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước CHXHCN Việt Nam" (Điều 74); đặc biệt là thẩm quyền "quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” (khoản 8 Điều 74) chứ không giao cho Chính phủ thực hiện quyền này như Hiến pháp năm 1992 quy định.

Thứ tư, khác Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định cho Quốc hội có quyền quyết định kéo dài (hoặc rút ngắn) nhiệm kỳ của Quốc hội mà không giới hạn thời gian kéo dài, khoản 3 Điều 71 Hiến pháp năm 2013 xác định rõ: “Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh”.

Ngoài ra, để những người được Quốc hội bầu giữ các chức vụ chủ chốt của bộ máy nhà nước có ý thức sâu sắc về danh dự và trọng trách của mình trước Quốc hội, trước Tổ quốc và Nhân dân, Hiến pháp năm 2013 có quy định mới là: "Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp” (khoản 7 Điều 70). Quốc hội, nhân dân hy vọng, đặt niềm tin và giám sát việc thực hiện lời tuyên thệ này của những người giữ trọng trách của các cơ quan then chốt của Nhà nước.

2.5 Chương VI “Chủ tịch nước”: gồm 8 điều, từ Điều 86 đến Điều 93. Hiến pháp 2013 vẫn quy định: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại (Điều 86). Tiêu chuẩn, điều kiện và thẩm quyền của Chủ tịch nước về cơ bản vẫn giữ như Hiến pháp 1992, nhưng có hai nội dung được bổ sung mới là:

 Thứ nhất, Điều 88 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang, quy định quyền của Chủ tịch nước“quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam”.

Thứ hai, Điều 90 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”.

2.6 Chương VII “Chính phủ”: gồm 8 điều, từ Điều 94 đến Điều 101. Chương này có một số điểm mới so với Hiến pháp 1992 là:

Thứ nhất, lần đầu trong lịch sử lập hiến của nước ta, Hiến pháp năm 2013 chính thức khẳng định: Chính phủ "là cơ quan thực hiện quyền hành pháp", mặc dù Điều 94 vẫn còn quy định: "Chính phủ "là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam", "là cơ quan chấp hành của Quốc hội". Điều này thể hiện mong muốn thực hiện nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước mà Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã quy định, nhưng đồng thời vẫn giữ nguyên tắc tập quyền XHCN với đặc điểm về vị trí tối cao và toàn quyền của Quốc hội trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác, trong đó có Chính phủ.

Thứ hai, quy định cụ thể về vai trò và trách nhiệm của các thành viên Chính phủ. Quy định về trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.

Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 không còn giao cho Chính phủ quyền quyết định về điều chỉnh địa giới hành chính (thực tế là cả chia tách, thành lập mới) các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh như như khoản 10 Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định.

2.7. Chương VIII “Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân”: gồm 8 điều, từ Điều 102 đến Điều 109. So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 có một số điểm mới chủ yếu sau:

Thứ nhất, khẳng định chính thức Tòa án nhân dân là cơ quan “thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102). Điều này thể hiện rõ nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực nhà nướcgiữa các cơ quan nhà nước. Nhân đây cũng xin nói thêm rằng, bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cũng đã quy định: các cơ quan tư pháp (thực hiện quyền tư pháp) chỉ bao gồm tòa án các cấp (Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và các tòa án sơ cấp), nhưng các bản Hiến pháp sau này (từ Hiến pháp năm 1959, 1980 đến Hiến pháp năm 1992, khi hệ thống Viển kiểm sát được thiết lập) đã không quy định rõ cơ quan nào thực hiện quyền tư pháp.

Thứ hai, khẳng định rõ hơn một số nguyên tắc tố tụng mang tính hiến định: nguyên tắc xét xử hai cấp gồm sơ thẩm, phúc thẩm; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; mở ra khả năng áp dụng nguyên tắc xét xử theo thủ tục rút gọn chứ không phải trong tất cả mọi trường hợp đều áp dụng nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số như Hiến pháp năm 1992 và pháp luật tố tụng hiện hành quy định (khoản 4, 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013). Trong các nguyên tắc nói trên, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là rất quan trọng, đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, từ đó tăng cường tính minh bạch, công khai, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án.

Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định; Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định (khoản 2 Điều 102 và khoản 2 Điều 107). Quy định này có ý nghĩa mở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án.

2.8 Chương IX “Chính quyền địa phương”: gồm 7 điều, từ Điều 110 đến Điều 116. Chương này có một số điểm mới như sau:

Thứ nhất, Chương IX Hiến pháp 1992 có tên là “HĐND và UBND” và chương này được quy định trước chương “Tòa án nhân dân và Việt kiểm sát nhân dân”. Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên Chương IX này thành “Chính quyền địa phương” và đặt sau chương “Tòa án nhân dân và Việt kiểm sát nhân dân”. Việc đổi tên như trên để: Một mặt, không đồng nhất chính quyền địa phương với hai cơ quan của chính quyền địa phương là HĐND và UBND, dù đây là hai cơ quan then chốt của mỗi cấp chính quyền địa phương; Mặt khác, tên chương "Chính quyền địa phương" mới phù hợp với những nội dung quy định quan trọng khác của chương này, như: phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ, quyền lực của cộng đồng dân cư địa phương (nhân dân địa phương), về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể của nhân dân địa phương, các mối quan hệ của chính quyền địa phương với các cơ quan nhà nước hữu quan và với nhân dân ở địa phương v.v.[13]

Thứ hai, các đơn vị hành chính của nước ta về cơ bản vẫn như Hiến pháp năm 1992 quy định, nhưng để "mở đường" cho khả năng tới đây Luật Tổ chức chính quyền địa phương có thể quy định thành lập các đơn vị hành chính mới, Hiến pháp năm 2013 đã dự liệu thêm: "đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập" hoặc "đơn vị hành chính tương đương" với quận, huyện, thị xã của thành phố trực thuộc trung ương. Đặc biệt, khác với tất cả các bản Hiến pháp của nước ta trước đây, khoản 2 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”. Việc xácđịnh có tính hiến định về thẩm quyền, tiêu chí, điều kiện, thủ tục thành lập mới, sáp nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính như trên sẽ bảo đảm tính ổn định các đơn vị hành chính - lãnh thổ, khắc phục thực tế dễ dãi trong việc "nhập - tách" các đơn vị hành chính, không tính đến tâm tư, tình cảm của cộng đồng dân cư ở địa phương đã từng gắn bó bao đời với các đơn vị hành chính khi bị sáp nhập, khi bị chia tách,  như thực tế ở nước ta những năm vừa qua.  

Thứ ba, Điều 111 Hiến pháp 2013 quy định khái quát theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước CHXHCN Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt do luật định”. Việc tổ chức HĐND và UBND cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương trên cơ sở tổng kết việc thực hiện chủ trương của Đảng thí điểm một số nội dung về tổ chức chính quyền đô thị và kết quả tổng kết thực hiện Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội về "Thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường", đáp ứng yêu cầu tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt và các nguyên tắc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương.

Thứ tư, Điều 112 Hiến pháp 2013 mang tính định hướng mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương: “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó".   

2.9 Chương X “Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước”: gồm 2 điều. Điều 117 quy định về "Hội đồng bầu cử quốc gia" có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Điều 118 quy định về " Kiểm toán Nhà nước", đây là là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Khác với Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan lần đầu tiên được Hiến pháp quy định, Kiểm toán nhà nước đã được thành lập theo Nghị định 70/CP của từ ngày 11/7/1994 và đang hoạt động, nay chính thức hiến định thể hiện sự đề cao vai trò của cơ quan này trong bộ máy nhà nước. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới, nhằm kiểm soát chặt chẽ việc quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công, ngăn ngừa nạn tham nhũng.

2.10  Chương XI “Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp”: gồm 2 điều, Điều 119 và Điều 120. Điều 119 Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định “Hiến pháp là luật cơ bản của nước CHXHCN Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp” như Điều 146 Hiến pháp năm 1992 nhưng bổ sung quy định mới: "Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý” và xác định rõ “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”.

Điều 120 Hiến pháp 2013 quy định cụ thể hơn về quy trình "làm Hiến pháp", sửa đổi Hiến pháp so với Điều 147 Hiến pháp năm 1992 như sau:

 “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. Thời hạn công bố, thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp do Quốc hội quyết định”.

Trên đây là những điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam - "Hiến pháp dân chủ, pháp quyền và phát triển".

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013

Hiến pháp được thông qua tại kỳ họp thứ sáu - Quốc hội khóa XIII gồm 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) có hiệu lực từ ngày 1-1-2014. Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Sửa đổi trong Hiến pháp đều hướng tới nhân dân, đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân, đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước để phục vụ nhân dân tốt hơn, bước đầu xây dựng cơ chế nhằm giảm tham ô, nhũng nhiễu người dân, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện một cách thực chất hơn trong thực tế.

Ngay phần lời nói đầu của Hiến pháp đã được hoàn thiện, ngắn gọn hơn nhưng vẫn phản ánh được lịch sử hào hùng của dân tộc và những mốc lịch sử quan trọng, những thành quả cách mạng đã đạt được. Lời nói đầu của Hiến pháp đã thể hiện ý chí, quyết tâm của nhân dân ta, thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Sau chương quy định về chế độ chính trị là chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đây cũng là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con người trong Hiến pháp. Trong Hiến pháp 1992, vấn đề này được quy định tại chương 5 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Với việc ghi nhận trong Hiến pháp về quyền con người đã đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta tham gia ký kết. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân; thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Hai điểm mới đó là ghi nhận về quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng và mọi người có quyền sống.

Đáng chú ý, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định vai trò của Nhà nước và kinh tế Nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thừa nhận các hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Hiến pháp làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và làm rõ hơn vai trò của Chủ tịch nước trong thống lĩnh lực lượng vũ trang; giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân. Quy định làm cơ sở để lực lượng vũ trang tham gia vào việc bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới, từng bước nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.

Việc tổ chức chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện nay đều giống nhau ở các loại đơn vị hành chính đã tạo ra sự rập khuôn, cứng nhắc, ít phân biệt được sự khác nhau trong quản lý hành chính Nhà nước ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo và cũng không bảo đảm được tính tập trung cao từ trung ương xuống địa phương.

Hiến pháp sửa đổi đã tạo cơ sở cho việc quy định mở về chính quyền địa phương, cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Nếu coi Hiến pháp 1992 hướng tới đổi mới chính quyền ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) thì Hiến pháp 2013 hướng tới đổi mới chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân) và các cơ quan tư pháp ở địa phương (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) tuy chưa thật rõ nét nhưng là những định hướng cơ bản cho việc đổi mới chính quyền địa phương sau này.

Cũng tại Hiến pháp mới, Kiểm toán Nhà nước đã và đang hoạt động, nhưng lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp, thể hiện vị trí, vai trò của cơ quan này, từng bước tạo sự kiểm soát độc lập việc quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công. Việc nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước phù hợp với xu thế chung của thế giới cũng như mong muốn góp phần giảm tham nhũng, lãng phí trong bộ máy Nhà nước.

Một cơ quan mới, lần đầu tiên thành lập là Hội đồng bầu cử quốc gia. Trước đây, mỗi khi tiến hành bầu cử đều thành lập Hội đồng bầu cử có tính lâm thời, hoạt động trong thời gian ngắn (khoảng sáu tháng), khi bầu cử xong thì Hội đồng bầu cử hoàn thành nhiệm vụ. Việc có Hội đồng bầu cử quốc gia hoạt động thường xuyên, thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử. 

Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Những điểm mới trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Kỳ họp thứ 6 (Quốc hội khóa XIII) xem xét thông qua đã được chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung cả về bố cục, kỹ thuật lập hiến và nội dung trong tất cả các chương, điều. Theo đó, bản Hiến pháp mới là sự tiếp tục kế thừa những nguyên tắc, nội dung cơ bản, tư tưởng cốt lõi của Hiến pháp năm 1992 và có những bổ sung quan trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.

1. Bối cảnh nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra (năm 1986) và để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991. Đây là bản Hiến pháp đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình hình mới, cần phải xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước. Vì vậy, Đảng ta đề ra chủ trương: “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới”1.

Thực hiện chủ trương tại Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa XI), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã báo cáo Quốc hội khóa XIII việc triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Theo đó, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và giao nhiệm vụ cho Ủy ban nghiên cứu, xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, Nhà nước và với tinh thần trách nhiệm cao của mỗi công dân Việt Nam, việc tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai nghiêm túc; qua đó, đề xuất những định hướng cơ bản trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được xây dựng. Trên cơ sở những định hướng cơ bản và trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 để thảo luận, cho ý kiến lần đầu, bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố lấy ý kiến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân từ ngày 02-01-2013 đến 30-3-2013 và tiếp tục cho đến 30-9-2013. Trải qua 3 kỳ họp (lần thứ 4, 5, 6 - Quốc hội khóa XIII), trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội dành một lượng thời gian lớn để thảo luận. Với tinh thần dân chủ, khoa học, sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức, các cấp, các ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân, quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã diễn ra nghiêm túc, đúng tiến độ và được Quốc hội khóa XIII thông qua.

Bản Hiến pháp mới ra đời đã đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đặt ra qua tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về mục đích, yêu cầu, những quan điểm cơ bản và định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, như: kế thừa những nội dung của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới. Hiến pháp mới là sự kết tinh trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, của các chuyên gia, đại biểu Quốc hội. Quá trình sửa đổi Hiến pháp đã có hơn 27.000 hội nghị, hội thảo chuyên sâu được tổ chức và hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý. Từ đó, những gì không được tiếp thu đều được giải thích rõ ràng để người dân hiểu rõ về ý tưởng cũng như cách thể hiện trong nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Đây là lần sửa đổi mang ý nghĩa lớn, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp, cả về hình thức và nội dung.

2. Những điểm mới của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013)

Về hình thức, Hiến pháp mới có 11 chương, 120 điều; so với Hiến pháp năm 1992, giảm 1 chương, 27 điều; giữ nguyên 7 điều; sửa đổi, bổ sung 101 điều và bổ sung mới 12 điều. Để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp và nâng cao chất lượng kỹ thuật lập hiến, Hiến pháp mới đã có một số thay đổi về mặt kết cấu. Chương I, xây dựng trên cơ sở viết gọn lại tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 thành “Chế độ chính trị” và đưa các quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh tại Chương XI của Hiến pháp năm 1992 vào Chương này; vì đây là những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia. Chương II, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Trên cơ sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 thành Chương III: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”, nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Chương VIII, được đổi vị trí từ Chương X: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân của Hiến pháp năm 1992 thành: “Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân” để thể hiện sự gắn kết giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992 được đổi tên thành Chương: “Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Nội hàm của chương này không chỉ quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở địa phương. Chương X, là chương mới, quy định về một số thiết chế hiến định độc lập gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Về nội dung, Hiến pháp sửa đổi đã có những điểm mới:

Một là, trong Lời nói đầu, trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng và súc tích hơn về truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến của nước ta; nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới; mục tiêu xây dựng đất nước và thể hiện mạnh mẽ hơn ý nguyện của nhân dân ta trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Theo đó, “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hai là, chủ thuyết “chủ quyền nhân dân” được thể hiện rõ và nhất quán trong Hiến pháp mới. Chủ quyền nhân dân là một trong những nguyên tắc đặc biệt quan trọng của Hiến pháp - bản “khế ước xã hội” của nhân dân - vì thế, trước hết, nó phải thể hiện rõ điều này. Toàn văn Hiến pháp mới cho thấy rõ tư tưởng về chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ngay ở Chương I, có 06 điều (từ Điều 1 đến Điều 6) khẳng định về chủ quyền nhân dân; chỉ rõ phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Chương II, bao gồm các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, là một bước cụ thể hóa về chủ thuyết chủ quyền nhân dân khi bổ sung thêm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, như: quyền được có quốc tịch, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được thụ hưởng giá trị văn hoá, được bảo vệ trong tiêu dùng,... Đồng thời, Hiến pháp mới khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14). Bên cạnh đó, Hiến pháp mới cũng nêu rõ cách thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các quyền chính trị cơ bản, như: nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội do họ bầu ra, đồng thời có quyền biểu quyết về những vấn đề trưng cầu ý dân, v.v.

Ba là, Hiến pháp mới quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước.Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền,  Hiến pháp mới xác định rõ hơn chức năng của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Đối với các cơ quan ở Trung ương, Hiến pháp mới khẳng định: Quốc hội là cơ quan lập pháp; Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước trong hoạt động lập pháp, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, đối nội, đối ngoại. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên; quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp. Đối với việc phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương, để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và ở mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy để tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Bốn là, nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường được thể hiện theo hướng ngắn gọn, rõ ràng và mang tính nguyên tắc, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp. Hiến pháp mới nêu rõ nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước ta là: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách cụ thể chứ không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hoá; trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường, thể thức trưng dụng theo luật định.

Năm là, bổ sung các thiết chế hiến định độc lập. Để đảm bảo thực thi chủ quyền nhân dân, thực hiện tốt cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp mới đã bổ sung 2 điều (tại Chương X), quy định về thiết chế hiến định độc lập, gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Về thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về việc “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử”, Hiến pháp mới quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm mục đích hoàn thiện chế độ bầu cử cũng như thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp là việc bầu cử, ứng cử và hình thức dân chủ đại diện thông qua đại biểu dân cử. Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia đồng thời góp phần bảo đảm tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Về thiết chế Kiểm toán nhà nước, Hiến pháp mới quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức năng của Kiểm toán nhà nước để tăng cường vị thế, trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Theo đó, đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia. Hiến pháp chỉ quy định về việc Quốc hội bầu Tổng Kiểm toán nhà nước, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước sẽ do luật điều chỉnh.

Có thể nói, với những điểm mới được xác định, bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được Quốc hội thông qua đã thể hiện quan điểm đổi mới cũng như quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; bảo đảm sự đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế,...  Vì vậy, đây là một bản Hiến pháp mới - bản Hiến pháp thứ 5 của nước ta với tên gọi: Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2014.

Để Hiến pháp mới đi vào cuộc sống, cần khẩn trương cụ thể hóa các nguyên tắc của Hiến pháp thành các văn bản luật. Đó là công việc hệ trọng cần phải được triển khai sớm, với trách nhiệm cao của các cơ quan nhà nước và sự tham gia tích cực của nhân dân cũng như cả hệ thống chính trị ở nước ta.

Triển khai Hiến pháp 2013: Những điểm mới về Chính phủ

- Lần đầu tiên Hiến pháp chính thức khẳng định tính chất, vị trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Đồng thời, chế định Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được đề cao, trách nhiệm cá nhân của các Bộ trưởng được tăng cường.

Trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 lần này, cùng với Chương về Chế độ chính trị, kinh tế-xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, Chương về Chính phủ có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, tương đối toàn diện, trong đó có một số sửa đổi, bổ sung cơ bản.

Về tính chất, vị trí của Chính phủ, nội dung, phạm vi và cơ chế thực hiện quyền hành pháp và hành chính của Chính phủ đều có những sửa đổi, bổ sung theo tinh thần đổi mới nhằm xây dựng Chính phủ mạnh, hiện đại, dân chủ, pháp quyền, thống nhất quản lý vĩ mô các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.

Trước hết, về vị trí, phạm vi và nội dung thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp năm 2013 đã điều chỉnh, phân công lại ở mức độ nhất định, làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng thiết chế: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp

Cụ thể, đối với Chính phủ, lần đầu tiên Hiến pháp chính thức khẳng định tính chất, vị trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; nhấn mạnh và đề cao hơn tính chất, vị trí Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đồng thời, khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…” (khoản 2 Điều 96).

Quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật (khoản 1); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân (khoản 3 Điều 96)…

Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban hành văn bản pháp quy của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập để thực hiện chức năng hành pháp tại Điều 100: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”.

Với những sửa đổi, bổ sung trên đây, quyền hành pháp của Chính phủ đã có bước đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với bản chất, chức năng của quyền hành pháp hiện đại.

Về mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước: Hiến pháp đã bỏ quy định về thẩm quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhằm tạo điều kiện cho Chính phủ chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh. Đồng thời, Hiến pháp cũng phân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội và Chính phủ quyết định trong một số lĩnh vực (như Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển KTXH của đất nước, quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia… còn Chính phủ có thẩm quyền ban hành các chính sách cụ thể, biện pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực); phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế…

Về cơ cấu, thành phần Chính phủ: Hiến pháp sửa đổi quy định rõ “Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ” (bỏ cụm từ “các thành viên khác” của Hiến pháp 1992); bổ sung quy định “cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quy định” để trên cơ sở đó quy định trong luật về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ.

Đề cao chế định Thủ tướng Chính phủ

Trong bản Hiến pháp mới, chế định Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được đề cao. Tập trung thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ trong việc lãnh đạo, điều hành Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương:

Thủ tướng Chính phủ được Hiến pháp khẳng định rõ vị trí, vai trò là người đứng đầu Chính phủ (mới bổ sung). Đồng thời, quy định rõ hơn trách nhiệm giải trình của Thủ tướng: Chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Quy định rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng đối với Chính phủ, nhất là đối với hệ thống hành chính Nhà nước: Thủ tướng “Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật”; “Lãnh đạo và chịu trách nhiệm và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia” (khoản 1, khoản 2 Điều 98). 

Với các sửa đổi, bổ sung này, vị thế và vai trò của Thủ tướng đã nâng cao hơn. Thủ tướng Chính phủ thực sự trở thành nhân tố định hướng các mục tiêu chung và thúc đẩy, định hướng xây dựng chính sách và toàn bộ hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương tới địa phương trong việc thực hiện các chức năng, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Tăng cường trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng

Hiến pháp mới có một số sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thể hiện rõ hơn vị trí, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách vừa là thành viên Chính phủ, đồng thời là một thiết chế có trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước.

Cụ thể, về vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới quy định “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công” (khoản 1 Điều 99).

Về chế độ chịu trách nhiệm, Hiến pháp mới quy định rõ ràng và đầy đủ hơn: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ “chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách” (bổ sung chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ); và “cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ” (mới bổ sung).

Về nhiệm vụ, quyền hạn, Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ: “tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); “ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật” (Điều 100).

Một điểm mới rất quan trọng là Hiến pháp đã bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không chỉ chịu trách nhiệm giải trình trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, mà còn phải chịu trách nhiệm giải trình trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý (khoản 2 Điều 99).

Nâng cao tính dân chủ pháp quyền

Nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng và lớn nhất về Chính phủ là về cơ chế thực hiện quyền hành pháp phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền. 

Hiến pháp mới đã có nhiều quy định đổi mới về cơ chế thực thi quyền lực, phù hợp với tính chất, vai trò của từng thiết chế Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, theo hướng nâng cao hơn tính dân chủ pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ, bảo đảm minh bạch, linh hoạt, nhanh nhạy, trách nhiệm giải trình trong thực hiện quyền lực được trao; đồng thời, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa 3 thiết chế trong thực hiện quyền hành pháp và hành chính được giao. Thể hiện cụ thể như sau:

Đối với Chính phủ, Hiến pháp khẳng định mạnh mẽ nguyên tắc Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số; đồng thời, xác lập mối quan hệ trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;

Với thiết chế Thủ tướng: Hiến pháp mới khẳng định mạnh mẽ vị trí, vai trò của Thủ tướng với tư cách là  người đứng đầu Chính phủ, đồng thời vừa là  một thiết chế độc lập tương đối với Chính phủ (đề cao vai trò cá nhân Thủ tướng).

Theo đó, quy định toàn diện về chế độ trách nhiệm của Thủ tướng: Chịu trách nhiệm trước Quốc hội, đồng thời nhấn mạnh chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, trước nhân dân về hoạt động của Chính phủ, về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia. 

Về Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới đã bổ sung một số quy định mới: Khẳng định rõ vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là người đứng đầu và lãnh đạo công tác của Bộ, cơ quan ngang bộ; có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực được phân công; chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ; cùng chia sẻ trách tập thể với các thành viên Chính phủ về hoạt động của Chính phủ.


Каталог: vanban -> vb chuy
vb chuy -> CỤc khảo thí VÀ kiểM ĐỊnh chất lưỢng giáo dụC
vb chuy -> KẾ hoạch tổ chức khen thưỞng thành tích học tập năm họC 2013 – 2014 VÀ chào mừng ngày quốc tế thiếu nhi 1/6 cho con cbgv-cnv trưỜng thpt nguyễn công trứ
vb chuy -> Tài liệu tham khảo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vb chuy -> KẾ hoạch tổ chức hoạt động kỷ niệm ngày phụ nữ Việt nam 20/10 Năm học 2013 2014
vb chuy -> MỘt số HƯỚng dẫn về thủ TỤc tài chính hỗ trợ khảo sát tạI ĐỊa phưƠNG
vb chuy -> Căn cứ vào Nghị định số 86/2015/NĐ-cp ngày 02/10/2015 của Chính phủ, tôi làm đơn này đề nghị được xem xét để được miễn, giảm học phí theo quy định và chế độ hiện hành
vb chuy -> ĐỀ CƯƠng ôn tập sinh học lớP 10 HỌc kì I năm họC 2015-2016 I. NỘi dung cần chú Ý
vb chuy -> Tổ văn – sử Nhóm văn
vb chuy -> I. HÖÔÙng daãn nội dung ôn tập chưƠng trình tieáng anh 7 NĂM

tải về 1.34 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương