THƯỢng đẾ, thiên nhiêN, ngưỜI, TÔI & ta


I.QUAN NIỆM CỔ ÐIỂN: BẢN TÍNH TỰ NHIÊN CỦA SỰ VẬT



tải về 0.64 Mb.
trang5/12
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích0.64 Mb.
#21017
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

I.QUAN NIỆM CỔ ÐIỂN: BẢN TÍNH TỰ NHIÊN CỦA SỰ VẬT


Trong tư tưởng thời cổ Hy Lạp và thời Trung Cổ, cái mà bây giờ người ta gọi là luật (tiếng Pháp: droit) hồi đó được hiểu dưới khái niệm công bằng, công lý (justice). Và công bằng, công lý được định nghĩa là: trao cho mỗi người phần mà người đó đáng có. Chữ "luật" vừa nói không có trong ngôn ngữ cổ Hy Lạp. Chỉ có chữ to dikaion (tiếng Pháp: le juste). Tiếng La-tinh là iustum. Khi Aristote bàn về luật, chính là ông bàn về khái niệm dikaion. Mười bảy thế kỷ sau, Saint Thomas cũng làm công việc tương tự.

Công bằng, công lý là mực thước (mesure). Mực thước là vừa phải, không nhiều không ít, không thêm không bớt, trung dung giữa thái quá và bất cập. Với Aristote, đó là luật.

Vậy thì luật tự nhiên là gì? Là cái mực thước sẵn có nơi sự vật, có một cách khách quan, độc lập với ý kiến tùy tiện của mỗi người, có từ muôn nơi, muôn thuở, ở đâu cũng sinh ra những hậu quả giống nhau. Nếu tôi trao đổi một vật gì với anh, cái mực thước tự nhiên sẵn có nơi sự vật, buộc anh phải đưa cho tôi một vật khác có giá trị tương đương. Nếu mực thước đó thiếu, sự trao đổi không phải là trao đổi. Nếu tôi bán vật gì cho anh, anh phải trả cho tôi một số tiền tương đương với giá trị của vật mà anh nhận, nếu không thì không phải mua bán. Luật tự nhiên là luật nằm sẵn nơi bản chất của sự vật, chỉ cần ta khám phá ra mà thôi.

Vài ví dụ nữa: Tại sao giết người là bất công? Bởi vì sự sống là một thứ của cải thuộc vào mỗi người; cướp sự sống đó là không công bằng, bản chất sự vật buộc ta hiểu như thế.

Từ thượng cổ Hy Lạp ví dụ này đã được bàn cãi: Một người gởi cho người khác một đồ vật; như vậy người đó có quyền lấy lại đồ vật giống như quy ước. Luật từ bản chất của sự vật buộc rằng người gởi đồ vật có quyền lấy lại đồ vật đó. Bây giờ, ví thử đồ vật gởi gắm đó là một khẩu súng và người gởi là một tay sát nhân khét tiếng. Phải trả lại chăng? Nguy hiểm quá! Nguy hiểm cho cả cộng đồng. Như vậy, phải chăng chính luật từ bản chất của sự vật buộc phải có ngoại lệ trong bổn phận trao trả? Phải chăng cũng có thể nghĩ ra một giải pháp khác: trả khẩu súng không phải cho chủ nhân của nó, mà cho một người thứ ba, đại diện cho người này và được xem như không có ý định xấu? Nếu vậy, người ta nói: luật tự nhiên buộc, hoặc không trao trả cho chủ nhân, hoặc trao trả cho một người thứ ba.

Lại một ví dụ nữa: một người lấy gỗ của nhà bên cạnh để đóng một cái bàn. Gỗ đó không phải là gỗ của anh ta, vậy luật từ bản chất sự vật buộc anh ta phải trả gỗ lại nếu bị đòi. Nhưng gỗ đó đã thành cái bàn; phá bàn để trả gỗ thì phí quá. Vậy thì, trả nguyên cái bàn hay sao? Như vậy xem ra cũng chẳng mực thước; vì người chủ nhân của gỗ được hưởng công của người khác mà chẳng tốn một giọt mồ hôi. Thế thì, phải trả cho người kia một số tiền ngang với công của người ấy bỏ ra chăng? Nhưng nếu người có gỗ không thích cái bàn thì sao? Luật tự nhiên là thế này: chọn lựa hoặc người chủ đòi phá cái bàn để lấy lại gỗ, hoặc lấy cái bàn và trả một khoảng tiền công cho người kia. 

Người Hy Lạp, và sau đó người La Mã, nói: luật phát sinh từ sự vật. Sự vật có chứa sẵn tính luật. Chính vì vậy mà ngày nay, trong các nước common law, người ta khẳng định rằng thẩm phán không tạo ra luật pháp mà khám phá ra luật pháp trong trường hợp đang xét xử. Cũng chính vì vậy mà ngày nay, trong khi làm luật, người ta cố nhắm thế nào để luật hợp với bản chất tự nhiên. Ví dụ hiện đại nhất ngày nay là trong lĩnh vực thụ thai nhân tạo. Bao nhiêu vấn đề rắc rối được đặt ra, về thế nào là thiên nhiên, thế nào là không thiên nhiên, và về tương quan giữa người mẹ thật - người mẹ sinh lý - và người mẹ cho mượn cái bụng của mình - người mẹ mang thai.

Ðó là vài ví dụ. Bây giờ trích vài câu định nghĩa tiêu biểu.

Platon nói: "Cái tốt nhất có trong mỗi sự vật cũng là cái riêng biệt nhất của sự vật đó". ("Ce qu'il y a de meilleur dans chaque chose [est] aussi ce qui lui est le plus propre").

Aristote diễn tả cùng một tư tưởng: "Cái gì đặc biệt của mỗi sự vật do bản chất, cũng là cái quý nhất, thú vị nhất đối với sự vật đó". ("Ce qui est propre à chaque chose est par nature ce qu'il y a de plus excellent et de plus agréable pour cette chose").

Trong tiếng Pháp cũng như tiếng Anh, có hai danh từ tương đương với nhau, nhưng có một chút sắc thái khác nhau: justice và équité. Tôi không tìm ra được tiếng Việt tương ứng để dịch. Tra cứu từ điển, tôi thấy: équite: công minh, chính trực, công bằng, công lý. Nghĩa là chẳng khác với justice. Tôi đành phải dùng chữ công bằng và chua thêm bên cạnh: équité. Trong Aristote, luật tự nhiên và công bằng (équité) đồng nghĩa với nhau. Và bởi vì luật tự nhiên là cái chuẩn để đo đạt, cân lường, nó là nguyên tắc chỉ đạo cho người làm luật, người xử luật. Do đó phát sinh ra một trong những vấn đề quan trọng từ cổ Hy Lạp: vấn đề luật viết và luật không viết - luật thành văn và luật có sẵn. Équité là luật có sẵn, luật bất thành văn. Xử theo équité có khi là xử khác với luật thành văn. Vấn đề này cũng là vấn đề được bàn cãi nhiều nhất trong triết học nói chung: tương quan giữa cái hiện là với cái tốt hơn, giữa là với phải là, giữa is và ought, giữa sein và sollen, giữa être và devoir être, nghĩa là giữa sự việc (cái là) và nguyên tắc, quy phạm (cái phải là).

Trong cổ Hy Lạp, điều luật (tiếng Pháp: la loi) thường được viết ra thành văn: luật thành văn. Tuy vậy có những quy tắc liên quan đến chính trị, xã hội không được viết thành văn nhưng hàm súc tính bắt buộc, hoặc vì có dính líu đến thần linh, hoặc vì có chứa đựng một lý tưởng đạo đức về thế nầy hoặc thế nọ. Những quy tắc bất thành văn đó nói lên sự thiếu sót hoặc giới hạn của luật thành văn.

Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus trao cho người một thứ luật bất thành văn để con người, khác với con thú, đừng ăn thịt nhau, mà trái lại, cư xử đúng đắn với nhau. Ðến từ Zeus, luật đó là thần linh, nghĩa là không được viết ở đâu cả; nó lẫn lộn vào một nguyên tắc đạo đức về công bằng, công lý; nó vượt lên trên mọi người, nhưng nó nằm sẵn ở nơi mọi người. Như vậy, hai trường hợp có thể xảy ra. Hoặc là luật thành văn của con người phản ánh luật thần linh đó, và như vậy Nhà nước của con người là hình ảnh trung thực của ý muốn của Zeus. Hoặc là luật thành văn không phản ánh được luật của Zeus, yếu đuối, lung lay, thất thường như chính con người, và như vậy, luật đó trái với tính bất di bất dịch, trái với tính hoàn hảo của luật thần linh. Ðây là đầu đuôi của câu chuyện Antigone trong vở kịch của Sophocle:

Vua Créon giết anh của cô Antigone và cấm không được chôn xác. Bất chấp lệnh vua, Antigone chôn xác anh. Cô nói trước mặt vua: "Tôi bất tuân luật của nhà vua, bởi vì luật đó không do Zeus ban bố; đó không phải là công lý... Đó không phải là luật của các thần linh đặt ra cho người, và tôi không nghĩ rằng lệnh của nhà vua đủ sức mạnh để cho phép một người như vua bất chấp những luật khác, những luật không viết ra, bất di bất chuyển của thần linh. những luật đó không phải mới đặt ra ngày hôm nay hoặc ngày hôm qua, mà cũng chẳng ai biết được đã có sẵn từ thuở nào".

Aristote cũng khẳng định như vậy: "Cái gì thiên nhiên là không thay đổi, dù bất cứ ở đâu cũng có cũng một hậu quả như nhau: lửa cháy giống nhau ở Athènes cũng như ở BaTư ". Khẳng định đó lập tức vấp ngay một vấn nạn: nếu quả thật như vậy thì tại sao luật lại thay đổi từ nơi này đến nơi khác, từ thời này qua thời kia? Luật thay đổi như vậy, thì hoặc là luật tự nhiên không có, hoặc là luật tự nhiên cũng thay đổi. Aristote thấy vấn nạn đó. Cho nên ông nói thêm: "mặc dù nơi thần linh, có thể không có gì thay đổi, nơi những con người như chúng ta, có những sự việc hàm chứa một phần của thiên nhiên dù cho toàn thể là thay đổi. Tuy vậy vẫn có một phần thiên nhiên và một phần không thiên nhiên".

Câu nói hơi khó hiểu, nên đã đưa đến hai giải thích khác nhau về quan điểm của Aristote: một cho rằng như vậy là Aristote vẫn thừa nhận tính chất bất biến và phổ quát của luật tự nhiên, một cho rằng như vậy là Aristote có nhận rằng luật tự nhiên cũng thay đổi.

Tôi không đi sâu vào tranh luận hào hứng này, chỉ đưa ra một ví dụ và một lối giải thích chiết trung.

Một ví dụ: Ai cũng có hai chân, đó là thiên nhiên; nhưng tùy hoàn cảnh, có nơi đàn bà mặc quần, có nơi mặc váy, có nơi mặc cả váy lẫn quần, có nơi chẳng cần quần cần váy gì cả, có nơi như ở Scotland, đàn ông lại sính váy, đó là những chuyện không thiên nhiên. Nhưng quan sát những chuyện không thiên nhiên đó, nghĩa là khác nhau đó, vẫn có thể rút ra một nguyên lý thiên nhiên chỉ đạo.

Ðó là một ví dụ cho vui, để đưa đến giải thích như thế này: trật tự tự nhiên của sự vật là bất biến và phổ quát, nhưng sự vật thì thay đổi. Lửa cháy giống nhau ở Hy Lạp và ở Ba Tư, nhưng phong tục, tương quan xã hội, tổ chức chính trị ở hai nơi đó khác nhau. Sự vật vốn thay đổi cho nên nói "bản chất tự nhiên của sự vật" là nói: bản chất tự nhiên của sự vật thay đổi. Luật của các Nhà nước đều phải phù hợp với luật tự nhiên, nhưng vì điều kiện của mỗi Nhà nước khác nhau, nên không phải luật nào cũng giống nhau tuy có thể phù hợp với luật tự nhiên. Bởi vậy, nói như Aristote là nói rằng: trong một luật công bằng, đúng đắn, có một phần là tự nhiên, một phần là công trình của con người (một phần là tự nhiên, một phần là luật), hai phần không đối nghịch nhau. Tại sao? Tại vì luật tự nhiên, khi được áp dụng ở một nơi nào, cần phải được thích nghi hóa, cá biệt hóa để phù hợp với điều kiện của nơi đó. Như vậy, nếu luật nơi này khác với luật nơi kia, điều đó không có nghĩa rằng các luật đó không mang tính tự nhiên, mà có nghĩa rằng luật tự nhiên tìm cách diễn dịch ra, chế biến ra thành luật của mỗi xã hội khác nhau. Nói một cách khác, luật tự nhiên hiện diện một cách nội tại nơi luật của mỗi xã hội. Hễ là luật tốt thì luật nơi nào cũng có một yếu tố chung là luật tự nhiên. Những luật đó không phải là cứu cánh, mà là phương tiện, nhờ đó ý định của thiên nhiên được cụ thể hóa. Như vậy, triết lý của Aristote rút tinh yếu của luật ra từ bản chất của sự vật, nhưng trao cho đầu óc của con người nhiệm vụ truy tầm nơi các sự vật (ví dụ các định chế chính trị đã được áp dụng trong lịch sử) để tìm xem sự vật nào (định chế nào) phù hợp với cứu cánh của thiên nhiên và dùng nó để làm mẫu mực.

Khác với Platon nhìn nguồn gốc của luật từ trên cao xa, ở ngoài con người, vượt khỏi con người, trong quan niệm của Aristote, tuy luật tự nhiên ban giá trị cho luật do người làm ra, nhưng thiên nhiên không nằm ở đâu khác hơn là nơi chính sự vật: phải tìm nơi chính sự vật ý nghĩa và giá trị gốc nguồn của luật tự nhiên .

Tóm lại, trong tư tưởng cổ Hy Lạp về luật, có một sự phân biệt căn bản giữa hai trật tự luật pháp. Một mặt, một luật cao hơn, thần linh hay thiên nhiên, in sẵn nơi ý thức của mỗi người, không cần viết ra chữ; luật đó phổ quát và siêu thời gian. Một mặt, những luật của người, đa dạng, thay đổi tùy theo hoàn cảnh, chính trị, điều kiện xã hội.

Hy Lạp khai mào cho một tranh luận kéo dài cho đến ngày nay mà chẳng có học thuyết nào được mọi người thừa nhận. 

St. Thomas (1226 – 1274) nắm bắt được tư tưởng về thiên nhiên từ Aristote. Như tôi đã nói ở trên, tư tưởng cổ Hy Lạp bị vùi lấp dưới tro từ khi tư tưởng của nhà thờ ngự trị khắp Âu châu. Ðến thời Trung cổ, vào khoảng thế kỷ 13, tác phẩm của Aristote được khám phá ra nhờ những bản dịch chuyển đến từ Tây Ban Nha, từ Ý. Gia tài cổ Hy Lạp rơi vào tay các học giả kinh viện của nhà thờ. Với tài ba đặc biệt, các vị này biện luận rằng: văn hoá cổ đại là bước chuẩn bị cho việc truyền giảng Thánh kinh, các nhà hiền triết của cổ Hy Lạp đã đóng vai trò đưa dân ngoại đạo vào đạo Ki Tô giống như các nhà tiên tri Do Thái đã đem đạo này đến với dân Do Thái. Trong ý nghĩa đó, tác phẩm của Aristote là một thứ bài tựa cho Toàn thư thần học (Somme théologique) của St. Thomas. St. Thomas vừa làm công việc sưu tập, vừa làm công việc tổng hợp: tổng hợp giữa văn hóa Hy Lạp, La Tinh và văn hóa Ki Tô. Với St. Thomas và các nhà kinh viện ở thế kỷ 13, Ki Tô giáo, tuy gốc vẫn là Do Thái, trở thành văn minh Hy Lạp - La Tinh - Ki Tô.

Ðể hiểu quan niệm của St. Thomas về luật tự nhiên, phải bắt đầu ở chỗ bắt đầu, nghĩa là ở lý thuyết Ki Tô về vũ trụ và con người, ở mặc khải và ân huệ của Chúa. Trên điểm bắt đầu này, Ki Tô giáo cắt đứt với tư tưởng Hy Lạp: Hy Lạp quan niệm Thượng đế như Thượng đế - tổ chức (Dieu - organisateur), Ki Tô giáo quan niệm Thuợng đế như Thượng đế - sáng tạo (Dieu créateur). Thượng đế sáng tạo ra trời đất, vũ trụ; trật tự trong vũ trụ, trật tự trong xã hội loài người đều do ở ý muốn của Thượng đế tất cả - nghĩa là đều do ở lý trí của Thượng đế. Hơn nữa, giáo điều tội lỗi tổ tông và sự việc con người đánh mất mình cũng đồng thời làm biến đổi khái niệm về thiên nhiên trong Ki Tô giáo. Bản chất thiên nhiên bị làm hỏng vì tội lỗi tổ tông; con người xa mất bản tính đó. Bởi vậy, giá trị của con người không nằm nơi ý thức về con người mà nó đang có bằng nằm nơi ý thức về con người mà nó đã bị mất rồi.

Làm sao giải quyết cái lỗ hổng, cái khoảng cách giữa con người với bản tính bị mất? Chẳng có cách nào khác ngoài ân huệ và mặc khải của Chúa. Con người không thể vươn đến điều "thiện" được nữa bằng tri thức mà thôi (như Platon nói), mà bằng lòng tin, bằng mặc khải. Từ đây, cái siêu nhiên bổ sung cho cái thiên nhiên. Trên thiên nhiên còn có siêu nhiên, còn có Thượng đế sáng tạo vũ trụ, ban ân sủng cho người bằng lý trí của Thượng đế.

Phần sáng tạo của St. Thomas chính là đã xây dựng một lý thuyết dựa trên lý trí. Chính nhờ lý trí mà con người hiểu được Thượng đế. Làm sao hiểu được? Con người, tương đối, làm sao hiểu được Thượng đế, tuyệt đối? Trong triết học Hy Lạp, Platon chẳng hạn cắt nghĩa rằng con người không thể hiểu tuyệt đối, bởi vì giác quan của con người không toàn hảo, bị hạn chế. St. Thomas, ngươc lại, cho rằng con người có thể hiểu được, mặc dầu đã đánh mất bản tính của mình vì tội tổ tông. Ông lý luận: mặc dầu vậy, nhờ bẩm sinh có lý trí, con người vẫn giữ được trong tâm linh khả năng cảm nhận phương hướng của lý trí Thượng đế. Nhờ lý trí, con người với tới được sự cảm thông với Thượng đế, và do đó nhận ra được sự hiện hữu của Thượng đế. Trong bản chất, con người vốn là một trí tuệ chưa được vẹn toàn, nhưng, nhờ mặc khải và ân huệ, được hướng đến, hướng về, hướng bởi lý trí của Thượng đế.

Như vậy, trên tột đỉnh của cái kiến trúc lý trí thì có lý trí của Thượng đế mà con người chỉ cảm nhận được phương hướng; dưới đó mới đến lý trí của con người. Nguyên tắc tối thượng là Thượng đế mặc khải; con người và sự vật ở trần gian này là do Thượng đế tạo ra bằng lý trí của mình; tất cả việc mà con người có thể làm là vươn tới và tuân phục lý trí đó. 

Nhưng St. Thomas được xem như đã đưa vào lý thuyết của mình một khuynh hướng tự do. Lý thuyết của ông được xem như là điểm gặp gỡ giữa lý trí của Thượng đế với sự tự do mà con người có nhờ lý trí. Con người là tự do, bởi vì nó không phải là một với cái Tuyệt đối. Nó là ý muốn và hành động. Nó muốn và nó hành động bằng lý trí của nó. Nó biểu lộ khả năng lý trí của nó qua tri thức về hành động, hành động hợp với lý trí. Nhưng lý thuyết của St. Thomas không trái gì với chính thống, bởi vì lý trí của con người, như tôi vừa nói ban nãy, được hướng đến, hướng về, hướng bởi... Cái phương hướng thiên nhiên đó là nòng cốt của lý thuyết St. Thomas về luật tự nhiên.

Bởi vậy, St. Thomas phân biệt luật tự nhiên với luật vĩnh cữu. Thượng đế sáng tạo ra trật tự vũ trụ và ban ân sủng cho con người bằng lý trí của mình, nguyên tắc đó, St. Thomas gọi là luật vĩnh cữu. Ðó là luật tối thượng. Thượng đế sáng tạo đó, Thượng đế cai trị đó in vào trong tâm khảm của mỗi người một khuynh hướng thiên nhiên nhắm đến sự thực hiện cứu cánh của mình, tức là thực hiện cái tối hảo của mình. Khuynh hướng đó, các triết gia Trung cổ gọi là luật tự nhiên. Luật tự nhiên nằm dưới luật vĩnh cữu và tham dự vào luật vĩnh cữu.

Khuynh hướng đó có khi là thụ động: đó là khuynh hướng nhận thấy nơi thú vật, nơi những sinh vật không biết cử động. Chúng cứ theo khuynh hướng tự nhiên, chúng cứ thực hiện cứu cánh của chúng một cách tự nhiên: hạt lúa nảy mầm, con ong làm mật. Nhưng nơi con người thì khác. Người là sinh vật có lý trí. Lý trí khiến cho con người biết nhận ra đâu là cứu cánh của nó, đâu là cái tối hảo của nó. Hành động theo lý trí, đó là luật tự nhiên của người. Vì vậy, luật tự nhiên nơi con người tham dự vào luật vĩnh cữu một cách toàn vẹn hơn so với các sinh vật khác. Giống như đối với luật vĩnh cữu, khuynh hướng đi đến cứu cánh cũng mang tính chất lý trí. Nhưng lý trí mà thôi thì không phải là nguyên tắc của mọi sự vật. Nhiệm vụ duy nhất của lý trí là nắm bắt được cái gì là hợp với bản chất của sự vật. Nắm bắt được rồi, thì con người cứ thế mà đi theo, bởi vì nguyên tắc đầu tiên, hiển nhiên và không thể chứng minh được, của lý trí là phải làm điều tốt, tránh điều xấu. Ðiều tốt là khái niệm đầu tiên mà lý trí nắm bắt được khi hành động, bởi vì điều tốt là điều mà mọi sự vật đều thích muốn. Do đó, làm và tránh điều xấu là luật tự nhiên đầu tiên. Trên nguyên tắc đầu tiên đó, tất cả mọi nguyên tắc khác của luật tự nhiên được xây dựng.

Ðó là mối quan hệ cá nhân giữa con người với Thượng đế, con người trách nhiệm trước Thượng đế. Trong mối quan hệ giữa con người với xã hội - bởi vì con người là con vật xã hội - đâu là lý trí chỉ cho biết điều tốt, điều xấu, thế nào là tốt để vươn đến, thế nào là xấu để tránh đi? Làm sao có thể phán đoán giống nhau được về cái tốt cái xấu giữa những người, những xã hội sống trong những hoàn cảnh, những điều kiện khác nhau? Câu hỏi đó đưa đến nhận xét này: trong lĩnh vực luật pháp, không thể tránh được những luật thay đổi và khác nhau tùy nơi tùy lúc.

Dù sao đi nữa, ở bất cứ thời nào, nơi nào, luật của người làm ra đều phải hợp với luật tự nhiên, đều phải bắt nguồn từ luật tự nhiên, nếu không thì không phải là luật5. Tại sao? Tại vì ý muốn con người không thể thay đổi thiên nhiên. St. Thomas còn đi xa hơn nữa: luật của người làm ra chỉ có thể được gọi là đúng đắn, công bằng nếu vươn đến luật tự nhiên. Nghĩa là: ý muốn của con người, muốn được gọi là ngay thẳng, phải hành động hợp với hướng của lý trí. Mà lý trí thì có nhiệm vụ khám phá đâu là hợp với bản tính sự vật. Nếu lý trí con người thực hiện đúng đắn nhiệm vụ của nó, luật mà nó gợi ý cho ý muốn là luật tự nhiên. Nói một cách khác, luật làm ra phải luôn luôn vươn đến chỗ tốt nhất, chỗ đúng đắn nhất, công bằng nhất, chứ không phải tự bằng lòng dừng lại ở chỗ không bất công. Người xử kiện cũng vậy. Hay nói một cách khác nữa, luật của người làm ra đối với luật tự nhiên cũng giống như luật tự nhiên đối với luật vĩnh cưu của Thượng đế. Giữa ba thứ luật, có một sợi chỉ hồng nối kết từ thấp lên cao: đó là lý trí, mà nói theo thuật ngữ của các nhà thần học thì là lý trí ngay thẳng (tiếng La tinh: Ratio recta).


---o0o---



tải về 0.64 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương