Tài liệu tuyên truyền lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào (1930-2007)


Nguồn: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007, Tài liệu tuyên truyền, Nxb. CTQG, H, 2012, tr.90 -147



tải về 0.7 Mb.
trang6/7
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.7 Mb.
#35407
1   2   3   4   5   6   7


Nguồn: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007, Tài liệu tuyên truyền, Nxb. CTQG, H, 2012, tr.90 -147.


[1]. Nay là ba tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình (BT).

[2]. Năm 1991, tách ra thành hai tỉnh: Hà Tây và Hòa Bình; từ ngày 1 tháng 8 năm 2008, tỉnh Hà Tây và bốn xã của Hòa Bình được sáp nhập vào Hà Nội (BT).

[3]. Xem Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tóm lược), Sđd, tr.227.

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2006, t.47, tr.360.

[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2006, t.47, tr.504.

[6]. Đây là cuộc hội đàm hằng năm giữa Bộ Chính trị hai nước, diễn ra trong hai ngày 9 và 10 tháng 5 năm 1987.

[7]. Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3 tháng 7 năm 1987 về việc quan hệ của Đảng ta với Đảng Lào và Đảng Campuchia, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

[8]. Chỉ thị số 24-BBT của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, ngày 20 tháng 5 năm 1987 về việc triển khai kết quả của cuộc Hội đàm giữa Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào với Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

[9]. Chỉ thị số 24-BBT của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, ngày 20 tháng 5 năm 1987 về việc triển khai kết quả của cuộc Hội đàm giữa Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào với Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Tài liệu đã dẫn.

[10]. Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tóm lược), Sđd, tr.241.

[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.147.

[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.119.

Đại hội lần thứ X (tháng 4 năm 2006) đã khẳng định: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.112) (BT).



[13]. Tháng 7 năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN; hai năm sau (tháng 7 năm 1997), đến lượt Lào gia nhập chính thức tổ chức này.

[14]. Sáu chương trình hợp tác trọng điểm giai đoạn 2006-2010 gồm: Chương trình 1: Hợp tác giáo dục - đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; Chương trình 2: Hợp tác phát triển bền vững vùng biên hai nước; Chương trình 3: Hợp tác thông tin, văn hóa, tư tưởng; Chương trình 4: Phát triển thương mại, đầu tư; Chương trình 5: Hợp tác kết nối mạng cơ sở hạ tầng, dịch vụ, du lịch giữa hai nước; và Chương trình 6: Duy trì hoạt động và nâng cao năng lực các chương trình, dự án phục vụ hợp tác giữa hai nước.

[15]. GMS có sự tham gia của năm quốc gia là Thái Lan, Mianma, Lào, Campuchia, Việt Nam cùng hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc).

[16]. Hội nghị Cấp cao ASEAN tại Cebu (Philíppin), tháng 1 năm 2007, đã quyết định đẩy nhanh việc xây dựng Cộng đồng ASEAN (AC) với ba trụ cột là: Cộng đồng Chính trị - An ninh (APSC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC) vào năm 2015, thay vì 2020 như dự kiến trước đây.

1. Biên bản thỏa thuận giữa hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tại Hà Nội, tháng 1 năm 1999, lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đơn vị bảo quản 1695.

[17]. Nay là ba tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế (BT).

Chương IV: QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO,
LÀO - VIỆT NAM - BẢN CHẤT, THÀNH QUẢ,
BÀI HỌC VÀ TRIỂN VỌNG

I. BẢN CHẤT, THÀNH QUẢ, Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ

1. Bản chất, đặc điểm

Mối quan hệ lâu đời giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào phát triển đột biến thành quan hệ đặc biệt vào năm 1930, khi sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam và Lào được tiến hành theo con đường cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vạch ra, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng mácxít - lêninnít chân chính.



Bản chất của mối quan hệ đặc biệt đó bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, tình đoàn kết thủy chung và niềm tin về lòng chân thành mà hai dân tộc Việt Nam - Lào dành cho nhau; sự giúp đỡ đến mức cao nhất nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng và tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển tương lai của hai dân tộc.

- Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam không giống bất cứ mối quan hệ nào trong lịch sử thế giới đương đại, được xây đắp, nuôi dưỡng bằng công sức, của cải, xương máu của nhiều thế hệ cách mạng người Việt Nam và Lào. Trải qua rất nhiều gian nan, thử thách khắc nghiệt, quan hệ đó vẫn vẹn nguyên, không hề bị rạn nứt và phá vỡ cho dù các thế lực thù địch dùng nhiều thủ đoạn chống phá, chia rẽ.

- Tính đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam được tạo dựng trên nền tảng quan điểm, nguyên tắc, phương pháp và cơ chế phù hợp với điều kiện cụ thể của hai dân tộc Việt Nam - Lào.

Bản chất của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, được nuôi dưỡng, phát triển bằng sức cảm hóa sâu sắc của quan điểm “Giúp bạn là mình tự giúp mình” do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Đây là câu nói cô đọng, giàu ý nghĩa chính trị, nhân văn, mở ra phương hướng xử lý hài hòa lợi ích của hai dân tộc; là vũ khí sắc bén chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ban ơn.

Dựa trên luận điểm về quyền dân tộc tự quyết, các cơ quan lãnh đạo cấp cao của Việt Nam và Lào đã nhất trí tiến hành liên minh, hợp tác theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, tự chủ của Bạn như Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Cán bộ Việt Nam sang công tác ở Lào phải hoàn toàn ở dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Trung ương Lào, nhất là của Thủ tướng Xuphanuvông. Tuyệt đối không được tự cao, tự đại, không được bao biện...”[1].

Về phía Lào, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản nhấn mạnh: “Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta phải do nhân dân ta tự làm lấy. Đảng ta là một Đảng lãnh đạo cách mạng thực sự, do đó phải giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ”[2].

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam còn đòi hỏi cả hai bên thực hiện tự phê bình và phê bình, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở : “Mong cán bộ Việt Nam làm việc ở Lào thành khẩn, thật thà tự phê bình và mong các đồng chí Lào cũng phê bình anh em Việt Nam thật thà không nể nả... Vì cách mạng, vì đoàn kết ba dân tộc mà phê bình”[3].

Xuất phát từ sự tôn trọng quyền độc lập, tự chủ và tình nghĩa anh em, tại cuộc hội đàm ngày 9 tháng 7 năm 1961, hai đoàn đại biểu cấp cao của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cạng mạng Lào đã bàn bạc và nhất trí với phương pháp quan hệ công tác của hai Đảng do đồng chí Lê Duẩn đề xuất: “Cách mạng Lào do đồng chí Lào lãnh đạo. Đường lối, chủ trương do Đảng Lào đề ra, Việt Nam góp ý kiến. Cũng có lúc Việt Nam thấy vấn đề trước thì Việt Nam sẽ đề xuất ý kiến trước nhưng quyền quyết định vẫn do Đảng Lào”[4].

Về quan hệ giữa hai nước, hai Chính phủ, đồng chí Lê Duẩn cho rằng: “Những vấn đề lớn trong quan hệ giữa hai Chính phủ thì hai Đảng cũng cần có sự trao đổi ý kiến trước với nhau”2. Nhiệm vụ giúp đỡ nhau giữa hai dân tộc đã được tiến hành theo phương pháp giúp Bạn nâng cao năng lực để tự giải quyết các nhiệm vụ cách mạng của dân tộc mình, không áp đặt, rập khuôn.

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam có sự nhanh nhạy, đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chiến lược và cả những tình huống bất ngờ, do hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào áp dụng cơ chế điều hành linh hoạt các hoạt động liên minh, hợp tác trong đấu tranh chống xâm lược và hòa bình xây dựng đất nước.

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào Việt Nam có những đặc điểm sau đây:

- Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống lên quan hệ đặc biệt.

Quan hệ truyền thống thân thiết của nhân dân hai nước Việt Nam - Lào được chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ hướng, soi đường đi tới độc lập, tự do, đã biến thành quan hệ đặc biệt với sức mạnh vĩ đại, đưa tới nhiều thắng lợi lịch sử của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới, đưa hai nước cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.



- Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước dày công vun đắp; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người vạch đường cho sự nghiệp giải phóng và phát triển của hai dân tộc Việt Nam - Lào, cũng là người trực tiếp chỉ đạo xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam và tự mình nêu tấm gương sáng về đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư trong xử lý mối quan hệ quốc gia, quốc tế Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân, dân hai nước do thấm nhuần và thực hiện lời dạy của Người mà vượt qua mọi gian nguy để giành nhiều thắng lợi, kết thúc vẻ vang các chặng đường cách mạng và đang vươn tới những thắng lợi mới.

- Xây dựng, bảo vệ và phát huy quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là sự nghiệp của nhân dân Việt Nam và Lào.

Mục tiêu phấn đấu của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam bao quát những nguyện vọng tha thiết nhất của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào là đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng chống kẻ thù chung, xây dựng quan hệ bình đẳng, tự chủ, hữu nghị, hợp tác giữa hai quốc gia.

Trong gần một thế kỷ qua, nhân dân hai nước đã chung sức, chung lòng vừa xây dựng lực lượng, vừa anh dũng, sáng tạo giữ vững mục tiêu cách mạng, đánh thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh mà không tính thiệt hơn, luôn dành cho nhau sự quý mến, trân trọng và biết ơn sâu nặng.

Truyền thống tốt đẹp đó tiếp tục được phát huy trên trận tuyến bảo vệ và xây dựng Tổ quốc trên chặng đường đổi mới của hai nước.



- Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mang tính xuyên suốt, toàn diện và bền vững.

Trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài của hai dân tộc, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là nhân tố xuyên suốt các chặng đường và bước trước chuẩn bị cho bước sau nối tiếp phát triển.

Mỗi thời kỳ lịch sử tương ứng với một nhiệm vụ chiến lược cách mạng của hai nước và gắn liền với sự vận động của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên các lĩnh vực tư tưởng - chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hoá. Tuy mỗi thời kỳ có những nhiệm vụ trọng tâm, song nhìn tổng thể, vẫn nhận rõ tính toàn diện, phong phú mang bản chất cách mạng, nhân văn trong tư tưởng và hoạt động thực tiễn.

Tất cả các nhân tố trên đều lắng đọng, kết tinh và được kiểm nghiệm qua nhiều bước đường gian khó, hiểm nghèo, đã biến quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thành giá trị văn hoá nhân văn trường tồn và phát triển cùng thời gian.



2. Thành quả cơ bản

Một là, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là quy luật giành thắng lợi và nguồn sức mạnh vô tận của cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào; là di sản văn hóa của hai dân tộc Việt Nam và Lào

Trước hết, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là quy luật giành thắng lợi của hai dân tộc Việt Nam - Lào.

Từ bước khởi đầu thiết lập quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các cấp lãnh đạo tối cao của hai nước đã thấu hiểu tính tất yếu khách quan gắn bó vận mệnh của hai dân tộc Việt Nam - Lào trên cùng trận tuyến đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Cả hai bên đều chung sức, chung lòng tận dụng được lợi thế tự nhiên hiếm có của dãy Trường Sơn hùng vĩ, kết hợp với biển cả, đất đai, tài nguyên thiên nhiên quý giá khác; khơi dậy tối đa tinh thần gan góc, ý chí đấu tranh quật cường, sáng tạo của hai cộng đồng dân tộc trong một khối thống nhất bền chặt, đấu tranh vì độc lập, tự do và thịnh vượng của đất nước dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam. Các nhân tố đó kết tụ thành quy luật giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam và Lào.

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thể hiện rõ tính quy luật trong thắng lợi của cách mạng Việt Nam và Lào, được phản ánh ở hiệu quả to lớn trên các chặng đường liên minh, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai dân tộc trong giáo dục - đào tạo đội ngũ cán bộ, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, tạo lập địa bàn chiến lược cho hai bên hoạt động, nương tựa, bảo vệ lẫn nhau. Đồng thời, mỗi bên đều sẵn sàng đáp ứng yêu cầu giúp Bạn, phối hợp với Bạn trên các lĩnh vực hoạt động. Tất cả đã diễn ra theo quy trình phát triển lực lượng từ yếu đến mạnh, từ nhỏ đến lớn, từ phá vỡ thế bị bao vây, cấm vận đến hội nhập khu vực và quốc tế.

Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam ghi lại nhiều kỳ tích của hai dân tộc, xuất hiện hầu như cùng thời điểm từ khởi nghĩa giành chính quyền đến phát hiện con đường đổi mới phù hợp với quy luật phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của hai nước Việt Nam - Lào. Các hiện tượng đó xác nhận sức mạnh tổng hợp đưa tới những thắng lợi lịch sử tất yếu của hai dân tộc.

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là nguồn lực vô tận quý giá nhất của hai dân tộc Việt Nam và Lào. Đó là thành quả lý luận cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được các thế hệ lãnh đạo kế tiếp của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của hai nước Việt Nam - Lào, trở thành ngọn cờ dẫn đường cho hai dân tộc kề vai sát cánh đi tới thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Nét ưu việt đặc sắc của lý luận đó là ở khả năng khắc phục sự biệt lập của các dân tộc phương Đông khi phải đối địch với họa xâm lược của nhiều nước tư bản phương Tây. Theo nhận định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự biệt lập đó chính là “nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông... Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ THIẾU SỰ TIN CẬY LẪN NHAU, SỰ PHỐI HỢP HÀNH ĐỘNG VÀ SỰ CỔ VŨ LẪN NHAU”[5].

- Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là động lực nhân lên gấp bội sức mạnh của hai dân tộc, do mỗi bên đều tự giác phát huy tinh thần tự lực, tự cường kết hợp với sự giúp đỡ vô tư của phía Bạn. Mặt khác, nó còn tạo ra ảnh hưởng qua lại tích cực, thuận chiều cho sự phát triển của cả hai nước trên các chặng đường lịch sử từ cách mạng giải phóng dân tộc đến sự nghiệp đổi mới.

Đó cũng là di sản văn hóa thiêng liêng của hai dân tộc Việt Nam và Lào, nơi hội tụ biết bao giá trị cao đẹp và sâu sắc mà trí tuệ và tình cảm của nhân loại hằng ngưỡng mộ, tôn vinh, rất phù hợp với cách diễn đạt của Chủ tịch Xuphanuvông: “Tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam thật là vĩ đại mà bất cứ bài ca, bản nhạc nào, bất cứ bài thơ nào hay nhất cũng không sao diễn tả trọn vẹn được. Tình hữu nghị đó cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, đẹp hơn trăng rằm, ngát hương thơm hơn bất cứ đóa hoa nào thơm nhất. Tình hữu nghị cao đẹp đó đã được vun trồng, xây đắp với tất cả tấm lòng thành thật của chúng ta. Do đó, không thể có hung thần nào, không thể có kẻ thù nào phá vỡ nổi”[6].



Hai là, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đưa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào đi tới nhiều kỳ tích lịch sử

- Hai dân tộc Việt Nam, Lào sát cánh bên nhau giành độc lập dân tộc.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy mâu thuẫn giữa những kẻ cướp nước với nhân dân Đông Dương lên đến cực điểm, khiến ai cũng chán ghét cuộc đời nô lệ và sẵn sàng tham gia công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong tình thế đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đưa ra nhiều quyết định độc lập, sáng tạo: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở vị trí hàng đầu và cho rằng sau lúc lật đổ chế độ thuộc địa, mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình; mặt khác, ba dân tộc cần đoàn kết chặt chẽ mới có thể chiến thắng kẻ thù xâm lược và xây dựng đất nước phồn vinh. Đối với các dân tộc Lào và Campuchia, dân tộc Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do.

Hướng tới các mục tiêu trên, công tác xây dựng đảng, đào tạo cán bộ và tổ chức các lực lượng chính trị, vũ trang được khẩn trương tiến hành. Trong đó, Trung ương Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đảng tại Lào, Campuchia và phân công Đảng bộ Trung Kỳ đảm nhiệm công tác xây dựng đảng tại Lào, Đảng bộ Nam Kỳ thực hiện nhiệm vụ đó ở Campuchia.

Nhiệm vụ thành lập mặt trận dân tộc thống nhất tại Việt Nam, Lào, Campuchia rất được coi trọng với chủ trương thu hút rộng rãi nhất các giai cấp và tầng lớp yêu nước bằng cách thi hành các chính sách ích nước, lợi dân. Đồng thời, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo các cấp bộ đảng tổ chức đoàn thể cứu quốc, lực lượng vũ trang, lập căn cứ địa ở Việt Nam và Lào làm chỗ dựa để tập hợp và phát triển lực lượng cách mạng.

Cũng vào lúc này, Trung ương Đảng xác định quy trình khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương để tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Trung tuần tháng 8 năm 1945, thời cơ giành độc lập cho Đông Dương xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định Tổng khởi nghĩa và tiến hành Hội nghị toàn Đảng tại Tân Trào, Tuyên Quang (ngày 14, 15 tháng 8 năm 1945). Vào thời điểm này, lãnh tụ Hồ Chí Minh gặp các đồng chí đại biểu Xứ uỷ Lào, Người dặn: thời cơ rất thuận lợi cho nhân dân Đông Dương, ở đâu có điều kiện, phải giành được chính quyền trước khi Đồng minh vào.

Nhân dân hai nước Việt Nam, Lào đã chớp thời cơ, tiến hành khởi nghĩa thành công vào tháng 8 năm 1945.

Đó là kỳ tích đầu tiên của hai nước Việt Nam, Lào, của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Thành công của Tổng khởi nghĩa tại Việt Nam và khởi nghĩa tại Lào bắt nguồn từ sự sáng tạo trong vận dụng lý luận và chỉ đạo thực tiễn của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương về cách mạng giải phóng dân tộc và vấn đề dân tộc ở Đông Dương, về huy động tối đa sức mạnh đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các lực lượng yêu nước nổi dậy giành chính quyền khi thời cơ khởi nghĩa xuất hiện.

- Hai dân tộc Việt Nam - Lào kề vai sát cánh, xây dựng thực lực, kiên cường chiến đấu, đưa cuộc chiến tranh cách mạng kéo dài 30 năm (1945-1975) đi tới thắng lợi hoàn toàn.

Trong khó khăn, gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sức mạnh cơ bản của thắng lợi đã được tạo lập.



Thứ nhất, bốn năm đầu cuộc kháng chiến (1945-1949), chiến trường Đông Dương bị kẻ thù bao vây, cô lập. Nhưng chúng vẫn không thể ngăn chặn quân và dân hai nước vạch rừng, băng sông, băng suối mở đường từ Việt Nam xuyên qua đất Lào tới Thái Lan, Miến Điện, rồi tỏa rộng ra nhiều nước Á, Âu, tuyên truyền cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Đông Dương; thu hút sự ủng hộ, chi viện của bạn bè quốc tế; đưa về Lào và Việt Nam nhiều cán bộ, chiến sĩ Việt kiều nhằm bổ sung lực lượng kháng chiến.

Thứ hai, xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt đầu tiên của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt đầu tiên của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam vốn đã được chuẩn bị từ trước tháng 8 năm 1945; đến kháng chiến chống thực dân Pháp đã hình thành một lớp các nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào.

Phía Việt Nam, đó là nhiều cán bộ cấp cao của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.

Phía Lào, những nhà cách mạng tiêu biểu như các đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Xuphanuvông và nhiều đồng chí lãnh đạo khác đều đứng trong đội ngũ này. Thời gian học tại Trường Bưởi (nay là Trường Chu Văn An) và Trường Đại học Luật Hà Nội (1935-1945) cũng là lúc đồng chí Cayxỏn Phômvihản tiếp xúc với những người bạn cùng chí hướng cách mạng và tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đến cuối năm 1944, đồng chí được kết nạp vào Đoàn Thanh niên cứu quốc.

Trên các chặng đường cách mạng tiếp theo, với trọng trách của người lãnh đạo cách mạng Lào và chung sức với các đồng chí lãnh đạo cách mạng Việt Nam vun đắp, phát triển quan hệ Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã đảm đương xuất sắc hai sứ mệnh đó.

Cuộc gặp gỡ thân tình giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xuphanuvông diễn ra gần trọn tháng 9 năm 1945, tại Hà Nội đã tác động tích cực tới sự nghiệp cách mạng của Hoàng thân, như ông cho biết:

“Tôi bắt đầu sự nghiệp đấu tranh vào năm 1945… Nhờ có dịp được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, tôi đã học được rất nhiều điều bổ ích… Sau đó tôi về nước để lãnh đạo đấu tranh giải phóng cho nhân dân Lào”[7]. Cũng từ lúc bấy giờ, Hoàng thân Xuphanuvông trở thành nhà cách mạng chân chính trong các lãnh tụ nổi bật nhất của nhân dân Lào và là người có nhiều cống hiến to lớn cho quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.

Tiếp tục bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cách mạng Lào là công việc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm thực hiện. Đồng chí Phumi Vôngvichít cho biết, sau khi bế mạc Đại hội quốc dân Lào tại chiến khu Việt Bắc, tháng 8 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành bốn ngày đêm liền để giảng giải chủ nghĩa Mác - Lênin cho chúng tôi nghe rất dễ hiểu, rõ ràng, giúp cho chúng tôi thấy rõ hơn con đường mình đi và tin tưởng vào thắng lợi một cách vững chắc hơn trước[8].



Thứ ba, gây dựng cơ sở chính trị và căn cứ địa, phát triển chiến tranh du kích tại Lào.

Đây là một nhiệm vụ cơ bản của cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc Lào và cũng là một nhiệm vụ trọng yếu mà phía Việt Nam tự nguyện góp phần thực hiện.

Tư tưởng chủ đạo của nhiệm vụ trên được nêu ra rất sớm tại “Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 11 năm 1945 là: cần tiến hành vận động nhân dân ở vùng nông thôn Lào tiến hành chiến tranh du kích. Điều đó có quan hệ khăng khít và cấp bách với sự phát triển thực lực của cách mạng Lào, đặc biệt là trên địa bàn nông thôn, nơi chưa xây dựng được lực lượng chính trị và vũ trang rộng khắp.

Từ cuối năm 1948, việc thành lập khu kháng chiến bắt đầu được tiến hành. Các khu kháng chiến Thượng Lào, Hạ Lào, Tây Bắc Lào,… lần lượt xuất hiện.

Phương pháp vận động quần chúng là cán bộ tìm cách đến với dân, tuyên truyền, vận động nhân dân các bộ tộc đoàn kết và thắt chặt quan hệ giữa hai dân tộc Lào - Việt Nam cùng ra sức chống thực dân Pháp xâm lược; xây dựng mặt trận và các đoàn thể, tổ chức du kích, thiết lập chính quyền…; hướng dẫn nhân dân sản xuất lương thực, thực phẩm và nhiều loại sản phẩm tiêu dùng, cải tạo đời sống văn hóa tiến bộ, mở lớp học chữ Lào.

Cùng năm 1949, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo thành lập Chính phủ Lào kháng chiến và Mặt trận dân tộc thống nhất Lào (Neo Lào Ítxalạ); cử một đơn vị cán bộ, chiến sĩ sang Thái Lan và Lào đón Hoàng thân Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo cách mạng Lào tới Việt Bắc để thực hiện chủ trương trên.

Giữa tháng 8 năm 1950, tại tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam), Đại hội quốc dân Lào quyết định những vấn đề quan trọng về cách mạng Lào, thành lập Chính phủ Lào kháng chiến và Neo Lào Ítxalạ. Sự kiện đó tạo ra bước phát triển mới về việc tăng cường cơ quan chỉ đạo kháng chiến và mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các phần tử yêu nước và phát huy mạnh mẽ hơn sức mạnh của cuộc chiến tranh cách mạng Lào, góp phần tăng cường quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.

Thứ tư, xây dựng tại mỗi nước Việt Nam, Campuchia, Lào một đảng mácxít - lêninnít và thành lập Mặt trận liên minh Việt - Campuchia - Lào.

Tại Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2 năm 1951, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị thành lập tại mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản.

Đồng chí Cayxỏn Phômvihản phát biểu: “Chúng tôi, người cộng sản Lào hiểu rõ và tán thành đề nghị đó không chút thắc mắc”[9].

Đại biểu Đảng bộ Campuchia phát biểu: “Chúng tôi rất hoan nghênh đề nghị sáng suốt của Báo cáo chính trị”2.

Đồng chí Hồ Chí Minh nói: “Sau khi nghe các đồng chí Miên, Lào phát biểu ý kiến, chắc Đại hội cũng như tôi, chúng ta rất cảm động. Nhưng cảm động đây không phải là buồn, trái lại là cảm động vui. Vì chúng ta như con một nhà, một nhà cộng sản, một nhà cách mạng. Bây giờ con cái đã khôn lớn rồi phải chia nhà, chia của ở riêng. Con trai có vợ, con gái có chồng (vỗ tay), sau này đẻ con, đẻ cháu đông đúc, từ gia đình nhỏ tiến lên gia đình lớn rất mạnh, từ gia đình lớn đến họ hàng, họ hàng càng to, càng mạnh, đông người nhiều việc, nhất định thành công”[10].

Theo Nghị quyết Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Cộng sản ở Việt Nam lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam[11]; Ban Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào có sự hỗ trợ của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tiến hành các công tác chuẩn bị để thành lập Đảng Nhân dân Lào.

Nối tiếp Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương, cũng tại Việt Bắc, diễn ra Hội nghị thành lập Mặt trận liên minh Việt - Miên - Lào. Nghị quyết Hội nghị biểu thị ý chí thống nhất của nhân dân ba nước đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, làm cho ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào hoàn toàn độc lập, nhân dân ba nước được tự do, sung sướng và tiến bộ.

Thứ năm, Việt Nam - Lào đồng tâm hiệp lực chiến đấu, lập nhiều chiến công.

Khi phải đối đầu với mưu đồ và hành động xâm lược của thực dân Pháp, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đưa ra một quyết định quan trọng: “Về quân sự, Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao là một chiến trường, phải đánh theo một chiến lược chung”[12].

Tháng 4 năm 1953, liên quân Lào - Việt mở chiến dịch Thượng Lào. Trong vòng một tháng, liên quân giải phóng một vùng rộng lớn với trung tâm là Sầm Nưa, tạo ra một địa bàn đứng chân vững chắc của cách mạng Lào.

Tiếp đó, trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, thắng lợi của các chiến dịch Trung Lào, Hạ Lào đã củng cố và mở rộng căn cứ ở vùng trọng yếu này, buộc đối phương phải đưa quân tới đây để đối phó với liên quân Lào - Việt.

Hạ tuần tháng 1 năm 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay đổi phương châm tác chiến tại chiến dịch Điện Biên Phủ từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, bộ đội Việt Nam phối hợp với quân giải phóng Lào và được nhân dân Lào chi viện vật chất, tiến công khu vực sông Nặm U, tiến sát kinh đô Luổng Phạbang, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đẩy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của đối phương vào thế hoàn toàn bị cô lập.

Ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân và dân Việt Nam mở màn cuộc quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ. Quân và dân Lào đã anh dũng chiến đấu, chặt đứt con đường chiến lược của địch chi viện cho Điện Biên Phủ từ phía Lào; góp phần xứng đáng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa tới sự kiện ký kết Hiệp định Giơnevơ. Tuy chưa phản ánh đầy đủ thắng lợi của quân dân ba nước Đông Dương, song Hiệp định Giơnevơ đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển vượt bậc, tạo nên sức mạnh kỳ diệu mới, đưa cách mạng giải phóng dân tộc của hai nước tới thắng lợi hoàn toàn.

Hai mươi mốt năm chống Mỹ là một chặng đường kế tục, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, trong đó nổi bật lên những hoạt động tiêu biểu, điển hình:



Sự phối hợp giữa lãnh đạo, quân và dân hai nước Việt Nam, Lào phá vỡ mưu đồ tiêu diệt lực lượng vũ trang nòng cốt Pathết Lào và bộ phận đầu não cơ quan lãnh đạo cách mạng Lào do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tiến hành.

Ngay sau khi nghe báo cáo tình hình Lào từ lúc thành lập Chính phủ liên hiệp cuối năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá những kết quả mà Pathết Lào giành được. Mặt khác, Người chỉ rõ: việc đưa hai tỉnh tập kết của Pathết Lào vào Vương quốc là âm mưu “điệu hổ ly sơn” của Mỹ để đi đến tiêu diệt lực lượng Pathết Lào. Người chỉ dẫn phương pháp hoạt động mới và cách đối phó với địch.

Những lời phát biểu chân tình, quý báu và kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được các cơ quan có trách nhiệm của hai nước lĩnh hội và thực hiện.

Do sự hợp lực giữa hai phía Lào, Việt Nam, Tiểu đoàn 2 Pathết Lào đã mưu trí, anh dũng chiến đấu thoát ra khỏi vòng vây của địch tại Xiêng Khoảng vào tháng 5 năm 1959, trở về căn cứ an toàn sau 15 ngày.

Sau một thời gian chuẩn bị rất công phu của lực lượng cách mạng bên ngoài phối hợp với các đồng chí lãnh đạo Lào bị giam tại trại giam Phôn Khênh, cuối cùng, đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng phía Lào và phía Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo Lào và cán bộ bị bắt đã vượt khỏi trại giam Phôn Khênh tại Viêng Chăn. Đánh giá sự kiện lịch sử này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết:

“Cuộc giải thoát Chủ tịch Xuphanuvông là một chiến công đặc biệt, tiêu biểu cho tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào. Chúng ta hãy giữ vững và phát triển tình hữu nghị đặc biệt ấy”[13].



Sự hợp lực giữa lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam để xác định phương pháp đấu tranh vũ trang là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh chính trị chống chiến lược Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ ở Lào.

Từ đầu năm 1958, xu thế phát triển của tình hình Lào ngày càng thể hiện rõ sự can thiệp, xâm nhập mạnh mẽ và toàn diện của Mỹ. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, ngày 3 tháng 6 năm 1959, bàn về vấn đề Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu phương pháp đấu tranh của cách mạng Lào: “Phải dùng du kích (BBS nhấn mạnh) phong trào sẽ lan rộng”… “Phải trường kỳ gian khổ, phải chú ý dân vận, địch vận”.

Đến tháng 7 năm 1959, hai Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào nhất trí quyết định phát động cuộc đấu tranh vũ trang trong mùa mưa năm 1959: lấy trọng tâm là chiến tranh du kích, phát động phong trào quần chúng nổi dậy, giành chính quyền tại thôn xã.

Trung tuần tháng 7 năm 1959, bộ đội Lào mở ba hướng tấn công, hướng chính từ đông nam Sầm Nưa tới đông nam Xiêng Khoảng. Hướng thứ hai hoạt động chủ yếu tại vùng Mương Xon - bắc Sầm Nưa đến Phôngxalỳ, Luổng Phạbang đến Xiêng Ngân. Hướng thứ ba có nhiệm vụ phối hợp tại địa bàn từ bắc đường 8 đến đường 12 Khăm Muộn.

Các đòn tấn công đó hỗ trợ nhân dân trong vùng nổi dậy giải phóng nhiều huyện, xã tại các tỉnh Hủa Phăn, Phôngxalỳ, Xiêng Khoảng, Luổng Phạbang, Khăm Muộn.

Tuyến đường chiến lược Trường Sơn là một công trình vĩ đại, biểu tượng cao đẹp của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Năm 1959, nhằm đáp ứng nhu cầu chi viện sức người, sức của cho các chiến trường miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, việc mở đường chiến lược Trường Sơn càng trở nên cấp bách. Theo đề nghị của Việt Nam, tại cuộc hội đàm cấp cao giữa lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam cuối năm 1960, phía Lào hoàn toàn ủng hộ chủ trương mở đường Tây Trường Sơn và phát biểu: “Vận mệnh hai nước chúng ta gắn bó mật thiết với nhau. Nhân dân Lào sẽ làm hết sức mình để góp phần vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam anh em”[14].

Công cuộc mở đường diễn ra với sự phối hợp lực lượng Lào, Việt Nam cùng tiến hành.

Phần đường phía tây Trường Sơn vốn là địa bàn sinh sống của nhiều bộ tộc Lào, là trọng điểm đánh phá ác liệt của đối phương. Nhưng nhân dân Lào không hề nao núng ý chí, vẫn sẵn sàng dành một phần lãnh thổ của mình cho tuyến đường chiến lược đi qua. Đây là cống hiến vô cùng quý giá của nhân dân Lào cho thắng lợi của Việt Nam và quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.

Đường Trường Sơn vừa là tuyến đường chuyển vận người và vật chất từ hậu phương lớn miền Bắc Việt Nam chi viện cho chiến trường ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; cũng là nơi thiết lập căn cứ hậu cần khổng lồ, dự trữ và cung cấp vũ khí, hàng quân dụng, dân dụng cho tiền tuyến.

Nơi đây biến thành chiến trường phản công quyết liệt của bộ đội Việt Nam và bộ đội Lào trong cùng một lực lượng liên minh, ghi lại biết bao chiến công hiển hách giáng trả các mũi tấn công của đối phương. Tất cả đã tạo dựng nên một biểu tượng cao đẹp của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đúng như lời phát biểu của đồng chí Cayxỏn Phômvihản:

“Chúng tôi vui mừng và rất tự hào là trên vùng phía đông của đất nước chúng tôi có con đường quan trọng được mang tên “Hồ Chí Minh” đã góp phần tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng miền Nam Việt Nam”[15].

Thắng lợi vĩ đại của hai dân tộc Việt Nam, Lào diễn ra năm 1975, kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng, lập hai kỳ tích chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; đánh dấu sự tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ và sự thất bại của chủ nghĩa thực dân mới, dù đế quốc Pháp, Mỹ đã gắng hết sức nhưng không thể nào cứu vãn nổi.



Ba là, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai dân tộc Việt Nam, Lào (1976-2007)

Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quốc phòng - an ninh:

- Sau khi thu được thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hai nước Việt Nam, Lào ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, ngày 18 tháng 7 năm 1977 thúc đẩy sự phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong khung cảnh mới, mang tính chính trị, pháp lý cơ bản, bền vững lâu dài.

Trong 30 năm qua, Hiệp ước ấy luôn khơi dậy nhiều sáng tạo, đưa tới những giải pháp hữu hiệu mà Đảng, Nhà nước Việt Nam và Lào phối hợp thực hiện, như phá tan mưu đồ của đối phương bóp méo vấn đề Việt Nam phối hợp với cách mạng Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt và hồi sinh dân tộc Campuchia, dỡ bỏ bao vây, cấm vận, bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và một số quốc gia khác… Đồng thời, Việt Nam hỗ trợ Lào giải quyết khó khăn về lương thực, hàng tiêu dùng khi biên giới phía tây bị đóng cửa, để kịp thời ổn định tình hình xã hội, ngăn chặn dòng người di tản ra nước ngoài.

Việc ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam - Lào, ngày 18 tháng 7 năm 1977 và hoàn thành hoạch định, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới cùng với hoạt động hợp tác về an ninh - quốc phòng, kinh tế, giao lưu văn hoá đã xây dựng nên một biên giới hoà bình, hữu nghị hợp tác và phát triển Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

- Trước những khó khăn gay gắt của tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam và Lào từ cuối thập niên 1970 và thập niên 1980, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào sử dụng phương châm: nhìn thẳng vào sự thật để phát hiện những sai lầm chủ quan duy ý chí, nóng vội, muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp; và quyết định tiến hành công cuộc đổi mới ở hai nước. Hai Đảng cùng phối hợp chặt chẽ trong quá trình nghiên cứu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và áp dụng vào điều kiện cụ thể của hai nước; đồng thời, tìm tòi thử nghiệm trong thực tiễn để mở ra con đường đổi mới và hội nhập quốc tế, đưa cách mạng hai nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và tiến bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó chứng tỏ: “Công cuộc đổi mới là tất yếu khách quan, là quá trình có tính chất cách mạng và khoa học”[16]. Thắng lợi này ghi thêm một kỳ tích mới của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

- Trên thế giới, từ năm 1987 đến 1991, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng dẫn tới sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa do thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phê phán Đảng Cộng sản và chủ nghĩa Mác - Lênin... Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đưa ra những nguyên tắc đổi mới (năm 1989): giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa và nhận thức đúng hơn, có phương pháp phù hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Cũng vào lúc này, công cuộc đổi mới đã đưa lại hiệu quả bước đầu rõ rệt trong sản xuất và đời sống, gây được niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào cùng con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Các hoạt động trên thể hiện rõ bản lĩnh chính trị và năng lực sáng tạo của hai Đảng đã vượt qua cơn bão táp hiểm nghèo của hệ thống xã hội chủ nghĩa, giữ vững vai trò lãnh đạo của mình và ổn định chính trị của đất nước.

- Từ năm 1976 đến đầu thế kỷ XXI, Việt Nam và Lào bị nhiều thế lực thù địch từ bên ngoài vừa tấn công, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, vừa sử dụng những phần tử phản động lưu vong quay trở về phá hoại an ninh quốc gia. Một lần nữa, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra cho ngành quốc phòng - an ninh và nhân dân Việt Nam, Lào nhiều nhiệm vụ mới.

Theo chủ trương, kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng và Chính phủ, lực lượng vũ trang và lực lượng an ninh Lào, Việt Nam phối hợp chặt chẽ thực hiện các nhiệm vụ chống ngoại xâm, chống phỉ, dẹp bạo loạn, trừ diệt bọn phản động vượt qua lãnh thổ Lào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam… Mặt khác, hai bên giúp nhau đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và trang bị kỹ thuật hậu cần.



Hợp tác phát triển kinh tế, giáo dục và đào tạo cán bộ:

- Trên lĩnh vực kinh tế, hai bên cùng chấp hành nguyên tắc hợp tác là bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia, cùng có lợi và hết lòng giúp đỡ nhau; mặt khác còn căn cứ vào tình hình cụ thể của mỗi nước mà dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau.

Phương thức hợp tác ngày càng được mở rộng và nâng cao về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Có thể thấy điều đó qua các cuộc hội đàm và gặp gỡ giữa lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai Nhà nước về những quan điểm kinh tế xoay quanh chủ đề chính yếu nhất là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, Lào và kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện tại hai nước. Trên thực tế, sự hợp tác của hai nước diễn ra từ trung ương đến tỉnh, thành phố và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… trên các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, công thương, nông nghiệp,…

Nội dung hợp tác kinh tế được chuyển dần theo cấp độ từ thấp lên cao: ban đầu là viện trợ, cho vay, tiến đến hợp tác sản xuất, kinh doanh phù hợp công thức: tài nguyên Lào, lao động kỹ thuật Việt Nam, vốn hợp tác hoặc vay của nước thứ ba. Tiếp đó, từ năm 1996 trở đi, một công thức hợp tác mới được áp dụng, đó là hợp tác hai bên cùng có lợi theo thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau.

Điều đặc sắc nổi bật trong quan hệ hợp tác kinh tế Lào - Việt Nam là tinh thần giúp đỡ nhau mỗi khi nước bạn gặp khó khăn không thể tự giải quyết được. Hành động Việt Nam cùng hợp tác chặt chẽ với Lào nghiên cứu chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 1999 đạt được kết quả tốt đẹp, là một mẫu hình tiêu biểu.

- Sự hợp tác giáo dục và đào tạo cán bộ Lào - Việt Nam được lãnh đạo hai Đảng và hai Nhà nước đặt ở tầm chiến lược, mở đầu từ thời kỳ chống đế quốc Mỹ và liên tục phát triển cho dù phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ của chiến tranh và những biến động hiểm nghèo của hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm chiến tranh, nhiệm vụ giúp Lào về giáo dục được Việt Nam dành ưu tiên chủ yếu cho giáo dục phổ thông. Song với tầm nhìn chiến lược, chủ động đón những bước phát triển đột biến của cách mạng, từ năm 1962, theo yêu cầu của bạn Lào, Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia sang hợp tác nghiên cứu lập phương án giải quyết.

Sau năm 1975, hợp tác giáo dục và đào tạo cán bộ giữa Việt Nam - Lào phát triển khá toàn diện cả về cấp độ và loại hình chuyên môn, nghiệp vụ, với trọng tâm là đại học, trên đại học. Trong đó, số cán bộ thuộc hệ thống chính trị của Lào chiếm tỷ lệ cao, học tập trung và tại chức, dài hạn và ngắn hạn, chủ yếu do Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, đảm nhiệm. Nội dung chương trình đào tạo chứa đựng nhiều kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn trên các chặng đường cách mạng, nhất là công cuộc đổi mới, đó là những kiến thức bổ ích cho đội ngũ cán bộ Lào.

Phía Lào cũng giúp đỡ Việt Nam đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn về Lào và phiên dịch tiếng Lào, đã phát huy tốt kết quả học tập để giữ gìn và phát triển theo chiều sâu quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Nhìn chung quá trình hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cán bộ đã góp phần quan trọng và to lớn tạo nên nguồn lực cơ bản, bền vững cho sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.



Каталог: files -> thong bao -> 2012
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung
2012 -> Quyết định số 220-QĐ/tw ngày 17/4/2009 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

tải về 0.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương