Trả lời Câu 1



tải về 1.34 Mb.
trang4/14
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.34 Mb.
#13206
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14

HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP 1992

1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1992

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống hoà bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đã trải qua nhiều thử thách, gian nan. Trong hoàn cảnh đó lịch sử lập hiến Việt Nam cũng có những bước thăng trầm nhất định. Đánh giá thật khách quan, chính xác, đúng đắn hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và quốc tế đã ảnh hưởng đến lịch sử lập hiến Việt Nam là một việc làm cần thiết. Vì nếu không hiểu quá khứ thì không thể hiểu được hiện tại và không thể định hướng được tương lai.

Hiến pháp 1980 ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang chan hoà khí thế lạc quan của cuộc đại thắng mùa Xuân 1975; tưtưởng chủ quan, duy ý chí, nóng vội đã xuất hiện; không kịp thời khắc phục cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong thời chiến. Hiến pháp 1980 đã không tránh khỏi những nhược điểm nhất định.

Đại hội lần thứ V của Đảng đã nêu ra và vạch rõ phương hướng khắc phục những sai lầm và nhược điểm đó. Đường lối kinh tế coi công nghiệp hoá là trung tâm của thời kỳ quá độ (Điều 16) về cơ bản là đúng. Nhưng do tưtưởng nóng vội, xuất phát từ tưtưởng muốn đi nhanh, không tính đến khả năng thực tế, nên chủ trương "Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng"; bởi vậy, trong thực tế, chúng ta thiên về xây dựng những công trình công nghiệp nặng và với quy mô lớn. Không coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Không tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Nhiều quy định vượt quá điều kiện kinh tế xã hội cho phép như"Học không phải trả học phí" (Điều 60) "Khám bệnh không phải mất tiền" (Điều 61).

Do chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Liên Xô 1977 và quan niệm giáo điều về nền tảng kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tưliệu sản xuất nên Hiến pháp 1980 quy định về cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tưliệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động (Điều 18). Một số quy định của Hiến pháp đã cản trở sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước như"Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài" (Điều 21), "Những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tưsản mại bản đều bị quốc hữu hoá không bồi thường" (Điều 25).

Trong thực tế, quan niệm coi việc giải quyết xong vấn đề sở hữu thì coi nhưcăn bản hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa là một sai lầm, phải trả giá. Bởi vậy, Đại hội VI và các đại hội sau này đều coi cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ lâu dài suốt cả thời kỳ quá độ, phải trải qua những bước đi, những hình thức trung gian thích hợp. Một thực tế nữa là: Khi chủ trương làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế, không có nghĩa là phải nhanh chóng xoá bỏ tất cả thành phần kinh tế khác. Trong khi chúng ta tích cực xây dựng các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, làm cho chúng đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thì các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhưkinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, kinh tế tưbản tưnhân vẫn tồn tại có mức độ và có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một tồn tại khách quan. Về tổ chức bộ máy Nhà nước, sau một thời gian kiểm nghiệm bằng thực tế nhiều thiết chế Nhà nước tỏ ra kém hiệu quả, chế độ thẩm phán bầu không đảm bảo được tính ổn định và phẩm chất nghề nghiệp của thẩm phán. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước chưa được phân định rõ ràng. Vai trò của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng - người đứng đầu Chính phủ, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất chưa được nổi bật vì có rất ít thẩm quyền. Chế định Chủ tịch tập thể làm cho các quyết định của cơ quan này chậm chạp, không nhanh nhạy với những thay đổi của đời sống xã hội và khó khăn trong việc ngoại giao.

Tóm lại, sau một thời gian có hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ đổi mới ở đất nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những thiếu sót sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tưduy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.

Với đường lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định, khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Trong lĩnh vực kinh tế , Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách này nhằm khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, khơi dậy năng lực trí tuệ, sáng tạo trong các tầng lớp nhân dân lao động, khắc phục cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Thực chất của bước chuyển đổi kinh tế là cuộc cải cách cấu trúc lại nền kinh tế, bắt đầu từ sở hữu:

a) Mở đầu quá trình cấu trúc lại kinh tế là những chính sách quan trọng, đột phá về nông nghiệp. Tháng 4-1988, Bộ Chính trị (Khoá VI) ra Nghị quyết 10. Theo Nghị quyết này xã viên hợp tác xã chỉ còn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng. Sản phẩm còn lại được tự do lưu thông, được bán lúc nào, nơi nào có lợi nhất. (Trước đây Nhà nước thu mua theo giá quy định). Nhờ chính sách này mà thu nhập bình quân của nông dân tăng lên đáng kể. Tốc độ thu nhập bình quân của nông dân từ năm 1987 trở về trước là 1,18%, nhưng chỉ hai năm 1988-1989 tốc độ này đã tăng lên 4,5%. Chỉ sau một năm khi Nghị quyết 10 của Đảng được thực hiện sản lượng lương thực đã tăng từ 19,583 triệu tấn (năm 1988) lên 21,439 triệu tấn (năm 1989). Từ năm 1988 đến năm 1990, diện tích gieo trồng tăng 3,9%1 . Trong nông thôn, số hộ nghèo đói năm 1990 là 34,4%, đến năm 1992, đã giảm xuống 19,6%2 .

b) Bên cạnh đổi mới chính sách nông nghiệp, Đảng ta chủ trương đổi mới chính sách kinh tế đối với doanh nghiệp Nhà nước. Đó là chính sách chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, xác lập quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước: Từ năm 1987, các xí nghiệp quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh. Ngày 14-11-1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 217-HĐBT về đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Ngày 2-12-1989, Hội đồng Bộ trưởng lại ban hành quyết định về những quy định bổ sung Quyết định 217-HĐBT chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Những quyết định này đã chấm dứt tình trạng người lao động thờ ơ với tưliệu sản xuất, thờ ơ với nhu cầu thị trường và sự tiêu thụ sản phẩm.

c) Chính sách quan trọng thứ ba trong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Trước cải cách năm 1988, doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được chấp nhận. (Trừ các doanh nghiệp hợp doanh với Nhà nước). Từ năm 1988, các công ty tưnhân bắt đầu hình thành. Các công ty tưnhân có nhiều hình thức: Công ty do một tưnhân làm chủ gọi là doanh nghiệp tưnhân, một số tưnhân làm chủ gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn; hoặc bằng cổ phiếu gọi là công ty cổ phần; hoặc công ty theo hình thức hợp tác xã. Năm 1990 đã có 340 công ty tưnhân được thành lập; năm 1991 có 163 và năm 1992 có 1.868 công ty tưnhân được thành lập.

d) Chính sách quan trọng thứ tưtrong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước là chính sách kinh tế mở cửa với nước ngoài.

Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế khép kín. Vấn đề xuất khẩu không được Nhà nước quan tâm, không có đầu tưnước ngoài, không hoà nhập được với kinh tế thế giới. Với chính sách kinh tế mở cửa năm 1991, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 2,08 tỷ USD . Thực hiện chính sách thu hút đầu tưnước ngoài vào Việt Nam. Ngày 29-12-1987, Quốc hội đã thông qua "Luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam". Tiếp đó, ngày 30-6-1990, lại thông qua, "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam" nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc thu hút đầu tưcủa nước ngoài vào nước ta. Ví dụ, khu vực nội địa trả thuế lợi tức doanh nghiệp là 25% đến 45% trong khi đó doanh nghiệp nước ngoài chỉ trả 10% đến 25%. Hơn nữa khu vực nước ngoài lại được hưởng 1 năm đến 4 năm miễn thuế và sau đó 1 đến 4 năm giảm thuế 50%. Nhờ chính sách này mà sự đầu tưnước ngoài vào Việt Nam ngày một gia tăng.

Nhờ những chính sách cải cách kinh tế nói trên mà tốc độ phát triển kinh tế của nước ta từ năm 1986 đến năm 1990 là 4,9% và tốc độ lạm phát giảm từ 775% - năm 1986 xuống 17,5% - năm 19922 .

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế vẫn còn nhiều mặt yếu, kém và những khó khăn lớn phải khắc phục. Sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đã có nhưng chưa vững chắc. Kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có sự xác định về mặt pháp lý vị trí, vai trò và sự bình đẳng của chúng trước pháp luật. Trong quản lý kinh tế còn nhiều sơ hở, pháp luật còn thiếu sự đồng bộ, còn mâu thuẫn chồng chéo và thiếu sự ổn định tương đối. Nạn tham nhũng và buôn lậu vẫn tiếp tục hoành hành.

Trong lĩnh vực cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ VI cũng đã đề ra những định hướng nhất định. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã chỉ rõ: "Để thiết lập cơ chế quản lý mới cần thực hiện một cuộc cải cách lơn về tổ chức bô máy của các cơ quan Nhà nước" . Về vấn đề này đồng chí Đỗ Mười đã viết: "Cần phải đổi mới căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước ta cũng nhưcủa toàn bộ hệ thống chính trị xã hội. Đổi mới căn bản không có nghĩa là thay đổi bản chất của Nhà nước ta, mà chính là làm cho nó thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất dân chủ, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng xã hội mới. Đổi mới căn bản có nghĩa là không những phải xác định lại chức năng, mối quan hệ giữa các bộ phận trong bộ máy Nhà nước, mà còn phải đổi mới toàn bộ cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của chúng, đảm bảo cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý kinh tế - xã hội có hiệu quả; hoạt động trên cơ sở pháp luật và thực hiện được quản lý xã hội bằng pháp luật".

- Việc cải cách bộ máy Nhà nước được xác định bằng phương hướng cơ bản: quán triệt yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tìm tòi những thiết chế mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc "quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân".

Một Nhà nước thực sự dân chủ là Nhà nước thể hiện được quyền lực của nhân dân, bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền tự do dân chủ của nhân dân. ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực của mình chủ yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Vì vậy, phải nhận thức đúng vị trí, vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; cần phải thay đổi tổ chức và hoạt động của các cơ quan này bảo đảm cho chúng thực sự là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân. Để Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có đủ năng lực thực hiện vai trò, chức năng của mình, phải xây dựng cơ chế bầu cử thật sự dân chủ, bảo đảm chọn được những đại biểu xứng đáng bầu vào các cơ quan này. Việc giới thiệu người ra ứng cử phải làm từ dưới lên, phổ biến tuyên truyền rộng rãi tiêu chuẩn và yêu cầu đối với người được giới thiệu ra ứng cử, nhưng phải tôn trọng ý kiến của nhân dân, không gò ép .

- Yêu cầu dân chủ trong thiết chế, tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước còn đòi hỏi phải xây dựng đúng đắn mối quan hệ giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước lập pháp, hành pháp, tưpháp và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước trung ương với chính quyền địa phương, nhằm đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước, đồng thời bảo đảm cho các hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập trong việc thực hiện chức năng của mình, bảo đảm cho chính quyền địa phương, cơ sở chủ động, sáng tạo và toàn quyền quản lý trên lãnh thổ. Khác với các Nhà nước tưsản, nơi mà bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực, các quyền lập pháp, hành pháp và tưpháp được trao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau, độc lập, chế ngự và đối trọng lẫn nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực: "Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa mọi cơ quan bắt nguồn từ cơ quan quyền lực, nhận quyền lực từ nó và chịu sự kiểm tra, giám sát của nó. Hơn nữa, cần phải nhận thức rằng, các cơ quan hành pháp và tưpháp thực hiện chức năng của mình đều nhân danh quyền lực Nhà nước bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực hiện thống nhất trên các lĩnh vực này. Nhưvậy, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, có quyền lập pháp và kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tưpháp. Mặt khác, cũng cần nhận thức rằng, để Nhà nước hoạt động có hiệu quả phải có thiết chế tổ chức và cơ chế hoạt động sao cho vừa bảo đảm được sự tập trung thống nhất quyền lực, vừa có sự phân công, phân biệt rõ ràng về mặt chức năng giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước; đồng thời phải có cơ sở pháp lý và tổ chức bảo đảm cho mỗi hệ thống cơ quan độc lập và chủ động trong việc thực hiện chức năng của mình, không có sự lấn át giữa cơ quan này với cơ quan khác".

- Yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước đòi hỏi Nhà nước phải thể chế hoá một cách đầy đủ các quyền tự do dân chủ cũng nhưcác nghĩa vụ của công dân vào Hiến pháp và tạo điều kiện để mọi thành viên trong xã hội có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó trên thực tế.

- Cùng với việc đổi mới chế độ kinh tế, cải cách bộ máy Nhà nước, vấn đề hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa cũng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Cần phải phân định chức năng của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước. "Thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn của một Đảng vững mạnh, kiên cường là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng. Tuy nhiên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, sự phân định chức năng của Đảng và Nhà nước ngày càng trở nên cấp thiết. Sự lẫn lộn chức năng giữa Đảng và Nhà nước dẫn đến tình trạng Đảng vừa bao biện làm thay vừa buông trôi, khoán trắng cho Nhà nước làm cho Nhà nước khó phát huy vai trò của mình". Đảng là lực lượng lãnh đạo chính trị, nhưng vai trò đó trong giai đoạn giành được chính quyền thể hiện khác với giai đoạn chưa giành được chính quyền. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền Đảng định ra đường lối chiến lược, sách lược đấu tranh đồng thời Đảng là bộ chỉ huy, bộ tham mưu của cuộc đấu tranh đó. Đảng trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang. Khi đã giành được chính quyền Đảng không thể lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội với tưcách là trung tâm điều hành trực tiếp nhưtrước. Không thể hiểu một cách giản đơn và siêu hình rằng, "Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng trực tiếp quyết định mọi việc của Nhà nước có thể lấy nghị quyết, chỉ thị của Đảng thay cho pháp luật của Nhà nước, cơ quan Đảng là cấp trên của cơ quan Nhà nước" , v.v..

- Cùng với việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị; mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã hoạch định một đường lối đối ngoại rộng mở. Đó là thiết lập các quan hệ hoà bình, hợp tác, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi.

Với tinh thần của Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khoá VII, tại Kỳ họp thứ 3 ngày 22-12-1988 đã ra nghị quyết sửa đổi lời nói đầu, không chỉ rõ đích danh thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bành trướng Trung Quốc cho phù hợp với quan hệ đối ngoại tốt đẹp đang mở ra giữa ta với nước Cộng hoà Pháp, hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ngày 30-6-1989, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá VIII ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều: 57, 115, 116, 118, 122, 123, 125, để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm Thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Đồng thời trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Uỷ ban dự thảo Hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lý, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

Cuối năm 1991 đầu năm 1992, bản dự thảo Hiến pháp lần thứ ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương, dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình Quốc hội khoá VIII, tại Kỳ họp thứ 11 xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý, bổ sung nhất định, ngày 15-4-1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng nhưnhận xét của đồng chí Đỗ Mười Tổng Bí thưBan Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Hiến pháp 1992 là "sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước".

2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992



Hiến pháp 1992 gồm Lời nói đầu và 147 điều chia làm 12 chương: Chương I- Chế độ chính trị; Chương II- Chế độ kinh tế; Chương III- Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ; Chương IV- Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Chương V- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chương VI- Quốc hội; Chương VII- Chủ tịch nước; Chương VIII- Chính phủ; Chương IX- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; Chương X- Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, Chương XI- Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô ngày Quốc Khánh; Chương XII- Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.

Lời nói đầu của Hiến pháp 1992 về cơ bản cũng giống nhưlời nói đầu của các Hiến pháp trước, ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Trong lời nói đầu cũng xác định những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp sẽ quy định.

Chương I- Chế độ chính trị cũng bao gồm 15 điều (từ Điều 1 đến Điều 14) nhưHiến pháp 1980. Tại chương này Hiến pháp cũng xác định những nguyên tắc cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công dân và tầng lớp trí thức (Điều 2). Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam (Điều 4); Nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc (Điều 5); Nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6); Nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp là bỏ phiếu kín (Điều 7). Khác với Hiến pháp 1980 Hiến pháp 1992 không dùng thuật ngữ "Nhà nước chuyên chính vô sản" mà dùng thuật ngữ "Nhà nước của dân, do dân, vì dân". Việc thay đổi thuật ngữ này không làm thay đổi bản chất của Nhà nước mà chỉ để làm rõ hơn bản chất "của dân, do dân và vì dân" của Nhà nước ta, phù hợp hơn với chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội và phù hợp hơn với xu thế của quốc tế và thời đại. Bởi vì "Nhà nước của dân, do dân vì dân" đã trở thành một thuật ngữ phổ biến trong Hiến pháp của các Nhà nước có hình thức chính thể cộng hoà dân chủ trên thế giới.

Đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hiến pháp 1992 quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của nó là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp 1992, Mặt trận có nhiệm vụ phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, Đại biểu dân cử và cán bộ viên chức Nhà nước (Điều 9).

Khác với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 quy định đường lối đối ngoại mở rộng. Theo quy định của Hiến pháp mới, nước ta thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính sách đối ngoại rộng mở đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để nước ta có thể hoà nhập được vào trào lưu chung của văn minh thế giới và phù hợp với xu hướng Quốc tế hoá rất cao của lực lượng sản xuất thế giới, phù hợp với nền văn minh tin học, nền văn minh công nghiệp của loài người. Chính sách đối ngoại đúng đắn và phù hợp với thời đại của Hiến pháp 1992 đã làm tiền đề cho những thắng lợi to lớn của nước ta trong lĩnh vực hợp tác kinh tế với nước ngoài.

Chương II- Chế độ kinh tế, bao gồm 15 điều (từ Điều 15 đến Điều 29) có thể nói rằng đây là chương được thay đổi một cách cơ bản nhất, thể hiện rõ nhất quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.

Theo quy định tại Điều 15 đường lối phát triển kinh tế của nhà nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tưbản tưnhân và kinh tế tưbản Nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học - kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới (Điều 16).

Nhưvậy với Hiến pháp 1992, chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hoá - thị trường, với nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá thể, tưbản tưnhân và tưbản nhà nước.

Lần đầu tiên trong lịch sử lập Hiến Việt Nam, Hiến pháp quy định: "Kinh tế cá thể, kinh tế tưbản tưnhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh" (Điều 21); Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật (Điều 22). Nhưvậy, Hiến pháp đã xác định sự bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật.

Nếu Hiến pháp 1980 quy định việc quốc hữu hoá không bồi thường những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tưsản mại bản thì trái lại Hiến pháp 1992 quy định việc Nhà nước bảo hộ vốn và tài sản hợp pháp của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế (Điều 22). Hơn nữa, Nhà nước còn khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam và đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tưnước ngoài cũng nhưtài sản hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác không bị quốc hữu hoá (Điều 23, 25). Về vấn đề sở hữu đất đai, cũng nhưtrước đây Hiến pháp 1992 quy định đất đai thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên, Hiến pháp mới quy định thêm về quyền sử dụng đất lâu dài đối với người được giao và được chuyển quyền sử dụng đó theo định của Pháp luật (Điều 18).

Chương III- Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, bao gồm 14 điều (từ Điều 30 đến Điều 43).

Bên cạnh việc xác định đường lối bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam mang bản sắc dân tộc, hiện đại, nhân văn, kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tưtưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân, Hiến pháp còn xác định "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" (Điều 35). Có thể nói rằng Hiến pháp 1992 đánh dấu một cái mốc quan trọng trong chính sách giáo dục và đào tạo của Nhà nước ta, thể hiện đúng tưtưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người".

Chương IV- Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bao gồm 5 điều (từ Điều 44 đến Điều 48).

Về cơ bản chương này giống nhưHiến pháp 1980 là xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 47).

Chương V- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 34 điều (từ Điều 49 đến Điều 82). So với Hiến pháp 1980 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Khắc phục thiếu sót của các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quy định "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng" (Điều 50). ở nước ta, ngoài công dân Việt Nam và công dân nước ngoài đến làm việc, sinh sống ở Việt Nam, còn có người không có quốc tịch. Với quy định trên đây người không có quốc tịch cũng được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Với Hiến pháp 1992, lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập (Điều 57). Đây là một trong những chìa khoá quan trọng để mở cánh cửa tự do trong lĩnh vực hoạt động kinh tế của công dân, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh. Cùng với quyền tự do kinh doanh, công dân còn có quyền sở hữu "về tưliệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác" (Điều 58). Những quy định này hơn bao giờ hết tạo điều kiện thuận lợi để công dân Việt Nam xây dựng một cuộc sống cho bản thân mình giàu có, thịnh vượng. Trên cơ sở đó mà đồng thời làm giàu cho Nhà nước và xã hội. Ngoài các quy định nói trên còn có quy định về quyền "được thông tin" là một quyền mới được xác lập trong Hiến pháp 1992. Quyền này được hiểu là quyền được nhận tin và truyền tin theo quy định của pháp luật.

Ngoài việc thiết lập các quyền mới, Hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và không thể thực hiện được trong thực tiễn. Nếu Hiến pháp 1980 quy định học không phải trả học phí và khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền thì Hiến pháp 1992 sửa đổi lại "bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí" (Điều 59) và "công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí" (Điều 61).

Hiến pháp 1980 quy định "Công dân có quyền có nhà ở" (Điều 62); Quyền này trên thực tế cũng không thực hiện được nên Hiến pháp 1992 sửa lại "Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật (Điều 62). Hiến pháp 1992 còn khôi phục lại một số quyền đã quy định trong Hiến pháp 1946 nhưng về sau do hoàn cảnh chính trị - lịch sử mà chúng ta đã hạn chế. Đó là "Quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật" (Điều 68). Một số quyền trước đây chỉ quy định trong Bộ luật hoặc Luật nay đã đưa vào quy định cả trong Hiến pháp để đề cao hơn nữa tính hiệu lực của pháp luật, nhưĐiều 72, Hiến pháp 1992 quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật".

Chương VI- Quốc hội, bao gồm 18 điều (từ Điều 83 đến Điều 100). Cũng nhưHiến pháp 1980, chương này xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Quốc hội về cơ bản nội dung quyền hạn giống Hiến pháp 1980. Tuy nhiên, có một số bổ sung về quyền hạn của Quốc hội nhưquyết định chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, Quyết định trưng cầu ý dân (Điều 84). Nhìn chung nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội thể hiện trên bốn lĩnh vực:

- Lập hiến và lập pháp.

- Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

- Xây dựng củng cố và hoàn thiện bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp 1992 có một số thay đổi nhất định. Thể chế Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được bãi bỏ, khôi phục lại chế định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước nhưHiến pháp 1959. Theo Hiến pháp 1992 Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của các Hội đồng, các Uỷ ban của Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách (Điều 94, 95).

Đề cao hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội, Hiến pháp 1992 quy định rõ: "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước" (Điều 97). So với Hiến pháp 1980 nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội được quy định cụ thể hơn: "Phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ảnh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và cơ quan hữu quan, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị với cử tri, xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó" (Điều 97). Về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình, Hiến pháp 1980 chỉ quy định: "Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu (Điều 97). Còn Hiến pháp 1992 quy định một cách cụ thể hơn; "Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm cung cấp tài liệu cần thiết mà đại biểu yêu cầu và tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu".

Chương VII- Chủ tịch nước, bao gồm 8 điều (từ Điều 101 đến Điều 108). Với Hiến pháp 1992 chế định Chủ tịch nước, cá nhân được khôi phục lại thành một chế định riêng biệt nhưHiến pháp 1959.

So với chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 có nhiều điểm khác biệt. Trước hết Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ nên quyền hạn rất lớn. Hiến pháp 1959 quy định Chủ tịch nước chỉ đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ. Nhưng quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn: "Khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ" (Điều 66), và khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ Hội nghị chính trị để xem xét những vấn đề lớn của nước nhà (Điều 67). Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980 không phải là cá nhân mà là Chủ tịch tập thể. Thể chế Chủ tịch tập thể nhưđã nói ở phần trước, có nhiều nhược điểm nhưkhông nhanh nhạy, không linh hoạt và khó khăn trong việc đối ngoại. Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 quyền hạn không rộng nhưHiến pháp 1946 và 1959. Theo quy định của Hiến pháp 1992 Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, Chủ tịch nước chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Thẩm quyền của Chủ tịch nước có thể chia làm 2 loại. Loại thẩm quyền thứ nhất là thẩm quyền độc lập do Chủ tịch nước tự quyết định. Đó là các thẩm quyền sau đây:

- Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan, cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước.

- Bổ nhiễm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài, tiến hành đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; Quyết định phê chuẩn hoặc tham gia Điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định.

- Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam.

- Quyết định đặc xá.

- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ các chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.

- Đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, về việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà nước bị xâm lược trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Pháp lệnh hoặc Nghị quyết được thông qua. Nếu Pháp lệnh, Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định trong kỳ họp gần nhất.

- Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 103).

Loại thẩm quyền thứ hai là loại thẩm quyền mang tính thủ tục hành chính và nghi thức. Đó là các thẩm quyền:

- Công bố Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương (Điều 103).

Chương VIII- Chính phủ, bao gồm 19 điều (từ Điều 109 đến Điều 117).

Cũng nhưHội đồng Chính phủ theo Hiến pháp 1959, Chính phủ theo Hiến pháp 1992 được quy định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu so sánh cả bốn bản Hiến pháp của nước ta, chúng ta thấy quan niệm về tính chất của Chính phủ có những thay đổi nhất định. Hiến pháp 1946 xây dựng Chính phủ theo mô hình chính phủ tư sản nên không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Nghị viện. Hiến pháp 1980 xây dựng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng) theo mô hình của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Nhưng với quan điểm tập quyền "rắn" nghĩa là quyền lực Nhà nước thống nhất tập trung vào Quốc hội. Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tưpháp và giám sát. Các cơ quan Nhà nước khác do Quốc hội lập ra là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Vì vậy, Hiến pháp quy định Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính cao nhất của Quốc hội. Quy định này làm cho Chính phủ thiếu tính độc lập tương đối trong lĩnh vực hoạt động hành chính Nhà nước. Khắc phục nhược điểm này, Hiến pháp 1992 quay về với Hiến pháp 1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền "mềm" nghĩa là quyền lực Nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng rành rọt giữa các cơ quan Nhà nước lập pháp, hành pháp và tưpháp. Vì vậy, Hiến pháp 1992 quy định: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Với quy định này Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính Nhà nước.

Với Hiến pháp 1992 chúng ta có thể thấy rằng những hạt nhân hợp lý của thuyết phân chia quyền lực của John Locke và Charles Montesquieu đã được chúng ta áp dụng1 .

Cách thức thành lập Chính phủ theo Hiến pháp 1992 hoàn toàn khác với Hiến pháp 1980. Theo Hiến pháp 1980 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ đều do Quốc hội bầu ra, còn theo Hiến pháp 1992 chỉ có Thủ tướng Chính phủ là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ Quốc hội chỉ phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ1 . Nhưvậy, Hiến pháp 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ. Việc Hiến pháp trao cho Thủ tướng Chính phủ quyền được đề nghị bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn (trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn trong thời gian Quốc hội không họp) đồng thời còn có quyền đề nghị miễn nhiệm, cách chức các thành viên của Chính phủ làm nổi bật vai trò của Thủ tướng trong Chính phủ. Có thể nói rằng đây là phương pháp hữu hiệu để xây dựng một chính quyền hành pháp mạnh mẽ.

Việc tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính phủ còn thể hiện ở việc tăng thêm nhiều quyền hạn cho Thủ tướng Chính phủ mà trước đây các Hiến pháp 1959, 1980 không quy định. Đó là các thẩm quyền sau đây:

- Đề nghị thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, các cơ quan ngang Bộ.

- Phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những Quyết định, Chỉ thị, Thông tưcủa Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Pháp luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên.

- Đình chỉ việc thi hành những Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ (Điều 114).

Chương IX- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Chương này bao gồm 8 điều (từ Điều 118 đến Điều 125). Theo quy định của Hiến pháp 1992 nước ta vẫn chia làm 3 đơn vị hành chính: tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn1 (Điều 118). ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Tính chất của Hội đồng nhân dân nhưcũ là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra, nhưng Hiến pháp mới nhấn mạnh tính đại diện của Hội đồng nhân dân nên đã quy định rõ hơn: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên (Điều 119). Nhưvậy, có thể thấy rằng tính chất của Hội đồng là tính quyền lực Nhà nước và tính đại diện nhân dân. Hai đặc tính này của Hội đồng nhân dân kết hợp nhuần nhuyễn với nhau làm cho Hội đồng nhân dân thực sự trở thành một cơ quan Nhà nước quan trọng bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Về cơ cấu tổ chức, Hiến pháp 1992 duy trì các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1989, về thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân ở các Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh. Trong tổ chức Hội đồng nhân dân còn thành lập các Ban. Theo quy định của Hiến pháp 1992, quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được tăng cường. Một số quyền hạn trước đây thuộc tập thể Uỷ ban nhân dân, nay chuyển cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân: "Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới, đình chỉ thi hành Nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những Nghị quyết đó (Điều 124). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân do Quốc hội khoá IX (kỳ họp thứ năm) thông qua ngày 21-6-1994 trên tinh thần Hiến pháp 1992 đã tăng cường quyền lực cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Theo quy định tại Điều 52 của luật này Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền điều động, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp.

Đề cao hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng trong quản lý Nhà nước và xã hội. Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân địa phương được mời dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự Hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, phối hợp với mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương (Điều 125).

Chương X - Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 điều (từ Điều 126 đến Điều 140).

Theo quy định tại Điều 126 nhiệm vụ của toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Có thể nói về nhiệm vụ của Toà án và Viện kiểm sát nhân dân không có gì thay đổi.

Về tổ chức hệ thống cơ quan Toà án, Hiến pháp 1992 quy định "Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tình hình đặc biệt Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt. Quy định này về tổ chức hệ thống toà án đã được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức toà án nhân dân 1992, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28-12-1993, Pháp lệnh về tổ chức Toà án quân sự năm 1993, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 28-10-1995.

Theo quy định của các văn bản pháp luật trên đây ở nước ta có các toà án sau đây:

Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các toà án quân sự; các toà án khác do luật định. Các toà án quân sự ở nước ta theo Điều 2 Pháp lệnh tổ chức toà án quân sự bao gồm toà án quân sự Trung ương, các toà án quân sự quân khu và tương đương, các toà án quân sự khu vực.

Trước năm 1992, trong hệ thống toà án nhân dân ở nước ta chỉ có toà hình sự và toà dân sự. Các tranh chấp kinh tế do Trọng tài kinh tế giải quyết. Sau khi ban hành Hiến pháp 1992, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân ngày 28-12-1992 đã quy định: "Toà án nhân dân tối cao và các toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập thêm toà chuyên trách là toà án kinh tế để giải quyết tranh chấp kinh tế".

Theo quy định của Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23-6-1994 và có hiệu lực thi hành ngày 1-1-1995, thì các tranh chấp lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước tập thể và trong quá trình học nghề, nếu qua hoà giải hoặc Hội đồng trọng tài giải quyết mà không thành, các bên có quyền yêu cầu toà án nhân dân giải quyết (Điều 164).

Theo quy định tại khoản 2 Điều 166 Bộ luật lao động, một số tranh chấp lao động cá nhân có thể yêu cầu toà án nhân dân cấp huyện giải quyết, không nhất thiết phải qua hoà giải cơ sở. Đó là những tranh chấp sau đây:

- Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại cho người lao động.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 176 Bộ luật lao động thì việc kết luận cuộc đình công hợp pháp hay không thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân. Những quy định đó của Bộ luật lao động là tiền đề để thành lập thêm Toà lao động trong hệ thống toà án nhân dân.

Việc giải quyết các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính sai trái làm thiệt hại đến quyền lợi của dân cũng là một vấn đề bức xúc mà xã hội đặt ra đối với tổ chức toà án. Trước tình hình đó Quốc hội một lần nữa đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án nhân dân. Theo quy định của Luật sửa đổi thì cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao gồm: Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự Trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và các Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao.

Cũng theo quy định của luật sửa đổi cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Uỷ ban thẩm phán, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính.

Tóm lại: theo quy định của luật mới trong hệ thống tổ chức toà án cấp Trung ương và cấp tỉnh còn có thêm toà lao động và hành chính để chuyển xét xử các tranh chấp lao động và hành chính, ở cấp huyện có thẩm phán chuyên trách xét xử tranh chấp lao động và khiếu kiện hành chính.

Sự khác nhau cơ bản giữa tổ chức toà án nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1980 là: Hiến pháp 1980 thực hiện chế độ thẩm phán bầu, còn Hiến pháp 1992 thực hiện chế độ thẩm phán bổ nhiệm. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp, Luật tổ chức toà án nhân dân 1992 đã quy định chỉ có Chánh án Toà án nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn tất cả các thẩm phán của toà án nhân dân các cấp kể cả Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Chánh án, Phó Chánh án toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 38). Nhiệm kỳ bổ nhiệm của các Thẩm phán là 5 năm. Còn đối với các Hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa chế độ cử và chế độ bầu. Hội thẩm nhân dân toà án nhân dân tối cao do uỷ ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam và do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội miễn nhiệm và bãi nhiệm. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam và do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm. Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu và tương đương do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Hội thẩm quân dân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị sưđoàn hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm, bãi nhiệm (Điều 39).

Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao và Hội thẩm quân nhân là 5 năm, còn nhiệm kỳ Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp (Điều 39).

Về các nguyên tắc xét xử, Hiến pháp 1992 ghi nhận lại những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp 1980. Đó là các nguyên tắc: Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán; khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo; quyền của công dân thuộc các dân tộc khác nhau có thể dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước toà án (Điều 129, 130, 131, 132, 133).

Về Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp 1992 cũng xác định tính chất, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhưtrước đây, nhưng về tổ chức và trách nhiệm cũng có những thay đổi và bổ sung nhất định. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ban hành năm 1992 cụ thể hoá quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Uỷ ban kiểm sát. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng cử và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Viện trưởng cử và trình Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn. Một số vấn đề quan trọng trước đây do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định nay chuyển cho Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương .

Ngoài quy định nói trên, Hiến pháp 1992 cũng nhưluật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992 có quy định mới về việc "Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành Pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân" (Điều 140).

Các quy định trên đây về Viện kiểm sát nhân dân cho chúng ta thấy rằng: Hiến pháp 1992 một mặt vẫn đề cao chế độ làm việc theo nguyên tắc thủ trưởng và trực thuộc một chiều để đề cao tính độc lập của Viện kiểm sát, mặt khác phải kết hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể khi Viện kiểm sát quyết định những vấn đề quan trọng. Đồng thời Hiến pháp 1992 cũng xác định tính chất giám sát của Quốc hội cũng nhưHội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

Chương XI- Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày quốc khánh, bao gồm 5 điều (từ Điều 141 đến Điều 145) chương này về cơ bản giữ nguyên các quy định của các Hiến pháp trước đây, chỉ bổ sung thêm vào Hiến pháp năm 1992 việc quy định ngày Quốc khánh của nước ta là 2-9, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Chương XIII- Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp là chương cuối cùng của Hiến pháp 1992 chỉ có 2 điều (Điều 146, 147). Nội dung của chương này hoàn toàn giống quy định của Hiến pháp 1980.

Tóm lại, Hiến pháp 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Đây là bản Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của các Hiến pháp 1946; 1959; 1980; đồng thời là bản Hiến pháp vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tưtưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Hiến pháp 1992 đánh dấu sự phục hưng và phát triển của nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam vào những năm cuối của thế kỷ XX. Nó là tấm gương phản chiếu những đổi mới trong tưtưởng lập Hiến và lập Pháp của con người Việt Nam, đó là bản Hiến pháp thể hiện sự độc lập và tự chủ trên tiến trình phát triển của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện bản sắc dân tộc, đồng thời thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc với tính quốc tế và hiện đại trên cơ sở phát triển những tinh hoa của nền văn hoá pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu những tinh hoa văn hoá pháp lý thế giới.

Nội dung và ý nghĩa của Hiến pháp 1946

Hiến pháp 1946 gồm lời nói đầu, 7 chương với 70 điều Trong Lời nói đầu, Hiến pháp ghi nhận thành quả của Cách mạng tháng Tám “giành lại chủ quyền cho đất nước tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa”. Lời nói đầu cũng nêu rõ: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo đảm lãnh thổ, giành độc lặp hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.

Chương I (từ Điều 1 đến Điều 3) quy định về chính thể, theo đó Việt Nam  là một nước dân chủ cộng hòa, thống nhất, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, quốc kỳ lả cờ đỏ sao vàng, quốc ca là bài Tiến quân ca, thủ đô đặt ở Hà Nội.

Chương II (từ Điều 4 đến Điều 21) quy định về quyền và nghĩa vụ công dân, ghi nhận quyền bình đẳng trên một phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hôi; bình đẳng giữa nam vả nữ; bình đẳng trước pháp luật; quyền được tham gia chính quyền và công việc kiến quốc tùy theo tài đức; quyền tự do ngôn luận, hội họp, cư trú, đi lại, tín ngưỡng; quyền bầu cử, bãi miễn, phúc quyết; quyền đảm bảo thân thể, nhà ở, thư tín...; nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tuân theo Hiến pháp và pháp luật.

Chương III (từ Điều 22 đến Điều 42) quy định về Nghị viện nhân dân (Quốc hội), theo đó, cơ quan lập pháp tối cao là Nghị viện nhân dân gồm các Nghị viện được nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Nghị viện nhân dân chỉ gồm một viên, là “cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Công hòa”: quyết định những vấn đề chung quan trọng nhất của đất nước, đặt ra luật pháp biểu quyết ngân sách, bầu và giám sát hoạt động của Chính phủ…Chương này cũng quy anh cơ cấu, hoạt đông của Nghị viện nhân dân; quyền và nghĩa vụ của các nghị viên.

Chương IV (từ Điều 43 đến Điều 56) quy định về Chính phủ, theo đó, “Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất” của quốc gia, gồm Chủ tịch nước, Thủ tướng, các bộ trưởng và thứ trưởng. Chính phủ được lập ra và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Chương này còn quy định chi tiết cơ cấu, thẩm quyền và phương thức hoạt động của chính phủ.

Chương V (từ Điều 57 đến Điều 62) quy định về hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Ủy ban hành chính là cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, thực hiện những quyết định của hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước cấp trên. Chương này còn quy định về cơ cấu đơn vị hành chính lãnh thổ Việt Nam.

Chương VI (từ Điều 63 đến Điều 69) quy định về cơ quan tư pháp, theo đó, các tòa án được chia thành 4 cấp, có trách nhiệm xét xử các vụ án hình sự và dân sự. Khi xét xử thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật. Xét xử các vụ án hình sự, phải có phụ thẩm nhân dân tham gia. Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm. Bị cáo được quyền tự bào chữa, mượn luật sư, dùng tiếng nói riêng và không bị ngược đãi.

Chương VII (Điều 70) quy định về việc sửa đổi Hiến pháp: Hiến pháp chỉ được sửa đổi khi có không dưới 2/3 tổng số Nghị viện yêu cầu, Nghị viện bầu ra Ban Dự thảo những điều thay đổi và toàn dân phúc quyết những điều thay đổi đã được Nghị viện tán thành.

Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, là bản Hiến pháp dân chủ và tiến bộ nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Nó ghi nhận thành quả vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và thống nhất lãnh thổ. Hiến pháp 1946 đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước và nhân dân ta trong giai đoạn trước mắt, chỉ rõ những đường lối thực hiện nhiệm vụ ấy. Đồng thời, nó đặt nền móng cho một bộ máy nhà nước kiểu mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp 1946 còn công nhận, đảm bảo quyền dân chủ thiêng liêng của công dân, phù hợp với tình hình, đặc điểm cách mạng Việt Nam và xu hướng tiến bộ, văn minh trên thế giới.

Giới thiệu sơ lược về Hiến pháp 2013

Tại kỳ họp thứ 6 ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII đã chính thức thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hiến pháp năm 2013 bao gồm 11 chương, 120 điều, giảm 01 chương và 27 điều và có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường theo hướng cơ bản và khái quát hơn so với Hiến pháp năm 1992.

Hiến pháp khẳng định Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Hiến pháp cũng thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, công đoàn, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức khác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhấn mạnh “bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”, là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân...

Hiến pháp này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.

Hiến pháp năm 2013 - Kế thừa những giá trị cơ bản của Hiến pháp năm 1992 trong điều kiện lịch sử mới

Sau nhiều năm nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), kết quả tổng kết thực tiễn sâu sắc và lý luận 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, những thành tựu của lịch sử lập hiến nước nhà, với sự đồng thuận của nhân dân, Hiến pháp mới đã được Quốc hội thông qua với đa số phiếu tuyệt đối. Đó là thành quả của quá trình đổi mới tư duy trong bối cảnh lịch sử mới, dựa trên cơ sở tiếp tục kế thừa những thành tựu của lịch sử lập hiến nước nhà ngay từ khâu xác định mục đích, yêu cầu, quan điểm sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đến việc sửa đổi, bổ sung các nội dung mới trong Hiến pháp mới. Chính vì vậy, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 (từ đây gọi là Hiến pháp mới) được coi là bản Hiến pháp thứ 5 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Sự cần thiết, mục đích, yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp năm 1992 tuy đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001, song cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước, đã trở nên bất cập cần phải sửa đổi toàn diện, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên. Thực hiện chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa XI, tại kỳ họp thứ nhất, ngày 6-8-2011, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản của đất nước, việc sửa đổi Hiến pháp được xác định phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:

Một là, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn những nội dung cơ bản có tính bản chất của chế độ ta đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Hai là, thể chế hóa kịp thời những quan điểm, chủ trương lớn được nêu trong Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng.

Ba là, hoàn thiện kỹ thuật lập hiến, bảo đảm để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản, có tính ổn định, lâu dài.

Quan điểm sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phải dựa trên các quan điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, phải dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; căn cứ vào định hướng, nội dung của Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng; kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới đã được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định.

Thứ hai, tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Thứ ba, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Thứ tư, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị, vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ năm, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ sáu, sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng nên phải tiến hành chặt chẽ, khoa học dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm đúng định hướng, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, xuyên tạc trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.

Những điểm kế thừa và phát triển mới của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)

Về cơ bản, Hiến pháp sửa đổi đã được chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung cả về nội dung, bố cục và kỹ thuật lập hiến trong tất cả các chương, điều của Hiến pháp nhưng những nguyên tắc, nội dung cơ bản, tư tưởng cốt lõi của Hiến pháp năm 1992 vẫn tiếp tục được kế thừa và phát triển trong bản Hiến pháp mới.

Về tư tưởng lập hiến: Trong lần sửa đổi này, tư tưởng lập hiến được xây dựng phù hợp với chủ nghĩa lập hiến hiện đại. Theo đó, từ quan niệm: thông qua Hiến pháp, Nhà nước trao cho người dân quyền được làm gì, không được làm gì chuyển sang quan niệm: thông qua Hiến pháp, nhân dân trao quyền lực cho Nhà nước để thực hiện quyền dân chủ đại diện và giữ lại một phần quyền lực nhà nước của mình để thực hiện quyền dân chủ trực tiếp. Theo chủ thuyết chủ quyền nhân dân đó, Hiến pháp mới có nhiều quy định mới.        



Về hình thức, Hiến pháp mới có 11 chương, 120 điều; giảm 1 chương, 27 điều, giữ nguyên 7 điều, sửa đổi, bổ sung 101 điều và bổ sung mới 12 điều so với Hiến pháp năm 1992. Để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp và nâng cao chất lượng kỹ thuật lập hiến, Hiến pháp mới đã có một số thay đổi về mặt kết cấu. Chương I, xây dựng trên cơ sở viết gọn lại tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 thành “Chế độ chính trị” và đưa các quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh tại Chương XI của Hiến pháp năm 1992 vào chương này; vì đây là những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia. Chương II, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Trên cơ sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 thành Chương III: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”, nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Chương VIII, được đổi vị trí từ Chương X: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân của Hiến pháp năm 1992 thành: “Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân” để thể hiện sự gắn kết giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992 được đổi tên thành “Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Nội hàm của chương này không chỉ quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở địa phương. Chương X, là chương mới, quy định về một số thiết chế hiến định độc lập gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Về nội dung: Với những đổi mới quan trọng, Hiến pháp sửa đổi được coi là bản Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới.

Một là, trong Lời nói đầu, trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng và súc tích hơn về truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến của nước ta; nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới; mục tiêu xây dựng đất nước và thể hiện mạnh mẽ hơn ý nguyện của nhân dân ta trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Theo đó, “nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hai là, chủ thuyết “chủ quyền nhân dân” được thể hiện rõ và nhất quán trong Hiến pháp mới trên cơ sở nền tảng của Hiến pháp năm 1992 và những thành tựu trong lịch sử lập hiến nước ta.

Có thể nói, chủ quyền nhân dân là một trong những nguyên tắc đặc biệt quan trọng của Hiến pháp - bản “khế ước xã hội” của nhân dân - vì thế, trước hết, nó phải thể hiện rõ điều này. Toàn văn Hiến pháp mới cho thấy rõ tư tưởng về chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ngay ở Chương I, có 6 điều khẳng định về chủ quyền nhân dân; chỉ rõ phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Chương II, bao gồm các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, là một bước cụ thể hóa về chủ thuyết chủ quyền nhân dân khi bổ sung thêm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, như: quyền được có quốc tịch, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được thụ hưởng giá trị văn hóa, được bảo vệ trong tiêu dùng... Đồng thời, Hiến pháp mới khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2, Điều 14). Bên cạnh đó, Hiến pháp mới cũng nêu rõ cách thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các quyền chính trị cơ bản, như: nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội do họ bầu ra, đồng thời có quyền biểu quyết về những vấn đề trưng cầu ý dân, v.v..

Ba là, Hiến pháp mới đã quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng và Nhà nước ta, Hiến pháp mới xác định rõ hơn chức năng của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.

Đối với các cơ quan ở trung ương, Hiến pháp mới đã xác lập rõ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp khi khẳng định: Quốc hội là cơ quan lập pháp; Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước trong hoạt động lập pháp, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, đối nội, đối ngoại. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên; quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp.

Đối với việc phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương: Để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương” (khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy để tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Bốn là, nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường được thể hiện theo hướng ngắn gọn, rõ ràng và mang tính nguyên tắc, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp. Hiến pháp mới nêu rõ nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước ta là: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách cụ thể chứ không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hóa; trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường, thể thức trưng dụng theo luật định.

Năm là, Hiến pháp mới bổ sung các thiết chế hiến định độc lập. Để đảm bảo thực thi chủ quyền nhân dân, thực hiện tốt cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp mới đã bổ sung 2 điều (tại Chương X), quy định về hai thiết chế hiến định độc lập, gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Về thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về việc “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử”, Hiến pháp mới quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm mục đích hoàn thiện chế độ bầu cử cũng như thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp là việc bầu cử, ứng cử và hình thức dân chủ đại diện thông qua đại biểu dân cử. Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia đồng thời góp phần bảo đảm tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Về thiết chế Kiểm toán nhà nước, Hiến pháp mới quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức năng của Kiểm toán nhà nước để tăng cường vị thế, trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Theo đó, đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia. Hiến pháp chỉ quy định về việc Quốc hội bầu Tổng Kiểm toán nhà nước, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước sẽ do luật điều chỉnh.

Có thể nói, Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua với việc bổ sung những điểm mới quan trọng, đã thể hiện quan điểm đổi mới cũng như quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm sự đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế... Vì vậy, đây là một bản Hiến pháp mới - bản Hiến pháp thứ 5 của nước ta với tên gọi: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2014.

Để bảo đảm hiệu lực thi hành của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28-11-2013 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp, trong đó đã xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kịp thời triển khai các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp. Đồng thời, Nghị quyết cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại cơ quan, tổ chức và địa phương mình, nâng cao nhận thức về Hiến pháp và ý thức chấp hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội1.

Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị đất nước. Với những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định, Hiến pháp mới tiếp tục là nền tảng pháp lý cơ bản giúp nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện trong tình hình mới, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn.




Каталог: vanban -> vb chuy
vb chuy -> CỤc khảo thí VÀ kiểM ĐỊnh chất lưỢng giáo dụC
vb chuy -> KẾ hoạch tổ chức khen thưỞng thành tích học tập năm họC 2013 – 2014 VÀ chào mừng ngày quốc tế thiếu nhi 1/6 cho con cbgv-cnv trưỜng thpt nguyễn công trứ
vb chuy -> Tài liệu tham khảo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vb chuy -> KẾ hoạch tổ chức hoạt động kỷ niệm ngày phụ nữ Việt nam 20/10 Năm học 2013 2014
vb chuy -> MỘt số HƯỚng dẫn về thủ TỤc tài chính hỗ trợ khảo sát tạI ĐỊa phưƠNG
vb chuy -> Căn cứ vào Nghị định số 86/2015/NĐ-cp ngày 02/10/2015 của Chính phủ, tôi làm đơn này đề nghị được xem xét để được miễn, giảm học phí theo quy định và chế độ hiện hành
vb chuy -> ĐỀ CƯƠng ôn tập sinh học lớP 10 HỌc kì I năm họC 2015-2016 I. NỘi dung cần chú Ý
vb chuy -> Tổ văn – sử Nhóm văn
vb chuy -> I. HÖÔÙng daãn nội dung ôn tập chưƠng trình tieáng anh 7 NĂM

tải về 1.34 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương