Thánh Thể Hy Tế tuyệt vời giới thiệU


NGƯỚC MẮT LÊN! ĐÓN CHÀO GIÊSU!



tải về 1.6 Mb.
trang22/23
Chuyển đổi dữ liệu17.11.2017
Kích1.6 Mb.
#34398
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23

NGƯỚC MẮT LÊN! ĐÓN CHÀO GIÊSU!

Vào lúc linh mục thực hành nghi thức dâng Thánh Thể lên, các tín hữu hãy đưa mắt nhìn lên bàn thờ, cung kính chiêm ngắm Mầu nhiệm đáng tôn thờ này. Đây là việc đẹp lòng Thiên Chúa và sinh ích cho linh hồn mỗi người, như Chúa Kitô mặc khải cho một vị thánh rằng: “Kẻ nào mỗi lần ngắm nhìn Thánh Thể với tâm tình thờ phượng sốt mến, hoặc nếu không thể được mà có lòng ước ao làm như vậy, thì nó sẽ được thêm phần thưởng trên trời và được hưởng mức độ hạnh phúc riêng dành cho những ai yêu thích sự ngắm nhìn đem lại ơn phúc này.” Đây là phần thưởng rất hậu hĩ, đừng ai bỏ phí.

Việc sốt sắng ngắm nhìn Thánh Thể mang lại biết bao ích lợi cho ta này có thể thực hiện theo một trong nhiều cách ghi trong Cựu Ước. Trong chương 22 sách Dân Số ta đọc thấy rằng khi dân lẩm bẩm kêu trách Chúa và ông Môsê, Chúa cho rắn độc đến cắn chết nhiều người. Họ chạy đến ông Môsê nhờ ông cầu nguyện cho. Chúa nói với ông: Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống (Ds 21,8). Vâng theo chỉ thị này, Môsê làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột cao, những kẻ bị rắn cắn đều được chữa lành nhờ nhìn vào con rắn đó. Ta biết rằng con rắn đồng đó là biểu trưng cho Chúa Kitô, khi Ngài nói: Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được dâng cao như vậy (Ga 3,14). Nếu như việc nhìn lên con rắn đồng đủ sức giúp cho người dân Israel khỏi chết, vì bị rắn độc cắn, thời việc người đạo đức ngước nhìn lên chính Chúa Kitô, được giương cao lên trong Thánh Lễ, còn có hiệu lực biết mấy để chữa lành linh hồn những kẻ nhiễm nọc độ chết người là tội lỗi, để an ủi những kẻ ưu phiền và tăng thêm sức mạnh cho kẻ yếu đuối.

Khi Thánh Thể được dâng cao lên cho ta chiêm ngưỡng, trước hết đó là điều cần thiết để đánh động đức tin sống động vào sự hiện diện thực sự, chính con người của Chúa chúng ta trong Bí Tích Thánh thể, trong vai trò là Đấng cứu rỗi và chuộc tội ta, dâng mình làm lễ tế lên Thiên Chúa Cha để khẩn cầu cho ta là những kẻ tội lỗi đáng thuương.

Việc thực hành đức tin này thật đáng khen, bởi vì điều ta tin không thể chứng minh bằng giác quan và vượt trên mọi sự hiểu biết của lý trí. Hành vi đức tin này đáng được ân thưởng như Chúa Kitô đã nói: Phúc cho những ai không thấy mà tin (Ga,29). Nghĩa là: những người, dù họ không thể nhìn thấy Ta trong phép Thánh Thể bằng mắt trần, nhưng vẫn tin thật Ta hiện diện trong đó, những người ấy thực hành một nhân đức tuyệt vời đến nỗi, nhờ đó, họ được hạnh phúc đời đởi. Càng năng làm việc này ta càng được thông chia nhiều hơn ân sủng ở đời này và vinh quang cho đời sau,

Câu chuyện sau đây trích từ trong tiểu sử nhà thần học lừng danh Hugh, làm chứng về việc này. Vị linh mục thánh thiện này đã từ lâu có lòng mong ước được nhìn thấy Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể và nhiều lời cầu nguyện của ngài chứa đựng hoài bảo này. Cuối cùng, lời xin cũng được, điều mong cũng thành. Một ngày kia, trong lúc dâng Thánh Lễ ngài thấy Chúa Hài Đồng nằm trên Khăn Thánh. Đang lúc òn say sưa với niềm vui ngất ngây, chợt nghe tiếng Chúa thỏ thẻ bên tai: “Này Hugh, bởi vì con đã được thấy Ta bằng mắt trần nên con sẽ không được hưởng ơn ích nào nhờ lòng tin nữa.” Nói xong Hài Nhi biến mất, bỏ lại vị linh mục đang vô cùng tiếc nuối về bao công trạng bị mất đi do việc nhìn thấy nhãn tiền sự hiện diện của Chúa Kitô. Xin cho mẫu gương này củng cố lòng tin của ta, đồng thời khích lệ ta nắm chắc rằng khi ngước nhìn lên Thánh Thể ta cũng xứng đáng được nhìn thấy Chúa và giục lòng tin vững vàng vào Người.

Thánh vương Louis nước Pháp có cảm nghiệm rất sâu xa về giá trị của lòng tin. Một ngày kia, khi vị linh mục cử hành Thánh Lễ trong nhà nguyện hoàng cung dâng Thánh Thể lên, mọi người có mặt ở đó đều thấy trong tay vị linh mục ấy là một Hài Nhi rất dễ thương. Một người hầu cận chạy đi tìm nhà vua, lúc đó không có mặt ở trong nhà nguyện, xin ngài mau tới xem việc lạ lùng này. Nhưng vua thánh bình tĩnh trả lời: “Cứ để những kẻ không tin đến xem Chúa Hài Nhi; còn phần trẫm thì trẫm đã tin rằng: Người thực sự hiện diện trong phép Thánh Thể rồi nên trẫm chẳng cần thêm bằng chứng nào nữa.” Điều này không có ý nói rằng vị vua thánh thiện này không cảm thấy bị thôi thúc theo lẽ thường tình đến xem Chúa bé thơ xinh đẹp, nhưng ngài từ chối ân huệ được nhìn thấy tỏ tường để không bị mất phần thưởng dành cho kẻ tin vào điều mình không thấy và nhờ vậy sẽ được vinh quang hơn. Hãy bắt chước gương vị vua tốt lành này, và cho dù có mong ước được nhìn thấy Chúa Kitô trong phép Thánh Thể bao nhiêu đi nữa, hãy cứ bằng lòng sống trong niềm tin và an ủi mình rằng ta sẽ được nhìn ngắm tỏ tường Thiên Chúa trong vinh quang rạng ngời sau này.

Tiếp theo hành vi giục lòng tin và thờ lạy phép Thánh Thể là hành vi dâng tiến. Dâng tiến Thánh Thể là một hành vi có giá trị đền tội thực tế và hữu hiệu nhất cho kẻ có tội. Nói cách khác. Không có phương cách nào hữu hiệu hơn để làm nguôi cơn giận của Chúa hơn là dâng lên Người Mình và Máu Con yêu dấu Người trong phép Thánh Thể. Những kẻ có tội hãy nhớ điều này, tiếp sau việc nâng Thánh Thể lên là việc hết lòng dâng tiến Thánh Thể để xin ơn tha thứ tội lỗi của mình. Điều này áp dụng cho mọi người hiện diện trong Thánh Lễ, dù là kẻ phạm tội trọng, hoặc tội nhẹ hoặc không rõ tội.

Rồi đến việc dâng Chén, cũng có ý nghĩa đặc biệt và hiệu lực siêu nhiên. Vì qua đó, Máu Châu Báu Chúa Kitô lại chảy ra cách nhiệm mầu và rảy trên hết mọi người hiện diện, như lời truyền phép rằng: “Đây là Chén Máu Thầy… đổ ra vì anh em và nhiều người để được ơn tha tội.” Bởi thế, khi tham dự Thánh Lễ, là lúc như thể ta đang đứng trên đồi Canvê, dưới chân Thánh Giá với lòng buồn sầu nặng trĩu, được thấm Máu Thánh Chúa rảy trên mình để tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Giờ đây cũng vậy, ta cũng được chính Máu ấy của Chúa rảy trên mình để tẩy sạch mọi lỗi lầm, nếu ta có lòng ăn năn thống hối.

Thiên Chúa ban huấn lệnh cho dân Israel: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con…lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên… vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng họa trên đất Ai Cập (Xh 12,3.7.13). Nếu máu của chiên vượt qua, bôi trên khung cửa, mà còn cứu được dân này khỏi bị trừng phạt, thì Máu Con Chiên Tinh Tuyền của Thiên Chúa, đổ ra vì chúng ta trên Thập Giá và còn tái hiện hằng ngày trên bàn thờ lại chẳng có nhiều sức hơn biết mấy để che chở ta khỏi thần dữ như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé (1Pr 5,8) sao?

Thế còn những kẻ không có mặt tại nhà thờ cần phải làm gì? (Thời xưa, có thói quen đổ chuông nhà thờ vào lúc dâng Thánh Thể lên), như là một dấu hiệu báo cho mọi người biết rằng Chúa Kitô đã được dâng lên trong Thánh Lễ. Khi nghe chuông mọi người quỳ xuống, hướng mắt nhìn về phía nhà thờ để lạy Chúa. Đây là một thói quen tốt lành đáng khen.

TA PHẢI CÓ THÁI ĐỘ NÀO SAU TRUYỀN PHÉP

Sau khi dâng Mình Thánh Chúa Kitô, ta chẳng cần làm gì khác ngoài việc lần theo các cử chỉ của linh mục, nên ta cũng có bổn phận tiến dâng, vậy ta nên bắt chước các việc ngài làm. Sau khi đặt Chén lại trên khăn thánh, ngài thưa: Lạy Cha chúng con cử hành việc tưởng nhớ Chúa Kitô, Con Cha… và với muôn ơn được ban, chúng con dâng lên Cha, là Thiên Chúa quyền uy và vinh quang hiến lễ hoàn hảo và thánh thiện là Bánh sự sống và Chén cứu độ muôn đời này.” (Kinh Tạ ơn I).

Theo Sanchez, trong Thánh Lễ chẳng còn lời nào có sức đem lại an ủi hơn những lời kinh sau truyền phép, vì cả linh mục lẫn toàn dân chằng ai có thể làm gì tốt hơn là dâng lên Chúa Hiến Lễ này. Việc vội vàng lo giục lòng sốt mến cá nhân có thể khiến ta bỏ mất phần tiến lễ, hoặc chỉ lo dâng những lời cầu xin chẳng mấy giá trị so với lễ tế quý giá không sao nói đuợc; làm như vậy hóa ra ta bị thiệt rất nhiều.

Là những thụ tạo khó nghèo, ta có thể dâng được gì lên Thiên Chúa là Đấng vô cùng giàu có? Dù có nhân đức hay trong tình trạng ân sủng, ta vẫn còn thiếu thốn, nhưng nhờ Thánh Lễ chắc chắn ta có một kho tàng vô gía gồm mọi sự sang giàu trên trời dước đất. Liên hệ đến việc này, thánh Phaolô viết: Đến như chính Con Một Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (Rm 8,32). Chẳng những Thiên Chúa đã trao nộp Người Con trong quá khứ xa xưa, mà Người còn trao nộp lại hoài trong các Thánh Lễ (như đã đề cập rất nhiều trên đây), và cùng với Người Con ấy, Thiên Chúa ban cho ta mọi của cải của Người, hầu ta có phương tiện thanh toán nợ nần và mua sắm kho tàng vĩnh cửu. Vì vậy hãy biết dùng của cải mình có và trong Thánh Lễ dâng nó lên Cha trên trời với những lời như sau:

“Lạy Cha, con xin dâng lên Cha Hiến Lễ này; xin dâng lên Cha Người Con chí ái của Cha, Đấng đã nhập thể, đã sinh ra, đã sống, đã chịu khổ hình; Con xin dâng lên Cha mồ hôi pha lẫn Máu của Người, và việc Người chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, chịu vác Thánh giá, chịu chết đau thương, máu chảy chan hòa; con xin dâng lên Cha mọi việc Người làm và mọi đau đớn Người phải chịu vì con, giờ đây lại được tái hiện trong Thánh Lễ này để làm vinh danh Cha và xin cho con được ơn cứu độ. Amen.”

Lời kinh đơn sơ nhưng hữu ích này nên thuộc lòng và đọc lên sau mỗi lần truyền phép. Ta hẳn đã biết rằng hành vi dâng tiến này đem lại công hiệu biết mấy và thu về được nhiều ơn ích, vì chính Chúa Kitô đã phán rằng kẻ nào lấy cuộc khổ nạn và công nghiệp của Chúa mà dâng lên như của riêng mình thì sẽ nhận lại được gấp đôi. Vì thế, mỗi khi tham dự Thánh Lễ ta nên tập thói quen xin Chúa sửa lại những nguội lạnh và bất toàn trong lễ dâng của ta và xin Người thay ta dâng Hiến Lễ lên Chúa Cha. “bởi vì, Lạy Chúa, con biết mình chẳng thể nào dâng lễ này cho nên, vì thế, con nài xin Chúa hãy thay con và vì con dâng lễ này lên Cha Hằng Hữu.

Sau hết, hãy cố gắng tham dự Thánh Lễ với sự chú tâm và lòng tôn kính. Không nói cười với kẻ khác, không rời bỏ chỗ nếu không có việc cần kíp từ lúc truyền phép tới khi rước lễ, vì lúc đó Chúa trực tiếp hiện diện. Người cúi xuống để hỏi thăm ta. Tội phạm vào lúc ấy là trường hợp gia trọng, vì là sự phạm vào hành vi phụng tự cao nhất, là xúc phạm đến Chúa. Đấng thân hành ngự đến để tái hiện công trình cứu chuộc của Người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng những kẻ chuyện trò đùa cợt trong thời gian cử hành Thánh Lễ đáng bị sét đánh. Ngài kêu gọi họ ghi nhớ điều này, còn đối với những kẻ chẳng chịu cải sửa, ngài cảnh cáo họ, rằng họ sẽ phải trả lẽ về việc đó trước tòa Chúa phán xét THAM DỰ THÁNH LỄ VỚI THÁI ĐỘ CUNG KÍNH

Trong sắc lệnh của Công Đồng Trentô, Hội Thánh dạy ta phải có thái độ cung kính khi dự lễ. Chúng tôi thấy cần phải thú nhận rằng không có việc nào khác do người tín hữu thực hành mà lại linh thiêng và thánh thiện như chính mầu nhiệm diệu kỳ này, nơi đó lễ vật đem lại sự sống được linh mục tiến dâng hằng ngày trên bàn thờ, hiển nhiên là với tất cả sự siêng năng, cần mẫn, với tâm hồn thanh sạch và trái tim tinh tuyền cùng với sự biểu lộ ra bên ngoài vẻ sốt sắng đạo đức (Khóa 22). Cả linh mục lẫn giáo dân đều ghi nhớ điều này – linh mục thì cử hành Thánh Lễ hết sức sốt sắng, còn giáo dân thì tham dự với lòng nhiệt thành.

Theo sử gia Josephus, tại đền thờ Do Thái hằng ngày có bảy trăm tư tế và lêvi phục vụ; họ giết các con vật làm lễ tế, rửa sạch chặt ra từng mảnh và thiêu chúng trên bàn thờ trong khi vẫn giữ thái độ hết sức cung kính và im lặng tuyệt đối đến độ như chỉ có một tư tế hành lễ.

Các Kitô hữu thời tiên khởi cũng như vậy. Thánh Gioan Kim Khẩu kể rằng khi vào nhà thờ họ cúi mình hôn đất; trong khi cử hành Thánh Lễ, bầu không khí im lặng bao trùm khắp nhà thờ đến độ như thể không có một ai trong nhà thờ cả. Độc giả có thể nhớ lại lời trong phục vụ của thánh Giacôbê: “Mỗi người hãy giữ thinh lặng và run lên vì sợ hãi; đừng để lòng trí mình chất chứa những chuyện dưới đất, vì Vua trên các vua, Chúa trên các chúa sắp ngự xuống, được Hiến tế trên bàn thờ và Người trao ban chính Người làm lương thực nuôi sống các tín hữu.” Thánh Máctinô trong nhà thờ chỉ quỳ hoặc đứng chứ không bao giờ chịu ngồi, và ngài cầu nguyện với nét mặt sợ sệt. Khi được hỏi vì sao như vậy, ngài trả lời: “Sao tôi có thể không run sợ khi diện kiến Chúa là Thiên Chúa của tôi được?” Vua Đavít cũng diễn tả cùng một cảm nghĩ như thế khi ngài nói: Được bước vào nhà Chúa, con hết lòng kính sợ, hướng về đền thánh mà phủ phục tôn thờ (Tv 5,8)

Lời Chúa nói với ông Môsê từ bụi gai cháy bừng bừng cũng có thể trích dẫn hợp lý ở đây: Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh (Xh 3,5). Nhà thờ của chúng ta phải quý trọng biết bao, vì đã được Giám mục thánh hiến làm nơi dâng Hiến Lễ hằng ngày. Đavít xưa phải run sợ khi bước vào nhà Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước; phương chi chúng ta là những kẻ tội lỗi chúng ta càng phải sợ hãi và hết lòng cung kính khi bước vào nhà thờ nơi có Chúa Giêsu Thánh thể hiện diện, nơi cử hành Thánh Lễ, và cung kính tham dự Mầu Nhiệm cao trọng trên mọi mầu nhiệm. Chính Thiên Chúa cũng ra chỉ thị: Các ngươi phải … kính sợ thánh điện của Ta (Lv 26,2) Mệnh lệnh này thích hợp với các nhà thờ của chúng ta hơn là với nhà tạm của dân Israel, cũng như cái thang Giacóp và bàn thờ ở Bêthel biểu trưng cho nhà thờ Kitô giáo hơn là cho đền thờ của vua Salomon. Chúng ta có thể nói rất đúng về các thánh đường của chúng ta: Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác (St 28,17).

THÁI ĐỘ CUNG KÍNH NƠI NHÀ CHÚA

Thật đáng trách khi có người coi nhà thờ chẳng có gì đáng trọng hơn nhà riêng của họ, họ chẳng hề nghĩ đó là nhà Chúa, nơi con Đấng Tối Cao cư ngụ. Một số người chẳng còn biết ngượng khi cứ quay ngang quay ngửa, cứ trố mắt nhìn xem ai vào ai ra, truyện trò cười cợt trong Thánh Lễ, là lúc các Thiên Thần luôn luôn phải phủ phục. Với những hạng người như thế, Chúa Kitô có thể dùng những lời xưa kia Người đã nói với những kẻ buôn bán trong đền thờ: Nhà Ta là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp (Lc 19,46)

Khi cắt nghĩa đoạn này, Cornêliô a Lapiđê nói: “Nhà thờ Kitô giáo thực sự là Nhà Chúa, vì có Chúa Kitô ngự trong Bí Tích cực thánh trên Bàn Thờ. Nếu Người đã từng dùng roi đánh đuổi những người DoThái khỏi đền thờ, thì người Kitô còn đáng bị xử tệ hơn thế nữa khi họ báng bổ nơi thánh này bằng những câu truyện vãn, nhìn ngang nhìn ngửa và trố mắt nhìn xem ai ra ai vào.”

Về chuyện nhìn vào người này nhìn vào người kia lúc dâng Thánh Lễ, Chân Phước Veronica ở Binasko kể lại kinh nghiệm sau đây: “Có một lần vì tò mò, trong giờ dự Thánh Lễ tôi nhìn vào một chị đang quì gần bàn thờ, thì Thiên thần của Chúa luôn ở cạnh tôi đã mắng tôi nặng lời khiến tôi hầu như bất tỉnh vì khiếp sợ. Thiên Thần nhìn tôi một cách đáng sợ khi ngài nói: “Tại sao con không nhìn vào lòng mình? Tại sao lại tò mò nhìn chị em con? Con đã xúc phạm nặng đến Chúa đấy.” Thiên Thần nói với tôi như thế, và theo lệnh của Chúa Kitô, Thiên Thần truyền tôi phải làm một việc đền tội rất nặng, khiến tôi phải khóc suốt ba ngày. Bây giờ mỗi khi dự Thánh Lễ, tôi không dám quay ngang quay ngửa nữa, vì sợ làm phật lòng Chúa.

Tò mò nhìn người này người kia đã là tội, huống hồ nói truyện trong nhà thờ và khi dự Thánh Lễ thì càng lỗi nặng đến thế nào. Kiềm chế miệng lưỡi dễ hơn kềm chế con mắt rất nhiều, vì thế nói chuyện trong nhà thờ thì có lỗi nặng hơn là nhìn ngang nhìn ngửa; hơn thế, làm như thế không chỉ xúc phạm đến Chúa, mà còn gây gương mù gương xấu và làm cho những người khác đang cầu nguyện phải chia trí. Để tránh phạm lỗi này, chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu: Tôi nói thật cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi lời vô ích mình đã nói (Mt 12:36). Nếu chúng ta phải trả lời về mọi lời vô ích mình đã nói, thì hẳn Đấng Thẩm Phán chí công sẽ nghiêm phạt những lời vô ích chúng ta nói ra khi dự Thánh Lễ, vì nó chứng tỏ chúng ta thiếu sự cung kính trong việc thờ phượng Người!

Để cho thấy thái độ cung kính đúng mức cần có đối với Hy Tế Thánh Lễ, chúng ta luôn luôn quì gối xuống. Bởi vì nếu Thánh Phaolô nói: Như vậy khi vừa nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quì (Pl 2,10), thì chúng ta phải quì gối sâu hơn nữa khi chính Chúa Cứu Thế đích thân hiện diện trên bàn thờ, và công trình cứu chuộc chúng ta được tái hiện. Một số người có thói quen đứng suốt buổi lễ, chỉ quì gối lúc truyền phép, rồi lập tức đứng dậy sau đó, thậm chí thản nhiên ngồi xuống, như thể Chúa không còn hiện diện nữa. Thái độ này quá ư là vô lễ và đi ngược lại truyền thống của Hội Thánh. Những ai không thể quì suốt giờ thì ít ra cũng phải quì từ lúc truyền phép cho tới sau khi linh mục rước lễ. Các bà mẹ phải để các con nhỏ ở nhà, vì chúng không chỉ quấy rầy chính bà khi đem chúng đi lễ, mà còn làm những người khác chia trí, đôi khi cả chủ tế cũng bị chia trí. Nhưng các em lớn hơn thì có thể đưa đi lễ.

Một thói quen rất đáng tranh cãi là việc các phụ nữ trang điểm quá đáng khi dự Thánh Lễ. Thánh Giáo Hoàng Linô thường xuyên nhấn mạnh phái nữ phải giữ lệnh truyền của các tông đồ, là mọi phụ nữ khi vào nhà thờ phải có mạng che mặt. Thánh Carôlô Borômêô quen nói rằng phụ nữ mà không có mạng che mặt thì không được phép vào nhà thờ. Theo Thánh Clêmentê Alexandria, lý do đưa ra lệnh truyền này là để tránh sắc đẹp của phụ nữ có thể làm chia trí phái nam. Những phụ nữ đến nhà thờ mà ăn nmặc quá cầu kỳ hay lòe loẹt có thể gây tác hại lớn, vì họ lôi kéo sự chú ý của người khác vào bản thân họ đang khi phải dành sự chú ý ấy cho Thánh Lễ, và vì thế họ trở thành dịp phạm tội cho những người khác. Thánh Ambrôsiô nói về những hạng phụ nữ này: “Họ càng nhận được sự chú ý của đàn ông bao nhiêu, họ càng trở nên đáng ghê tởm trước mặt Chúa bấy nhiêu; họ càng được người đời ca ngợi bao nhiêu, thì càng bị Thiên Chúa khinh ghét bấy nhiêu.”

Những phụ nữ khoe khoang như thế, khi nhìn lên Thánh Giá, hãy hình dung như đang nghe tiếng Chúa Kitô nói với họ thế này: “Này con gái của Ta, hãy nhìn Ta bị treo trần truồng trên Thánh Giá, mình đầy máu me và thương tích, để đền bù tội khoe khoang của con, Vì coi thường sự gớm ghiếc của Ta, con trang sức cho mình những thứ xa hoa đắt tiền, và đến trình diện một cách vô liêm sỉ trước mặt Ta trong Thánh Lễ, gây gương mù gương xấu cho người khác. Hãy coi chừng kẻo vì ăn bận diêm dúa như thế, con sẽ bị ném vào hỏa ngục sau khi chết.”

Chớ gì mọi người hãy cảnh giác trước những lời này, và suy nghĩ rằng ăn bận quá khoe mẽ luôn luôn là có tội, có tội hơn là chúng ta có thể tưởng, vì đó là một tội ít khi được ăn năn, xưng ra và quên đi. Hãy xét mình xem bạn sai trái trong vấn đề này tới mức nào khi bỏ quá nhiều thì giờ chăm sóc việc trang điểm con người bạn, gây gương mù gương xấu cho người khác, hay kích thích lòng ghen tị của những người quá nghèo không thể ăn bận như bạn, Vì không để ý đến những tội này, không xưng ra hay ăn năn sám hối, bạn sẽ sống và chết trong chúng, dẫn đến nguy cơ bị án phạt đời đời.

CHƯƠNG 31: CÁC NGHI THỨC THÁNH LỄ VÀ Ý NGHĨA CỦA CHÚNG

Trước khi bắt đầu cắt nghĩa về các nghi thức Thánh Lễ, xin nhắc độc giả lưu ý rằng Thánh Lễ gồm ba phần chính: DÂNG LỄ, TRUYỀN PHÉP VÀ RƯỚC LỄ. Ba phần chính này do chính Đức Kitô thiết lập. Dâng lễ là nghi thức tiếp nhận bánh và rượu do giáo dân cung cấp, và dâng lên Thiên Chúa với lời ngợi khen chúc tụng. Hành vi này đã được làm trong Bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và tạ ơn Cha của Người trên trời. Rồi Người truyền phép bánh với những lời này; ĐÂY LÀ MÌNH THẦY. Cuối bữa ăn, Người cầm lấy Chén rượu, chúc tụng và tạ ơn Cha của Người trên trời. Rồi Người truyền phép rượu với những lời này: ĐÂY LÀ CHÉN MÁU THẦY. Vì vậy Truyền Phép hệ tại việc chủ tế lập lại lời của Chúa Giêsu khi Người nói: Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.

Truyền Phép là phần quan trọng nhất của Thánh Lễ, vì qua đó Đức Kitô hiện diện trên bàn thờ và đó cũng là cốt tủy của Hy Tế, như độc giả đã thấy trong chưong đầu cuốn sách này. Rước Lễ là ăn Thịt và uống Máu Thánh. Hành vi này cũng được làm trong Bữa Tiệc Ly, khi Chúa Giêsu ban Thịt và Máu Người cho các Tông Đồ ăn và uống dưới hình Bánh và Rượu.

Tất cả những nghi thức đi trước phần Dâng Lễ, gồm các Thánh vịnh, Lời Nguyện, Bài Đọc Sách Thánh và bài giảng, trước kia gọi là Thánh Lễ của Dự Tòng, nnghĩa là những người đang học giáo lý nhưng chưa rửa tội, những người này đến dự Thánh Lễ tới hết phần này thì phải rút lui trước khi Thánh Lễ chính thức bắt đầu với phần Dâng Lễ. Thánh Lễ Dự Tòng cũng có thể gọi là phần khai mào hay Nhập Lễ.



PHẦN NHẬP LỄ hay THÁNH LỄ DỰ TÒNG

(Với Luật Chữ Đỏ của Sách Lễ theo Công Đồng Trentô)

Trước Thánh Lễ linh mục vừa rửa tay vừa cầu nguyện xin Chúa ban ân sủng để dâng Hy Tế Thánh với đôi bàn tay sạch và tâm hồn trong trắng. Sau đó ngài mặc lễ phục trong khi đọc những kinh qui định, cầm lấy Chén Thánh và tất cả các đồ lễ đi kèm, rồi đi đến bàn thờ, có các người giúp lễ đi trước.

Khi đến bậc thấp nhất ở chân bàn thờ, ngài bái gối nếu có Mình Thánh trong Nhà Tạm; nếu không, ngài cúi mình trước tượng Chịu Nạn rồi bước lên bàn thờ. Sau khi đặt Chén Thánh lên trên Khăn Thánh được trải ra trên bàn thờ, ngài mở Sách Lễ ra, đánh dấu chỗ đọc rồi trở về giữa bàn thờ. Rồi từ đó ngài đi xuống chân bàn thờ, cúi mình sâu, làm Dấu Thánh Giá và đọc Thánh Vịnh Judica me (“Lạy Chúa, xin xử cho con”). Thánh Vịnh này diễn tả tâm tình mà linh mục và giáo dân phải có trước khi bắt đầu hành vi thờ phượng cao cả nhất này.

Kế đến, linh mục cúi mình sâu và đọc kinh Cáo Mình hay xưng tội chung và người giúp lễ đọc theo nhân danh cộng đoàn. Cả hai đấm ngực giống như người thu thuế ăn năn, để tỏ lòng thống hối các tội. Rồi linh mục đứng thẳng lên ban phép xá giải và cầu xin Chúa ban ơn tha tội cho dân bằng kinh Misereatur (“Xin thưong”) và Indulgentiam (“Xin ân xá”). Sau khi cúi mình, ngài đứng thẳng lên để tỏ ý rằng cả linh mục và giáo dân được nâng lên và an ủi vì biết mình đã nhận được ơn tha tội.

Sau kinh Cáo Mình và các đáp ca, linh mục lên bàn thờ, hôn bàn thờ để tỏ dấu tôn kính Đức Kitô Đấng sẽ ngự xuống làm Tế Vật, và cũng để tỏ dấu liên kết của Đức Ái nối kết chúng ta với các Thánh có thánh tích đặt dưới Đá Bàn Thờ (của bàn thờ được thánh hiến). [Bàn Thờ biểu trưng cho Thiên Chúa là Đấng chúng ta không thể thấy; vì thế Bàn Thờ là một vật Thánh. Khó có thể tiếp xúc với một người mà chúng ta không nhìn thấy, vì thế cả những người ngoại giáo cũng xử dụng các bàn thờ.] Nếu là Đại lễ, linh mục xông hương bàn thờ để tỏ lòng tôn kính sâu thẳm đối với Thiên Chúa. Việc xông hương nhắc chúng ta nhớ rằng các lời nguyện của chúng ta phải bay lên trời như những làn hương bay lên trên không. Người giúp lễ cũng xông hương cho chủ tế để tỏ lòng kính trọng chức thánh và cũng để biểu thị rằng các nhân đức của ngài giống như hương trầm phải góp phần xây dựng và khích lệ toàn thể cộng đoàn.

Rồi chủ tế đến trước Sách Lễ, làm dấu Thánh Giá, đọc Ca Nhập Lễ, bắt đầu Thánh Lễ. Ca Nhập Lễ thường là một câu lấy trong Kinh Thánh hay câu đầu tiên của một Thánh Vịnh có ý nghĩa liên quan đến Mùa Phụng Vụ hay lễ ngày hôm đó. Kết thúc Ca Nhập Lễ bằng kinh ca ngợi Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh: “Sáng danh Đức Chúa Cha,v.v…”

Với tinh thần hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa và cần được ơn trợ giúp của Thiên Chúa cả cho chủ tế và toàn thể giáo dân, linh mục và người giúp lễ luân phiên đọc Kirie eleison, Christs eleison, Kyrie eleison, mỗi câu đọc ba lần dâng lên Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là các câu bằng tiếng Hy Lạp có nghĩa là “Xin Chúa thương xót chúng con, Xin Chúa Kitô thương xót chúng con, xin Chúa thương xót chúng con”.

Tiếp theo lời cầu xin thương xót và ân sủng này là kinh Gloria in excelsis Deo (“Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời”). diễn tả lòng tạ ơn và niềm vui vì ơn cứu chuộc chúng ta được tái hiện trong mỗi Thánh Lễ. Câu đầu câu của Kinh Vinh Danh này là bài ca ngợi khen được các Thiên Thần hát lên lúc Chúa Kitô giáng sinh; phần còn lại là những lời ngợi khen và tạ ơn Thiên chúa. Kinh Vinh Danh là một bài ca của niềm vui, không đọc trong các lễ cầu cho người chết và các Chúa Nhật Mùa Vọng và Mùa Chay, cũng như các ngày có ý nghĩa không vui.

Sau kinh Vinh Danh (hay khi không đọc kinh Vinh Danh, thi ngay sau kinh Xin Chúa thương xót), linh mục hôn bàn thờ rồi quay ra giáo dân và chào: “Chúa ở cùng anh chị em”, người giúp lễ đáp “và ở cùng cha”. Những lời chào muốn nói lên ước nguyện của linh mục đối với cộng đoàn đang hiện diện rằng Chúa sẽ giúp mọi người cầu nguyện trong thần khí và sự thật; vì chúng ta cần Chúa ban ơn đặc biệt để có thể cầu nguyện đúng đắn. Giáo dân đáp lại ước nguyện của linh mục: Xin Chúa phù giúp Cha khi cầu nguyện và dâng Hy Tế Thánh này. Lời chào và câu đáp trả này của linh mục và giáo dân được lặp lại nhiều lần trong Thánh Lễ, để diễn tả mối liên hệ mật thiết giữa linh mục và giáo dân, cũng như sự nâng đỡ và khích lệ lẫn nhau kiên trì và sốt sắng trong việc cầu nguyện.

Rồi linh mục quay lại chỗ Sách Lễ, cúi đầu về phía tượng Chịu Nạn và mời gọi cộng đoàn hợp ý cần cầu nguyện với mình: Chúng ta hãy cầu nguyện. Kinh nguyện tiếp theo gọi là Lời Tổng Nguyện (hay Lời Nguyện Nhập Lễ) vì kinh nguyện này là tóm tắt tất cả các ý nguyện và nhu cầu của Hội Thánh và tín hữu đang hiện diện và được linh mục dâng lên trước nhan Chúa. Kết thúc lời nguyện này bằng câu “Nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con…”, dựa vào lời Chúa Giêsu đã hứa rằng Chúa Cha sẽ mọi ơn chúng ta cầu xin nhân danh Con của Người. Cuối cùng giáo dân thưa: Amen (Ước gì được như vậy)

Lúc đọc câu: “Chúa ở cùng anh chị em và Chúng ta hãy cầu nguyện, linh mục giang hai tay ra, giơ cao lên rồi chấp lại, để tỏ ý rằng mình hướng lên trời để những lời cầu xin của chúng ta được thực hiện. Chấp tay là dấu tỏ lòng khiêm nhường, nhìn nhận chúng ta tự sức mình làm chẳng được gì, nên chúng ta hoàn toàn trông cậy vào Chúa. Trong khi đọc lời Tổng Nguyện, linh mục giang rộng hai tay để nhớ đến Chúa Cứu Thế khi giang tay trên Thánh Giá đã cầu xin cho toàn thể nhân loại.



Каталог: uploads -> Files -> pub dir
pub dir -> Nghị định số 79/2006/NĐ-cp, ngày 09/8/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược
pub dir -> Nghị quyết củA Ủy ban thưỜng vụ quốc hộI
pub dir -> Bm-hapi-13-09 Dïng trong tr­êng hîp dù ¸n ®Çu t­ g¾n víi thµnh lËp Chi nh¸nh Céng hoµ x· héi chñ nghÜa ViÖt Nam
pub dir -> BỘ TÀi chính số: 11660 /btc-tct v/v chính sách thuế tndn đối với lĩnh vực xã hội hoá. CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
pub dir -> QuyếT ĐỊnh của thống đỐc ngân hàng nhà NƯỚc việt nam số 03/2006/QĐ-nhnn ngàY 18 tháng 01 NĂM 2006 VỀ việc kinh doanh vàng trên tài khoảN Ở NƯỚc ngoàI
pub dir -> BỘ TÀi chính cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
pub dir -> Quy đỊnh chung điều Phạm VI điều chỉnh
pub dir -> Thực hiện Nghị định số 08/2001/NĐ-cp ngày 22/02/2001 của Chính phủ quy định về điều kiện an ninh trật tự đối với một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện
pub dir -> CỦa ngưỜi làm ngàNH, nghề kinh doanh có ĐIỀu kiệN
pub dir -> SỔ liên lạC ĐIỆn tử-vnpt school-sms

tải về 1.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương