Thiên vân quách văn hòa trong thi văn năM 2011 LỜi tựA



tải về 15.16 Mb.
trang20/134
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích15.16 Mb.
#30102
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   134

CUNG DÂU TÊN CỎ

Bởi thành ngữ Hán “Tang hồ bồng thỉ 桑 弧 蓬 矢” là cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng

Ngày xưa, khi sinh được con trai, người ta thường lấy cung gỗ dâu, tên cỏ bồng để bắn ra bốn phương và trên dưới, ngụ ý nói đứa trẻ sau này có chí tung hoành ở bốn phương trời đất.

Xem: Tên cỏ cung dâu.



Xem dường cuồng khấu biên đình,

Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CUNG ĐẰNG

Bởi chữ “Đằng Vương Các 滕 王 閣” tức gác Đằng.

Cung Đằng như chữ gác Đằng là một cái gác được xây tại Hàng Châu, do Đằng Vương Lý nguyên Anh đã xây dựng, lấy hàm tước của vua phong để đặt tên gác.

Xem: Gác Đằng.



Bây giờ mượn gió cung Đằng,

Vì duyên đưa mối xích thằng lại đây.

(Sơ Kính Tân Trang).



CUNG ĐÌNH 宮 庭

Cung: Cung điện, nơi vua ở. Đình: Sân.

Cung đình là chỉ nơi nhà vua ở.



Mây phủ tán, liễu che mành,

Nước non Thiên trúc, cung đình Bồng lai.

(Truyện Phan Trần).



Bài đề rằng: Uổng Tử Thành,

Ở trong rực rỡ cung đình nghiêm trang.

(Dương Từ Hà Mậu).



CUNG HÀN

Tức cung Quảng Hàn, một cái cung do vua Đường Minh Hoàng du nguyệt điện, thấy có biển đề nơi cung trăng: “Quảng Hàn thanh hư chi phủ 廣 寒 清 虛 之 府” nghĩa là một cái phủ rộng lạnh và hư không.

Xem: Quảng Hàn.

Tấc mây đâu bợn cung Hàn,

Trăng hoa phải sự nên bàn mà chơi.

(Hoa Tiên Truyện).



CUNG HẰNG 宮 姮

Cung: Cung điện. Hằng: Hằng Nga.

Do tích Hậu Nghệ xin thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng nga lấy trộm, bay lên và thành tiên trên cung trăng.

Cung Hằng là cung của Hằng Nga, dùng để chỉ mặt trăng.

CUNG KIẾM 弓 劍

Cung: Cây cung. Kiếm: Cây gươm.

Cung kiếm là cây cung và cây kiếm, dùng để chỉ những người võ sĩ, hay các quan võ.



Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,

Khách công hầu ngấp nghé mong sao.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CUNG LẠNH

Bởi chữ “Lãnh cung 冷 宮”, một cái cung lạnh lẽo, không người đến đó, dùng để giam lỏng các phi tần phạm tội, hoặc bị vua ghét bỏ.

Do tích Trần Hoàng Hậu là vợ vua Hiếu Vũ Hoàng Đế có lỗi, nên bị vua đày ra cung Trường Môn. Sau bà nhờ Tư Mã Tương Như làm bài “Trường môn phú”, cảm được lòng nhà vua, do đó được tha trở về nội cung và được vua yêu như cũ.

Tưởng nơi cung lạnh ngòi ngang,

Phú Tương Như dễ mấy vàng chuộc nên.

(Hoa Tiên Truyện).



CUNG MÂY

Một cung nằm trên mây, tức là cung trăng hay cung nguyệt.

Nghĩa bóng: Chỉ mặt trăng.

Tháng tròn như gửi cung mây,

Trần trần một phận ấp cây đã liều!

(Truyện Kiều).



CUNG NGA 宮 娥

Cung: Nơi vua ở. Nga: Người con gái đẹp.

Cung nga đồng nghĩa với cung nữ, chỉ những người con gái đẹp ở trong cung vua.



Cung nga thể nữ theo sau,

Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy.

(Truyện Kiều).



CUNG NGỌC

Tức là Ngọc cung 玉 宮, nơi cung điện làm bằng ngọc, chỉ cung Tiên hay cõi Tiên.

Theo giáo lý Cao Đài, cung Ngọc là cung Bạch Ngọc, tức Bạch Ngọc Kinh, nơi ngự của Thượng Đế.

Lần vào cung Ngọc Diệt Hình,

Khai Kinh Vô tự đặng nhìn quả duyên.

(Kinh Tận Độ).

Nơi cung Ngọc học thông Đạo cả,

Chốn Hư vô Tạo Hóa tìm cơ.

(Kinh Thế Đạo).



Chàng dầu cung Ngọc an ngôi,

Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.

(Kinh Thế Đạo).



CUNG NGUYỆT

Bởi chữ “Nguyệt cung 月 宮”.

Cung nguyệt tức là cung trăng, nơi ở của Hằng Nga, chỉ mặt trăng. Ngoài ra “Cung nguyệt” còn dùng để chỉ nơi ở của người con gái đẹp.

1.- Chỉ mặt trăng:



Xuống khe rồng, lên đảnh hạc,

Mơ màng cung Nguyệt bóng Hằng Nga.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

2.- Chỉ nơi ở của người con gái đẹp:

Chàng vui cung nguyệt trao duyên,

Thiếp sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CUNG NGHÊ

Cung Nghê tức là cung có khúc “Nghê thường vũ y 霓 裳 舞 衣”, chỉ Cung trăng.

Do sách Đường Dật Sử chép: La Công Viễn đưa vua Đường Minh Hoàng lên chơi Nguyệt điện. Vua thấy cung nữ đều mặc áo nghê thường nhảy múa giữa sân điện. Đó là khúc “Nghê thường Vũ Y”.

Xem: Nghê thường.



Mắt phượng đã say miền ngọc thỏ,

Cung Nghê nỡ phụ khúc cầm loan.

(Hằng Nga, Khuyết Danh).



CUNG PHI 宮 妃

Cung: Nơi vua ở. Phi: Các bà vợ của vua.

Cung phi là chức thứ hai, sau Hoàng hậu là vợ chính của vua. Trong nội cung có nhiều chức: Hoàng hậu, Phi, Tần, Tiệp dư, Tài nhân, Mỹ nhân và Cung nữ..



Tay nguyệt lão khờ sao có một,

Bỗng tơ tình vướng gót Cung phi.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CUNG PHỤNG 恭 奉

Cung: Kính cẩn. Phụng: Hầu hạ, chăm sóc.

Cung phụng là hầu hạ và chăm sóc mọi thứ cần thiết cho những người trên như ông bà cha mẹ.



Gởi Tổ Phụ anh (chị) hiền cung phụng,

Gởi sắp em còn sống nơi đời.

(Kinh Thế Đạo).



Cha mẹ chồng tuy gọi tiếng rằng,

Phải cung phụng cũng bằng ruột thịt.

(Phương Tu Đại Đạo).



CUNG QUÁN GIAI

Tây Thi được vua Ngô Phù Sai say mê đắm đuối, cho nên nhà vua truyền cho xây dựng một cái cung đẹp đẽ, trang hoàng những vật quý giá ở tại núi Linh Nham, dành cho Tây Thi làm chỗ vui chơi, gọi là Quán Giai Cung 冠 佳 宮, tức là cung của người đẹp nhất.



Cung Quán Giai, lang hưởng điệp,

Tây Thi chỉn ấy thế loàn;

Thang đậu khấu, quê ôn nhu,

Triệu Thị thật là nước họa.

(Cung Trung Bảo Huấn).



CUNG QUẢNG

Hay “Cung Quảng Hàn” (廣 寒 宮).

Do tích Đường Minh Hoàng, một đêm rằm tháng tám nhờ một vị đạo sĩ tên Thần Tiên Chủ dùng phép đưa lên chơi trên cung trăng, thấy có một tấm biển treo “Quảng Hàn Cung 廣 寒 宮” và “Thanh Hư Phủ 清 虛 府”, rồi lại được xem tiên nữ mặc đủ sắc áo múa hát dưới gốc cây quế.

Nghĩa bóng: Chỉ mặt trăng. Xem: Quảng Hàn.

1.- Cung Quảng:

Thân sao nhiều nỗi bất bằng,

Liều như Cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!

(Truyện Kiều).



Bởi Cung Quảng bóng Hằng nhấp nhóa,

Bởi đền Ngô nghe gã Tây Thi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Cung Quảng Hàn:

Một bầu nồng ba nghìn thế giới,

Cung Quảng Hàn bóng mới loè ra.

(Hoàng Sĩ Khải)



CUNG QUẾ

Cung: Cung điện. Quế: Cây quế, một loại cây thân và cành có mùi thơm.

Cung quế hay Quế cung 桂 宮 là tiếng dùng để chỉ mặt trăng. Theo tích Đường Minh Hoàng du nguyệt điện thì nơi cung trăng có một cây quế rất to, nên Cung quế cũng dùng để chỉ mặt trăng.

Xưa Hán Võ Đế có xây một cái cung gọi là Quế Cung cho nàng Trương Lệ Hoa ở. Cửa cung tròn như mặt trăng. Sân sau dựng một bức tường vôi, tô phấn trắng, giữa sân trồng một cây quế, có ý xây dựng theo như lời tục truyền trên cung trăng.

Chàng dầu cung quế xuyên dương,

Thiếp xin hai chữ tao khương cho bằng.

(Lục Vân Tiên).



Mây tràn cung quế ba canh nguyệt,

Gió thốc cờ mao mấy dặm trời.

(Truyện Vương Tường).



Tuần trăng, trăng đã đứng đầu,

Tròn xoay cung quế một màu long lanh.

(Thơ Bà Nhàn Khanh).



Gương loan phảng phất hồn cung quế,

Giấc bướm mơ màng khách trướng sa.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

(Thập Loại Chúng Sinh).



CUNG TÀNG 弓 藏

Bởi câu “Điểu tận cung tàng 鳥 盡 弓 藏” tức là chim hết dẹp cung tên.

Cung tàng ý muốn nói dùng người trong giai đoạn, xong việc rồi bỏ.

Phạm Lãi giúp Việt Vương Câu Tiễn phục thù, diệt được nước Ngô, được phong là Thượng tướng quân. Phạm Lãi biết tính Câu Tiễn khi hoạn nạn thì có nhau, nhưng khi yên vui thì khó lòng mà an hưởng, vì vậy ông bèn bỏ sang nước Tề, gửi cho Văn Chủng một bức thư có câu: Điểu tận lương cung tàng, giảo thố tử tẩu cẩu phanh 鳥 盡 良 弓 藏, 狡 兔 死 走 狗 烹, nghĩa là chim hết thì cung ná bỏ xó, thỏ khôn đã chết thì chó săn bị nấu.



Hơn nữa Ngũ hồ ai có cấm,

Cung tàng lầu thẩn tiếc thay cho.

(Hồng Đức Quốc Âm)



CUNG TIỄN 弓 箭

Cung: Cây cung. Tiễn: Cây tên.

Cung tiễn tức là cây cung và mũi tên.



Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,

Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CUNG THIỀM

Cung: Cung điện. Thiềm: con thiềm thừ.

Sách Ấu Học có nói trong mặt trăng có con thiềm thừ, một loại với cóc, lưng đen, sống ba ngàn tuổi, đầu có sừng thịt, dưới cổ có tám chữ son đỏ.

Cung thiềm nghĩa bóng chỉ mặt trăng.

Xem: Thiềm cung.



Kêu sương tiếng nhạn lay thềm,

Mảnh thư đưa đến cung thiềm được không?

(Hoa Tiên Truyện).



Cung Thiềm gắng bước cho mau,

Thoát ba Thần phẩm đứng Tam Thiên.

(Kinh Tận Độ).



Nào khi đổ mây mưa đảnh Giáp,

Nào khi lo ấm áp cung thiềm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Đừng đứng dựa sông Tương nhắn khách,

Đừng trông trăng hỏi ngạch cung thiềm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CUNG THƯƠNG 宮 商

Cung thương là hai âm trong năm âm của nhạc Trung Quốc thời xưa, gồm: Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ. Cung thương cũng là hai âm chính của nhạc: Âm Cung là quân, tiếng nghe trầm và chậm, âm thương là thần, tiếng nghe cao và nhanh.



Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

(Truyện Kiều).



So dần dây vũ, dây văn,

Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.

(Truyện Kiều).



CUNG XANH

Bởi chữ “Thanh cung 青 宮” tức cung điện sơn màu xanh

Sách Thần Dị Kinh chép: Ở ngoài biển Đông Hải, núi Đông Minh có một cung điện vách tường bằng đá xanh, ngoài cửa có tấm bảng bằng bạc đề: Thiên địa trưởng nam chi cung 天 地 長 男 之 宮, tức là cung con trai trưởng của trời đất.

Nhân đó người ta gọi nơi ở của Thái tử là Đông cung (Cung ở Đông Hải), hoặc “Thanh cung 青 宮” hay cung xanh.



Cung xanh đang tuổi ấu xung,

Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương.

(Ai Tư Vãn).



Màn kinh giúp sức cung xanh,

Công mông dưỡng đã đành lòng uỷ thác.

(Văn Tế Võ Tánh).



CÚNG DƯỜNG

Dịch từ chữ “Cúng dưỡng 供 養” tức là cúng cho nhà chùa.

Cúng dường nghĩa là đem lễ vật vào chùa để cúng Phật và giúp cho chư tăng ni.

Tương, dưa, rau, muối, cơm chay,

Công phu uổng phí xưa nay cúng dường.

(Dương Từ Hà Mậu).



CÙNG ĐỒ 窮 途

Cùng: Hết, dứt. Đồ: Con đường. Hết đường, không thể đi tới nữa.

Nghĩa bóng: Khốn khổ cùng cực, không biết cách giải quyết cách nào.



Lỡ làng gặp bước cùng đồ

(Thơ Cổ).



CÙNG TƯ 窮 斯

Do chữ trong sách Luận Ngữ: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ 君 子 固 窮, 小 人 窮 斯 濫 矣, nghĩa là người quân tử giữ vững lúc cùng, kẻ tiểu nhân lúc cùng thì làm bậy.

Cùng tư ý muốn nói lúc cùng thì làm bậy.

Túng đường mong quyết chí cùng tư,

E phép nước chưa nên gan sừng sỏ.

(Hàn Nho Phong Vị Phú).



CÙNG THÔNG 窮 通

Cùng: Chỉ lúc bế tắc. Thông: Chỉ lúc hiển đạt.

Cùng thông là nói lúc bế tắc lúc hanh thông. Nghĩa rộng: Lúc khổ cực, lúc thảnh thơi.



Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,

Lớp cùng thông như đúc buồng gan.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Cùng thông dù mặc có trời,

Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



Chờ gặp cố nhân lời dám hỏi,

Hỏi ra cho biết vận cùng thông?

(Đạo Sử).



CỦNG CỐ 鞏 固

Củng là bền chặt. Cố là vững chắc.

Muốn xây dựng việc gì cho bền và vững chắc, gọi là củng cố. Ví dụ: Củng cố địa vị 鞏 固 地 位, nghĩa là tạo địa vị bền vững.

Có tu đức thì thiên hạ mới trị yên,

Có tu nhân thì cơ đồ mới củng cố.

(Sãi Vãi).



CUỐC NGUYỆT CÀY MÂY

Bởi chữ “Canh vân điếu nguyệt 耕 雲 釣 月” tức là cày ruộng trong mây núi, câu cá dưới ánh trăng.

Cuốc nguyệt cày mây dùng để nói cảnh thơ mộng, thanh nhàn và sinh hoạt thanh cao của người ẩn sĩ.

Xem: Cày mây câu nguyệt.



Thanh thần dưỡng tính hôm mai,

Cầm trong cuốc nguyệt, bãi ngoài cày mây.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



CUỘC BỂ DÂU

Bể dâu do câu “Thương hải biến vi tang điền 滄 海 變 為 桑 田”, tức là biển xanh hoá ra ruộng dâu.

Cuộc bể dâu ý muốn nói cuộc đời thay đổi.

Xem: Thương hải tang điền.



Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trong thấy mà đau đớn lòng.

(Truyện Kiều).



Thắm thoát đời qua cuộc bể dâu

Ham vui chỉ chác cuộc mua sầu

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CUỘC TRĂM NĂM

Trăm năm, lấy ý nghĩa từ câu “Bách niên giai lão 百 年 皆 老” là nói vợ chồng cùng sống với nhau đến trăm tuổi già.

Cuộc trăm năm ý chỉ cuộc sống vợ chồng đến trăm tuổi già.

Đạo chồng vợ cũng là đạo trượng,

Cuộc trăm năm cực sướng gởi thân nhau.

(Phương Tu Đại Đạo).



CUỒNG KHẤU 狂 寇

Cuồng: Kẻ ngông cuồng. Khấu: Giặc cướp.

Cuồng khấu là bọn giặc cướp tàn ác hung tợn.



Xem dường cuồng khấu biên đình,

Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CUỒNG PHONG 狂 風

Cuồng: Mạnh mẽ. Phong: Gió.

Gió thổi mạnh, có sức cuốn xoáy dữ dội làm gãy đổ cây cối, gọi là cuồng phong.



Cánh hồng quen với cuồng phong,

Nước non thế giới vẫy vùng tinh trăng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CƯ KỲ 居 奇

Chứa sẵn của lạ.

Do câu “Kỳ hoá khả cư 奇 貨 可 居”, nghĩa là nhân lúc người ta chưa phát hiện mà chọn trước, mong sau được nhờ cậy, của quý có thể để dành đó được.

Đời Xuân Thu, Triệu bắt được Dị Nhân làm con tin mà đối đãi không tốt. Sau Lã Bất Vi mới mua chuộc được Dị Nhân và nói: Thử kỳ hoá khả cư dã 此 奇 貨 可 居 也, tức là món hàng lạ nầy có thể cất chờ giá cao vậy.



Khắp người viễn khách cư kỳ,

Tây dương chung cảng, Cao ly riêng hàng.

(Nhị Độ Mai).



CỬ ÁN NGANG MÀY

Bởi câu “Cử án tề mi 舉 案 齊 眉” tức là nâng bát thức ăn ngang mày.

Mạnh Quang, người đàn bà khéo thờ chồng là Lương Hồng, mỗi bữa cơm, nàng bưng mâm ngang mày để tỏ ý cung kính.

Xem: Lương Hồng Mạnh Quang.



Mặt từ ví chẳng ngại ngùng,

Xắn tay cử án xin dâng ngang mày.

(Tây Sương).



CỰ MÔN 巨 門

Tên một ngôi sao xấu.

Theo số tử vi, năm nào có sao Cự môn chiếu mạng thì năm đó sẽ gặp nhiều tai nạn.

Ngỡ đà qua nạn Cự môn,

Ai hay Thái tuế hãy còn theo đây,

(Quan Âm Thị Kính).



CỰ PHÚ 巨 富

Cự: To lớn. Phú: Giàu có.

Cự phú là nhà giàu có lớn. Như chữ đại phú.



Mình dầu trọng nghiệp nhà cự phú,

Nhờ vợ hiền chí thú mới nên.

(Phương Tu Đại Đạo).



CỬA BỒ ĐỀ

Bồ đề do Phạn ngữ “Bodhi”, dịch nghĩa là tỉnh thức, giác ngộ.

Cửa Bồ đề là cửa vào sự tỉnh thức, sự giác ngộ tức là cửa chùa, cửa Phật.

Cùng nhau nương cửa Bồ đề,

Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.

(Truyện Kiều).



CỬA BỤT

Chữ Bụt do âm chữ Buddha đọc ra, có nghĩa là giác ngộ, người tỉnh thức, tức là chỉ đức Phật.

Cửa Bụt có nghĩa là cửa Phật, cửa chùa.

Sư rằng: Cửa Bụt thênh thênh,

Tòng quyền hãy tạm gởi mình ở đây.

(Nhị Độ Mai).



CỬA CÔNG

Bởi chữ “Công môn 公 門” tức cửa vào công đường, nơi làm việc của các quan.

Như vậy, cửa công tức là chỉ nơi làm việc của quan lại thời xưa.

Rõ ràng của dẫn tay trao,

Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công.

(Truyện Kiều).



Cửa công huyện mãn nha còn,

Dạ thưa lưỡi mõi, cúi lòn lưng cong.

(Ngụ Đời).



Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,

Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Rủi để bước cửa công là khó,

Phần nhiều xem dễ khó tại nơi bà.

(Phương Tu Đại Đạo).



CỬA GIÀ

Chữ Già tức Già lam 伽 藍, từ gọi chung cảnh chùa, chùa chiền, nơi tu học hay thiền định.

“Cửa Già” hay “Cửa Già lam” được dùng để chỉ chùa chiền, Phật tự.

Gió quang mây tạnh thảnh thơi,

Có người đàn việt lên chơi cửa Già.

(Truyện Kiều).



Có khi ướm nguyệt chào hoa,

Lầu son phảng phất cửa Già gió trăng.

(Truyện Phan Trần).



CỬA HẤP GÀ TIỄN PHU

Chẻ cửa làm củi để hấp gà làm tiệc tiễn chồng.

Do tích vợ Bá Lý Hề là nàng Đỗ Thị, người hiền đức, thà ở nhà chịu cực khổ, khuyên chồng đi lập công danh. Nhà nghèo, chỉ có một con gà, lại không củi phải lấy tấm cửa gỗ chẻ làm củi để nấu gà làm tiệc tiễn chồng đi tìm công danh.

Xem: Bá Lý Hề.



Áo trâu đắp đông sương lạnh lẽo,

Cửa hấp gà mở nẻo tiễn phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CỬA HẦU

Bởi chữ “Hầu môn 侯 門”, tức là cửa của các bậc vương hầu, như ta nói cửa quan quyền.

Do điển Thôi Giao đời Đường bán một người hầu thiếp vào nhà một vị vương hầu. Sau đó ông hết sức thương nhớ mà thăm không được, mới làm hai câu thơ: Hầu môn nhất nhập thâm như hải, Tùng thử tiêu lang thị lộ nhân 侯 門 一 入 深 如 海, 從 此 蕭 郎 是 路 人, nghĩa là một khi vào cửa hầu thì sâu như bể, mà từ nay chàng ta như khách qua đường.

Xem: Hầu môn.



Vả nơi rốn bể cửa hầu,

Ra vào vì chút thẳm sâu ngại ngùng.

(Hoa Tiên Truyện).



CỬA KHÔNG

Do chữ “Không môn 空 門” chỉ cửa Phật

Cửa không là từ gọi chung Phật Giáo, bởi vì Phật chủ trương “Vạn pháp giai không 萬 法 皆 空”, tức là muôn sự vật đều không có tự thể riêng biệt, không có tự tánh, không có tính chất thường tại và bất biến. Vì vậy, người đời gọi Phật Giáo là “Không môn” hay Cửa không.

Xem: Không môn.



Khách rằng: Trong hội Vô già,

Cửa không, ngàn giác đấy là từ bi.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Mát mẽ cửa không trăng gió sẵn,

Dẫu chưa nên Phật, cũng nên Tiên.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



Một tiếng U Minh gióng cửa không,

Phồn hoa giục tỉnh giấc đương nồng.

(Đạo Sử).



Đau đớn thế nắn ra tượng Phật,

Lánh khổ nên vụ tất cửa không.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Linh đinh bể khổ dật dờ,

Xin cho thiếp gởi thân nhờ cửa không.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CỬA KHỔNG SÂN TRÌNH

Hay “Cửa Khổng Trình”.



Khổng: Chỉ Đức Khổng Tử. Trình: Chỉ Trình Di.

Cửa Khổng sân Trình có nghĩa là cửa và sân của Khổng Phu Tử và thầy Trình Di, dùng để chỉ chỗ dạy học trò, hay dạy đạo lý của Nho gia.

Xem: Khổng Tử và sân Trình.

1.- Cửa Khổng sân Trình:



Sớm khuya cửa Khổng sân Trình,

Dốc lòng nấu sử sôi kinh chớ rời.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



Ngày tháng mến vui nơi cửa Khổng,

Sa sương chớ ngại đứng sân Trình.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).

2.- Cửa Khổng Trình:

Ðưa chân đến cửa Khổng Trình xưa,

Nét hạnh muốn nên phải gắng ngừa.

(Đạo Sử).



CỬA KHỔNG LÀNG NHAN

Cửa Khổng: Do chữ “Khổng môn”, chỉ về Nho giáo. Làng Nhan: Tức Nhan Hồi, cũng chỉ về đạo Nho.

Cửa Khổng làng Nhan ý nói đạo lý của Khổng Tử và Nhan Hồi, tức chỉ về Nho giáo.

Ải Tần non Thục đường nham hiểm,

Cửa Khổng làng Nhan đạo khó khăn.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



CỬA MẬN ĐÀO

Mận đào do chữ “Đào lý công môn 桃 李 公 門” chữ dùng để chỉ các ông quan có tài năng.

Do tích Địch Nhân Kiệt đời nhà Đường, có tiến cử lên vua 30 người, đều là những bậc hiền tài. Người đương thời khen: Thiên hạ đào lý tận tại công môn 天 下 桃 李 盡 在 公 門, nghĩa là đào lý trong thiên hạ hầu hết ở tại cửa nhà Ngài mà ra.

Cửa mận đào, Cửa mận, Cửa mận tường đào đều được dùng để chỉ nhà quan, nơi quyền quý hay chốn quan trường.

Xem: Sân đào lý.



Vả con người cửa mận đào,

Việc gì mà khéo tìm vào non sâu.

(Truyện Phan Trần).



Ngoài cửa mận đào là khách đỗ,

Trong nhà cam quít ấy tôi mình.

(Quốc Âm Thi Tập).



CỬA MẬN TƯỜNG ĐÀO

Lấy ý từ chữ “Đào lý công môn 桃 李 公 門” là cửa đào, mận, chỉ chung nơi hội họp của những người tài ba lỗi lạc.

Do tích Địch Nhân Kiệt đời nhà Đường tiến cử lên vua đều là những người tài năng, nên người đương thời khen: Thiên hạ đào lý tận tại công môn nghĩa là người hiền tài trong thiên hạ đều ở tại nhà Ngài.

Xem: Cửa mận đào.



Nhà thông đường trúc lòng hằng mến,

Cửa mận tường đào chân ngại chen.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



CỬA NGÔ

Bởi chữ “Ngô môn 吳 門”, chỉ danh tướng nước Tề là Ngô Khởi, một anh hùng hào kiệt đời Xuân Thu.

Lý Bạch có câu: Yên Nam tráng sĩ Ngô môn hào, Thái Sợn nhứt trịch khinh hồng mao 燕 南 壯 士 吳 門 豪, 太 山 一 擲 輕 鴻 毛, nghĩa là đất Yên Nam có kẻ tráng sĩ thuộc dòng hào kiệt họ Ngô (Tức Ngô Khởi), ném non Thái nhẹ như lông chim hồng.

Xem Ngô Khởi.



Cửa Ngô cung kiếm giữ lề,

Trạng đầu may cũng cắm về cửa viên.

(Hoa Tiên Truyện).




tải về 15.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   134




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương