Tài liệu tuyên truyền lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào (1930-2007)


Nguồn: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007, Tài liệu tuyên truyền, Nxb. CTQG, H, 2012, tr.39-89



tải về 0.7 Mb.
trang4/7
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.7 Mb.
#35407
1   2   3   4   5   6   7

Nguồn: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007, Tài liệu tuyên truyền, Nxb. CTQG, H, 2012, tr.39-89.

[1]. Ký ngày 16 tháng 10 năm 1945.

[2]. Ký ngày 30 tháng 10 năm 1945.

[3], 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2000, t.8, tr.26, 31-32.

[4]. Từ năm 1948 đổi thành Liên khu 4.

[5]. Thư của Hoàng thân Xuphanuvông gửi cụ Lê Thước, đề ngày 7 tháng 11 năm 1951. Phòng Tư liệu Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.

[6]. Uỷ ban gồm chín người, do ông Nủhắc Phumxavẳn làm chủ tịch, ông Thạo Ô làm phó chủ tịch, ông Tu Lăn làm uỷ viên quân sự và ông Xỉngcapô làm uỷ viên chính trị.

[7]. Tây Bắc Lào - vùng phía tây của Bắc Lào - gồm tỉnh Huội Xài và phần phía tây tỉnh Luổng Phạbang (sau tách thành tỉnh Xaynhabuli). Đây là vùng rừng núi điệp trùng, nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, có biên giới giáp với Thái Lan, Miến Điện (Mianma) và Trung Quốc. Dân cư trong vùng phần lớn là các bộ tộc thiểu số như Lự, Cọ, Muxơ, Lan Ten, Cùi, Nghiệu,… sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, chăn nuôi, tự cấp tự túc.

[8]. Về ngày thành lập Ban xung phong Lào Bắc, nhiều tài liệu viết không thống nhất. Theo đồng chí Huỳnh Đắc Hương viết trong bài “Sau thắng lợi giải phóng dân tộc, nhìn lại Sầm Nưa”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Căn cứ địa Sầm Nưa - biểu tượng đoàn kết đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Nxb. Thế giới, 2008, tr.67, thì Ban xung phong Lào Bắc được thành lập ngày 24 tháng 8 năm 1948.

[9]. Theo danh sách có 20 đồng chí, nhưng vắng một đồng chí, chỉ có 19 đồng chí dự Đại hội.

[10]. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353-1975), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2008, tr.326.

[11]. Những sự kiện chính trị ở Lào, tài liệu của CP38, tr.140.

[12], 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.37, 44.

[13]. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về công tác Lào, hồ sơ TƯ 364, tr.28, lưu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng.

[14]. Đảng Nhân dân cách mạng Lào - Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.439.


Chương III: HỢP TÁC TOÀN DIỆN VIỆT NAM - LÀO,
LÀO - VIỆT NAM (1976-2007)

I. HỢP TÁC TOÀN DIỆN VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1976-1985

Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra như vũ bão, đẩy nhanh xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam và Lào, đều có cơ hội và điều kiện thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử dụng các thành tựu khoa học - công nghệ của thế giới để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước…

Tuy nhiên, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hai nước Việt Nam và Lào đều phải ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm, đặc biệt là hậu quả thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Nền kinh tế của Việt Nam và Lào về cơ bản còn hết sức lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào nước ngoài. Xuất phát điểm của hai nước đều từ nền kinh tế nông nghiệp có trình độ canh tác, năng suất và sản lượng rất thấp; tư duy lãnh đạo kinh tế còn mang nặng tính tập trung, bao cấp từ thời chiến,… Trong khi đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước thường xuyên câu kết, tìm cách chia rẽ Lào với Việt Nam, Việt Nam với Lào. Chúng lợi dụng việc đầu tư vào các nước đang phát triển để thực hiện mưu đồ làm cho các nước này phụ thuộc về kinh tế dẫn đến phụ thuộc về chính trị. Bên cạnh đó, chủ nghĩa xã hội thế giới, đặc biệt là ở Liên Xô và các nước Đông Âu lâm vào tình trạng trì trệ, dẫn đến khủng hoảng từ thập niên 1980… gây khó khăn, trở ngại không nhỏ cho mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào.

Đây là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã trở thành Đảng cầm quyền ở mỗi nước; do vậy, cả hai nước càng có điều kiện phát huy truyền thống tốt đẹp, đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, xây dựng và tăng cường quan hệ liên minh, liên kết và hợp tác toàn diện về chính trị, quốc phòng - an ninh, kinh tế, văn hoá, giáo dục,… Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất, dẫn tới sự thay đổi về chất trong nội dung, phương thức và các nguyên tắc quan hệ giữa hai quốc gia dân tộc, nâng quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước lên tầm cao mới.

Năm 1976, ngay sau khi thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lào và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận quan trọng trong vòng hai tháng rút toàn bộ quân đội và chuyên gia Việt Nam về nước và bắt đầu xúc tiến việc hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước. Tuy nhiên, lợi dụng cơ hội này, bọn phản động trong nước Lào, với sự hỗ trợ của các thế lực thù địch quốc tế, đã hoạt động nổi dậy ở nhiều nơi. Do vận mệnh của hai nước liên quan lẫn nhau nên mối quan tâm hàng đầu về an ninh chính trị của Lào cũng là mối quan tâm thường trực của Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam, cũng là vì lợi ích thiết thân của cách mạng Việt Nam.

Đặc biệt, từ ngày 15 đến 18 tháng 7 năm 1977, Đoàn đại biểu cao cấp Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng cùng quan tâm, cũng như các vấn đề nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống còn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết: Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước.



Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là hiệp ước toàn diện, mang tính chiến lược lâu dài, tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu dài tình đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Hiệp ước có giá trị trong
25 năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng 10 năm nếu một trong hai bên không thông báo cho bên kia muốn hủy bỏ Hiệp ước ít nhất là một năm trước khi hết hạn. Hiệp ước nêu rõ: hai bên cam kết ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, không ngừng tăng cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước. Việc ký kết Hiệp ước còn có ý nghĩa quốc tế quan trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu vực.

Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một biểu hiện tốt đẹp của việc giải quyết vấn đề lợi ích dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, là mẫu mực về chính sách láng giềng hữu nghị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

Thành quả mười năm hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam rất to lớn

Hợp tác trong lĩnh vực chính trị và đối ngoại

Mối quan hệ hợp tác về chính trị trong giai đoạn này tập trung vào việc hai nước nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu cùng lựa chọn: tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa mà chưa có tiền lệ lịch sử.

Việc nước Lào tự chủ giải quyết những vấn đề nội bộ để ổn định và phát triển, như: giữ vững chủ quyền lãnh thổ, duy trì an ninh nội địa, bảo vệ chế độ mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục hồi, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, tranh thủ viện trợ nước ngoài, v.v. đã ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định và từng bước đi lên của Việt Nam. Điều nổi bật là sự cố gắng tìm tòi, học hỏi của các đồng chí trong Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào về kinh nghiệm và nghiên cứu lý luận quốc tế để hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân, tạo tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của Lào. Bản thân đồng chí Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản đã đọc đi đọc lại tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng vào công tác xây dựng đảng ở Lào. Đồng thời, đứng trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và quốc tế, Lào còn trực tiếp phối hợp với Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, chủ động giúp Việt Nam tháo gỡ những vướng mắc trong quan hệ với các nước khác trong khu vực…; trao đổi kinh nghiệm với Việt Nam về từng bước đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp (trang trại), lưu thông thương mại, v.v.. Đồng chí Cayxỏn Phômvihản thường xuyên nhấn mạnh quan điểm, lập trường trước sau như một ủng hộ Việt Nam của Lào: Lào vững mạnh, độc lập thì Việt Nam ổn định, phồn vinh.

Về phía Việt Nam, sau ngày đất nước thống nhất, mặc dầu phải giải quyết nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại, nhưng luôn nhận thức sâu sắc mối quan hệ tương hỗ của cách mạng hai nước trong giai đoạn mới: “Lào có ổn định thì Việt Nam mới ổn định, và ngược lại”. Vì vậy, Việt Nam đã cố gắng đáp ứng các yêu cầu chi viện và hợp tác với Lào một cách toàn diện, theo tinh thần vô tư, “không tính thiệt hơn”.

Tại các cuộc hội đàm hằng năm giữa hai Bộ Chính trị, các cuộc gặp gỡ trao đổi khi có việc đột xuất giữa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể Việt Nam đã góp phần giúp Lào kinh nghiệm về giải quyết các khó khăn, giải tỏa kịp thời các vướng mắc xảy ra, củng cố niềm tin của Lào về thiện chí của Việt Nam. Và ngược lại, sự chia sẻ của Lào với Việt Nam trên lĩnh vực an ninh chính trị, kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội đã tạo niềm tin và là sức mạnh vô giá, giúp Việt Nam bảo đảm được lợi ích trực tiếp về an ninh và phát triển ở biên giới phía tây của mình.

Việc giải quyết thành công vấn đề biên giới giữa hai nước là một thành tựu nổi bật của hợp tác chính trị trong giai đoạn này. Để triển khai Hiệp định hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước (ngày 18 tháng 7 năm 1977), hai bên thỏa thuận lấy đường biên giới mà Pháp vẽ trên bản đồ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương làm cơ sở đối chiếu, so sánh cho việc phân chia biên giới trên thực địa. Từ ngày 25 tháng 7 năm 1978 - ngày cắm mốc đầu tiên - đến ngày 24 tháng 8 năm 1984, Việt Nam cùng với Lào đã cơ bản hoàn thành hệ thống quốc mốc. Sau tám năm tiến hành, đến ngày 24 tháng 1 năm 1986, việc phân vạch và cắm mốc trên thực địa toàn tuyến biên giới Việt Nam - Lào dài 2.067 km đã hoàn thành. Việc phân định chính thức đường biên giới quốc gia giữa hai nước thể hiện nguyên tắc trong quan hệ hai nước: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như lợi ích chính đáng của mỗi bên, phù hợp với luật pháp quốc tế và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước muốn có một đường biên giới hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển lâu dài.

Trong hợp tác đối ngoại, theo tinh thần của Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao hai nước nhất trí phối hợp chặt chẽ về đường lối hoạt động đối ngoại, phát huy hiệu quả công tác đối ngoại mỗi nước và sức mạnh của ba nước Đông Dương trên trường quốc tế, góp phần làm cho môi trường an ninh chính trị Đông Nam Á đi dần vào ổn định, thể hiện thiện chí xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của các nước Đông Dương.

Trên đất nước Lào lúc này, tình hình kinh tế - xã hội dần đi vào ổn định, độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự xã hội được giữ vững; chế độ dân chủ nhân dân được bảo vệ. Tuy nhiên, Lào vẫn phải đối phó với chính sách thù địch của các thế lực phản động.

Trong bối cảnh đó, một sự kiện quan trọng đã diễn ra trong đời sống chính trị hai nước. Đó là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 3 năm 1982) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 4 năm 1982). Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương hai Đảng đều khẳng định sự tất yếu khách quan phải tăng cường quan hệ đoàn kết đặc biệt, hữu nghị hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước trong giai đoạn cách mạng mới.

Trong hai ngày 22 và 23 tháng 2 năm 1983, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương diễn ra tại Thủ đô Viêng Chăn, tập trung thảo luận về tình hình ba nước Đông Dương, tình hình quốc tế và khu vực; đề ra những nguyên tắc, phương hướng, biện pháp nhằm tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện giữa ba nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước, tạo nhân tố quan trọng đối với hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á và thế giới; vấn đề quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Hội nghị đã nhất trí đề ra bốn nguyên tắc chỉ đạo mối quan hệ giữa ba nước, trong đó nhấn mạnh quan hệ giữa ba nước sẽ được giải quyết bằng thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, với tinh thần hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của mỗi nước và vì lợi ích chung của ba dân tộc, trên tinh thần hữu nghị anh em, hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.

Tiếp đó, tại Tuyên bố chung Việt Nam - Lào năm 1985, một lần nữa hai bên khẳng định quyết tâm củng cố hơn nữa tình hữu nghị vĩ đại và tình đoàn kết chiến đấu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo cách mạng hai nước đã dày công vun đắp; tăng cường sự hợp tác toàn diện, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật; tích cực thực hiện các thỏa thuận giữa hai nước và những thỏa thuận của Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương. Tuyên bố chung cũng thể hiện nguyện vọng của nhân dân ba nước Đông Dương và ASEAN cùng nhau giải quyết những vấn đề khu vực bằng đàm phán trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.



Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh

Trên nền tảng quan hệ chặt chẽ về chính trị giữa hai nước, những năm 1976-1985, hợp tác quốc phòng - an ninh ngày càng đi vào chiều sâu theo tinh thần đoàn kết liên minh chiến đấu, phù hợp với tình hình mới, góp phần tích cực vào việc bảo đảm củng cố quốc phòng - an ninh, ổn định xây dựng kinh tế - xã hội của mỗi nước.

Do tình hình phức tạp trong nước và khu vực, trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ của Lào, tháng 12 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào ra quyết nghị: tiếp tục đề nghị Việt Nam đưa lực lượng quân đội sang hỗ trợ quân đội Lào nhằm ổn định tình hình, ngăn ngừa các nguy cơ chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Trung tuần tháng 9 năm 1977, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí Khăm Tày Xiphănđon, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chỉ huy tối cao Quân đội giải phóng nhân dân Lào sang thăm và làm việc với Bộ Quốc phòng Việt Nam, hai bên đã ký Hiệp ước phòng thủ, ngày 22 tháng 9 năm 1977.

Ngày 28 tháng 6 năm 1978, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra sắc lệnh thành lập Binh đoàn 678 trực thuộc Bộ Quốc phòng. Binh đoàn 678 do Trung tướng Trần Văn Quang làm tư lệnh kiêm chính ủy, gồm ba sư đoàn bộ binh (324, 968, 337), một số phân đội binh chủng làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào. Binh đoàn 678 có nhiệm vụ cùng Lào xây dựng nền kinh tế và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong cả nước Lào, tăng cường và bảo vệ khối liên minh Việt - Lào, không ngừng củng cố và phát triển tình hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc.

Trong hơn một năm (tháng 8 năm 1977 đến ngày 13 tháng 11 năm 1978), hoạt động phối hợp giữa lực lượng quân sự Lào với Sư đoàn bộ binh 324 là đợt hoạt động giành thắng lợi lớn nhất kể từ sau năm 1975, thể hiện tính hiệp đồng tác chiến cao và chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang hai nước trên các địa bàn xung yếu, đập tan các âm mưu, ý đồ chống phá, gây bạo loạn của Mỹ và các thế lực thù địch, thu hồi lại nhiều địa bàn quan trọng ở vùng rừng núi của Lào, nhất là ở các tỉnh: Xiêng Khoảng, Bolikhămxay, Luổng Phạbang, Viêng Chăn, khu vực biên giới giáp một số tỉnh miền Trung Việt Nam (Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh,…); bảo đảm được an ninh trên các trục đường giao thông chiến lược như 7, 9, 13,… Đặc biệt, sự kiện tháng 5 năm 1985, Quân khu 4 Việt Nam đã sử dụng Tiểu đoàn 31 đặc công quân khu và một số đơn vị bộ binh cùng các đơn vị vũ trang Lào phá tan sào huyệt phỉ lớn nhất ở Buôm Loộng, góp phần ổn định tình hình an ninh của Lào.

Bên cạnh việc phối hợp phòng thủ có hiệu quả, vì lợi ích của cả hai nước, Việt Nam và Lào còn đẩy mạnh hợp tác về đào tạo quân sự. Chỉ tính riêng trong năm 1984, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã giúp Lào đào tạo 407 cán bộ, 1.381 cán bộ và nhân viên kỹ thuật tại 28 trường; 32 chuyên gia thường trú ở cơ quan Bộ Quốc phòng, trong đó có công tác quân sự địa phương, 350 chuyên gia kỹ thuật về các xí nghiệp quốc phòng và các nông trường... Quân khu 4 Việt Nam đã hỗ trợ phía Lào thực hiện nhiệm vụ mở cửa ra hướng đông. Từ đó, các đơn vị kinh tế thuộc Quân đội nhân dân Lào đã có bước trưởng thành và phát triển nhanh chóng. Công ty phát triển miền núi Bộ Quốc phòng Lào từ chỗ gặp nhiều khó khăn do thiếu phương tiện, kỹ thuật đã vươn lên làm chủ tình hình, đưa Lắc Xao (Khăm Muộn) từ một vùng rừng núi hẻo lánh trở thành một trung tâm có nhiều xưởng máy, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân Lào.

Ghi nhận những đóng góp to lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam đối với cách mạng Lào nói chung và Quân đội nhân dân Lào nói riêng, ngày 18 tháng 12 năm 1984, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Xuphanuvông đã ký quyết định tặng Huân chương Vàng quốc gia, phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước Lào cho Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trên lĩnh vực hợp tác an ninh, thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Lào - Việt Nam, Bộ Nội vụ Lào đã ký Hiệp định hợp tác toàn diện với Bộ Nội vụ Việt Nam. Nội dung của Hiệp định cho phép lực lượng an ninh của hai nước, ở cả trung ương và các địa phương, quan hệ hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với nhau, trao đổi các đoàn đại biểu, các đoàn cán bộ lão thành,...

Ngày 25 tháng 12 năm 1985, Trường Trung cấp An ninh Lào được thành lập, có nhiệm vụ tự đào tạo lực lượng an ninh Lào. Trong quá trình đào tạo, Trường Đại học An ninh và Trường Đại học Công an nhân dân của Việt Nam đã cử nhiều cán bộ, giảng viên sang Lào nâng cao kiến thức cho cán bộ, học viên Lào. Nhờ đó, hằng năm, Lào đã đào tạo được một lực lượng lớn cán bộ, chiến sĩ làm công tác an ninh, đáp ứng yêu cầu của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tế đã cho thấy an ninh - quốc phòng của hai nước gắn bó chặt chẽ với nhau như thế nào, Việt Nam có ổn định thì Lào mới ổn định và ngược lại, Lào có ổn định thì Việt Nam cũng mới ổn định. Cũng như vậy, Việt Nam có phát triển thì Lào mới mạnh lên được và ngược lại, Lào có phát triển thì Việt Nam cũng mới mạnh lên được. Điều đó có nghĩa là Việt Nam và Lào phải cùng ổn định và phải cùng vững mạnh, đó là một quy luật được chứng minh từ sự phát triển của quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hơn 70 năm qua.

Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật

Đây là giai đoạn Lào từng bước thử nghiệm cơ chế quản lý kinh tế mới ở một số cơ sở quốc doanh, chuyển từ nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang kinh tế sản xuất hàng hoá, khuyến khích sản xuất, lưu thông, xây dựng kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Việt Nam cũng đang trong quá trình từng bước nghiên cứu, khảo nghiệm để đổi mới cơ chế quản lý từ quan liêu, bao cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; thực hiện khoán trong nông nghiệp; giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp công nghiệp,... nhằm giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, tiếp tục tìm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của dân tộc Việt Nam và xu thế chung của thế giới.

Ngay từ năm 1983, khi tình hình chính trị, kinh tế - xã hội hai nước bước đầu ổn định, công cuộc khôi phục kinh tế căn bản hoàn thành, hai nước chuyển sang nhiệm vụ trọng tâm là phát triển sản xuất và kinh tế. Quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước dần thay đổi: từ viện trợ không hoàn lại và cho vay là chủ yếu sang giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản xuất, kinh doanh bình đẳng, cùng có lợi. Thời gian này, Lào đề ra công thức hợp tác: tài nguyên Lào, lao động kỹ thuật Việt Nam, vốn hợp tác hoặc vay của nước thứ ba. Trong hợp tác đã chuyển dần từ hợp tác từng vụ việc theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước Lào sang hợp tác theo chương trình, kế hoạch được ký kết giữa hai Chính phủ. Đồng thời, hai bên giúp nhau phát huy khả năng và tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước để giải quyết những nhu cầu cấp bách về đời sống và sản xuất. Đây là những định hướng phù hợp với điều kiện hai nước trong những năm đầu chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.

Quan hệ hợp tác thương mại: trước năm 1975, Việt Nam và Lào đã có hiệp định trao đổi thương mại nhưng mới chỉ dừng lại ở quy định một số nguyên tắc, thể lệ và danh mục chung, không quy định kim ngạch. Trao đổi chủ yếu diễn ra giữa các địa phương và các tỉnh của Việt Nam với vùng giải phóng Lào. Từ năm 1976-1981, trao đổi hàng hoá chính ngạch được bắt đầu theo phương thức bao cấp bằng ngân sách nhà nước mỗi bên. Từ năm 1981-1985, kim ngạch tăng nhanh hơn do Thái Lan bao vây cấm vận Lào 273 mặt hàng, nên Lào chuyển hướng sang phía đông. Hiệp định thương mại Việt Nam - Lào năm năm (1981-1985) được ký kết, kèm theo nghị định thư thương mại hằng năm, đã tạo hành lang pháp lý cho việc trao đổi buôn bán giữa hai nước... Ngoài ra, Việt Nam còn hỗ trợ Lào sử dụng các nguồn viện trợ chủ yếu từ các nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức quốc tế. Từ năm 1976 đến 1985, các nước và các tổ chức này đã viện trợ không hoàn lại cho Lào 547,89 triệu rúp, 126,57 triệu USD và cho vay 594,583 triệu rúp.

Trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước đã từng bước thay đổi cả về nội dung và phương thức hợp tác cho phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác giai đoạn này cơ bản dựa trên cơ sở tinh thần quốc tế vô sản, với phương thức chủ yếu là viện trợ và cho vay theo cơ chế tập trung bao cấp, chưa tương xứng với yêu cầu của nhân dân hai nước và tầm cao của quan hệ chính trị giữa hai Đảng và hai Nhà nước Việt Nam và Lào.



Trong lĩnh vực hợp tác văn hóa: Việt Nam và Lào đều nhận thức sâu sắc ý nghĩa đặc biệt quan trọng và thiết thân của công việc này đối với cả hai bên. Việc quan trọng hàng đầu là hai nước hợp tác tuyên truyền cuộc sống mới bảo vệ và xây dựng Tổ quốc cũng như truyền thống văn hóa tốt đẹp của mỗi nước. Hằng năm, hai bên thường xuyên lập kế hoạch giao lưu văn hoá nghệ thuật dưới các hình thức: trao đổi đoàn biểu diễn, tổ chức sáng tác mỹ thuật, tìm hiểu về chủ đề đất nước và con người, hợp tác xuất bản, in và phát hành sách báo, văn hoá phẩm, phim ảnh. Hai nước còn giúp nhau cung cấp một số thiết bị chuyên dụng về in, điện ảnh, sân khấu, phát thanh, truyền hình, đồng thời phối hợp tuyên truyền, giáo dục nhân dân hai nước về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, cũng như phối hợp tuyên truyền, tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn, qua đó tăng cường sự hiểu biết, gắn bó giữa nhân dân hai nước.

Hợp tác giáo dục và đào tạo: là nội dung quan trọng có tính chiến lược vì lợi ích lâu dài của hai nước và là lĩnh vực hợp tác thành công nhất trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Sự hợp tác trong lĩnh vực giáo dục của hai nước thời kỳ này thể hiện tinh thần giúp đỡ lẫn nhau nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của những năm mới giải phóng. Hằng năm, Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục của ba nước Lào, Campuchia, Việt Nam được tổ chức lần lượt tại Hà Nội và Viêng Chăn; Bộ Giáo dục hai nước đều ký kết các văn bản hợp tác với nhau. Hàng loạt hệ thống trường lớp ở Lào đã được xây dựng với sự giúp đỡ của Việt Nam như: các trường phổ thông, trung cấp sư phạm, Đại học Sư phạm Viêng Chăn. Lưu học sinh Lào, chủ yếu là sinh viên đại học, thực tập sinh, nghiên cứu sinh trên đại học có mặt ở 36 trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn tiếp tục đào tạo một số học sinh phổ thông cho Lào. Riêng Trường Bổ túc hữu nghị Việt - Lào thành lập từ năm 1980, có nhiệm vụ đào tạo con em nhân dân các bộ tộc Lào gửi sang học từ phổ thông cơ sở đến phổ thông trung học. Năm 1980-1981, có 191 học sinh Lào tốt nghiệp cấp III (đạt 100%). Số lượng học sinh Lào được đào tạo tại Việt Nam ở các trường kể cả phổ thông, trung học chuyên nghiệp, đại học các ngành kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự, an ninh thời kỳ này rất đông, chiếm khoảng 50% số người được gửi ra nước ngoài. Niên khóa 1983-1984, có 206 học sinh tốt nghiệp cấp II, III (100%); 1985-1986, có gần 200 học sinh tốt nghiệp, trong đó 95% tốt nghiệp cấp III và 70% đạt loại khá, giỏi. Kết quả này là sự nỗ lực cao độ của cả hai phía, đã góp phần thanh toán nạn mù chữ, nâng cao một bước trình độ dân trí, hình thành đội ngũ cán bộ trí thức, đặt nền móng khoa học - kỹ thuật cho sự phát triển của đất nước Lào. Trong sáu năm, kể từ khi hai nước ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, trung bình mỗi năm Việt Nam cử 900 chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau sang hợp tác với Lào và số cán bộ Lào được đào tạo ở Việt Nam chiếm 1/2 trong tổng số cán bộ của Lào được đào tạo ở nước ngoài.
Từ năm 1976 đến 1985, Việt Nam cử 5.957 chuyên gia trong các lĩnh vực sang hợp tác với Lào.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ lý luận chính trị của Đảng được coi là một nhiệm vụ chiến lược cơ bản thường xuyên, trong đó đào tạo cán bộ chủ chốt cho Đảng và Nhà nước Lào ngày càng trở thành một lĩnh vực hợp tác quan trọng giữa hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào. Việt Nam cử nhiều chuyên gia đầu ngành, có kinh nghiệm sang Lào xây dựng chương trình giảng dạy cho Trường Đảng cao cấp của Đảng và Nhà nước Lào. Từ năm 1977-1989, Trường Nguyễn Ái Quốc X và Trường Nguyễn Ái Quốc đặc biệt đã phối hợp với các cơ quan của hai nước đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và chuyên môn cho khoảng 1.000 cán bộ trung, cao cấp các ngành tuyên huấn, tổ chức, kiểm tra, phóng viên, giảng viên Trường Đảng của Lào. Hợp tác giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là một trong những thành tựu đặc biệt, không nơi nào trên thế giới có được, đó là sự tin cậy lẫn nhau, cùng giúp nhau xây dựng, củng cố nhân tố bên trong hết sức cần thiết cho công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc của mỗi nước.



Hợp tác giữa các địa phương và ngoại giao nhân dân

Song song với mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng, hai Nhà nước, các bộ, ngành trung ương, còn có mối quan hệ kết nghĩa giữa toàn bộ các tỉnh có chung đường biên giới cũng như các tỉnh không có chung biên giới giữa hai nước với nhau như: Hà Nội - Viêng Chăn, Hà Nam Ninh[1] - Uđômxay, Vĩnh Phúc - Luổng Nặm Thà, Hà Sơn Bình[2] - Luổng Phạbang,… Các địa phương đã phối hợp chặt chẽ về trao đổi đoàn tham quan, cùng giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm cũng như cùng tháo gỡ những khó khăn giữa hai nước. Hội Hữu nghị Việt Nam - Lào và Lào - Việt Nam đã tổ chức thu thập, lưu trữ giữ gìn kỷ niệm, kỷ vật công tác, chiến đấu liên quan đến quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam; động viên việc viết sách, báo và tuyên truyền giáo dục về quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Đặc biệt, cộng đồng người Việt Nam tại Lào đã có nhiều đóng góp đáng kể trong vai trò làm cầu nối quan trọng nhằm giữ gìn và phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Uỷ ban Trung ương Mặt trận, Ban Chấp hành Trung ương Hội Hữu nghị của hai nước gồm đại diện các cơ quan, ban, ngành ở trung ương và đại diện các địa phương, phát triển chi hội hữu nghị đến tận cấp huyện hoặc cơ sở.

Với những thành tựu to lớn đạt được sau chặng đường 10 năm (1976-1985), thế và lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ngày càng được củng cố vững chắc. Đây là lúc Việt Nam lần lượt rút hết chuyên gia thường trú, chuyển sang chuyên gia vụ việc ngắn hạn. Sự kiện này chứng minh cho sự trưởng thành vượt bậc của Lào và hiệu quả của những năm đầu thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào. Sự trưởng thành về mọi mặt của Lào đã thể hiện sự tin cậy lẫn nhau và hiệu quả của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, không những giúp nhau bảo vệ chủ quyền lãnh thổ mỗi nước trong những năm đầu mới giải phóng mà còn giữ vững được chế độ mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, từng bước duy trì ổn định đời sống nhân dân, tìm tòi con đường xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, không lệ thuộc nước ngoài. Đây cũng chính là cơ sở vững chắc để quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam không ngừng được củng cố và tăng cường trong giai đoạn đổi mới tiếp theo.

II. CỦNG CỐ VÀ TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC TOÀN DIỆN VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2007

Từ giữa thập niên 1980, tình hình quốc tế và khu vực có những biến đổi chưa từng thấy, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa tiếp tục tác động sâu sắc đến mọi quốc gia. Để hội nhập với khu vực và quốc tế, hai nước Việt Nam và Lào đứng trước một yêu cầu tất yếu phải tiến hành đổi mới, nhằm hoàn thiện chế độ xã hội của mình và từng bước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đây là lúc mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp được vận hành qua 10 năm sau giải phóng (1976-1985) ở Việt Nam và Lào đã không còn phát huy được hiệu quả, đẩy cả hai nước vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng; trong khi ở bên ngoài, hai nước vẫn bị các lực lượng thù địch bao vây cấm vận.

Đại hội IV đổi mới của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 11 năm 1986) đã thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm của Đảng trong công tác lãnh đạo: đó là tư tưởng chủ quan, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa như muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; vội vàng chuyển các xí nghiệp không cần thiết sang sở hữu nhà nước; nóng vội đưa nông dân vào làm ăn tập thể mà không xem xét các điều kiện, nguyên tắc và năng lực tổ chức, quản lý, đi đôi với việc chậm giải quyết cơ chế quản lý bao cấp, tập trung quan liêu trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh[3].

Đại hội VI đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12 năm 1986) cũng tự phê bình nghiêm khắc: “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện[4].

Thuận lợi cơ bản nhất đối với việc củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là hai nước có nhiều lợi ích chiến lược và thể chế chính trị - xã hội tương đồng. Hai nước gắn bó chặt chẽ với nhau về chính trị; hợp tác mật thiết với độ tin cậy cao trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng; hỗ trợ, giúp đỡ nhau bảo vệ và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quản lý biên giới. Cả Việt Nam và Lào đều coi nhau thuộc ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của mỗi nước. Quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước được triển khai đều khắp, ngày càng sâu rộng và khăng khít trên cả ba kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, từ trung ương tới các địa phương, nhất là các địa phương có chung đường biên giới...

Về mặt khó khăn, trong điều kiện mới của toàn cầu hóa kinh tế, hai nước Việt Nam và Lào không những phải đối mặt với những thách thức chung mang tính toàn cầu mà còn phải vượt qua những cạnh tranh gay gắt từ chính các nước láng giềng có quan hệ gắn bó với Lào và Việt Nam, từ các chương trình hợp tác đa phương mà cả Việt Nam và Lào đều là thành viên. Vì vậy, việc lựa chọn nội dung hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Lào sao cho phù hợp, có hiệu quả, không chồng chéo với các chương trình hợp tác của các nước khác và mang dấu ấn của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là vấn đề đòi hỏi phải cân nhắc kỹ lưỡng, nhất là trong điều kiện cả Việt Nam và Lào đều đang gặp khó khăn lớn về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và trình độ quản lý.

Trong khi đó, các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước lại ra sức lợi dụng sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, tăng cường gây sức ép, áp đặt điều kiện, thậm chí can thiệp vào công việc nội bộ của hai nước. Mưu đồ của chúng là theo đuổi chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm thay đổi thể chế chính trị, ngăn cản Việt Nam và Lào huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, chúng ráo riết chia rẽ và phá hoại mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, tạo sự bất ổn định ở mỗi nước để dễ bề thâu tóm, khống chế.

Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Việc hợp tác kinh tế giữa ba nước (Đông Dương - BBS) phải theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, có ưu tiên ưu đãi cho nhau, và phải có những chính sách, phương thức thích hợp, bảo đảm hiệu quả thiết thực”[5]. Ngày 3 tháng 7 năm 1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị: “Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần này[6], các bộ, ban, ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện tượng tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”[7].

Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường liên minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào - Việt Nam - Campuchia mới trở thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch của mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước”[8]. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ đoàn kết sống còn và lâu dài, quán triệt quan điểm, phương châm nguyên tắc của mối quan hệ trong giai đoạn cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong làm việc mới, tránh những bảo thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là, mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi”[9]. Trong hoạt động thực tiễn, từ cấp trung ương đến cấp cơ sở, việc bảo vệ và phát triển quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam đã trở thành đường lối chiến lược, tình cảm thiêng liêng và nghĩa vụ quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào, là một trong những tiêu chuẩn rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân Lào.

Đại hội V Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 3 năm 1991) xác định tính chất và giai đoạn của cách mạng Lào hiện nay: “đang ở trong giai đoạn tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo ra các tiền đề để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội”[10]. Đây là một nhận thức rất quan trọng, chỉ ra tính chất, quy mô và bước đi thích hợp nhằm định hướng tiến trình đổi mới và phát triển của đất nước Lào trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đến, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa V (tháng 2 năm 1993), lần đầu tiên Lào đề ra nhiệm vụ chung, mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội dài hạn của cả nước từ năm 1993 đến 2000.

Từ ngày 24 đến 27 tháng 6 năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tổng kết năm năm đổi mới, thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”, đồng thời cam kết: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”[11]. Đến Đại hội IX (tháng 4 năm 2001), Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung cam kết: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[12].

Việc Việt Nam và Lào xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn của mỗi nước đã tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới cao hơn. Căn cứ vào thoả thuận giữa Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tháng 10 năm 1991 và thực hiện Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ ký ngày 15 tháng 2 năm 1992, Ủy ban Kế hoạch nhà nước Việt Nam và Ủy ban Kế hoạch và Hợp tác Lào cùng phối hợp đề ra Chiến lược hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa Việt Nam và Lào. Chiến lược này là cơ sở để hai bên phối hợp xây dựng và quyết định các chương trình và dự án kế hoạch hợp tác trong thời gian tới.

Trong bối cảnh phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997 và sự dịch chuyển các dòng đầu tư và trao đổi thương mại mới ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cũng thật sự chuyển sang một giai đoạn mới, chịu sự tác động trực tiếp của tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực diễn ra ngày càng sôi động và sâu sắc, mà trọng tâm của nó là tự do hóa thương mại. Việt Nam và Lào đều là những thành viên mới của ASEAN[13]. Đây là lúc hai nước tích cực triển khai thực hiện các thỏa thuận cấp cao, trong đó có Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 2001-2010 Sáu chương trình hợp tác trọng điểm giai đoạn 2006-2010[14].

Khu vực Đông Nam Á nói chung và Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS)[15] nói riêng đang gia tăng mạnh mẽ các lộ trình hội nhập trên nhiều cấp độ[16]. Thông qua tiếp cận của toàn ASEAN như là một đầu mối phối hợp cho các sáng kiến hợp tác Đông Á, Việt Nam và Lào cũng đã và đang thể hiện sự chủ động tham gia vào các chương trình hợp tác Đông Á. Trên cơ sở sự mở rộng của Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), các phương thức hợp tác ASEAN+1, ASEAN+3,… đều được Việt Nam và Lào tích cực hưởng ứng. Đặc biệt, chương trình hợp tác GMS với sự hỗ trợ và tham gia của ADB là trụ lực chính trong tiến trình hợp tác của tiểu khu vực này.

Đây là cơ hội lớn và điều kiện quan trọng để các nước GMS nâng cao năng lực phát triển toàn diện; đồng thời, nó cũng đặt ra một thực tế là các nước GMS sẽ không thể phát triển đơn lẻ, biệt lập mà luôn phải gắn kết trong chương trình phát triển tổng thể của GMS, gia tăng hơn nữa sự phối hợp giữa chính sách quốc gia và chính sách khu vực. Như vậy, với những điều kiện quốc tế và khu vực mới, Việt Nam và Lào đang có cơ hội khai thác vị trí địa lý, tiềm năng và lợi thế của riêng mỗi nước nhằm bổ sung cho nhau cùng phát triển.

Việt Nam với thế mạnh về kinh tế biển và vận tải biển, có thể phát huy vai trò là “cửa ngõ” ngắn nhất ra biển của Lào, để Lào có điều kiện lưu thông thương mại quá cảnh với khu vực và quốc tế. Tương tự như vậy, với tư cách “một trạm trung chuyển” trong nền kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng, có lợi thế về vận tải và thương mại quá cảnh, Lào có thể giúp Việt Nam mở rộng thị trường vào nội địa Đông Nam Á, châu Á và thế giới.


Каталог: files -> thong bao -> 2012
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung
2012 -> Quyết định số 220-QĐ/tw ngày 17/4/2009 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

tải về 0.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương