59 |
C h ư ơ n g 0 1 : H à n h T r a n g
Ðông phong bất dữ Chu lang tiện. Ðồng-Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều =
Ngọn gió Ðông nếu không giúp Chu Du (phóng hỏa phá trận Xích Bích) thì
đài Ðồng-Tước đã khóa chặt tuổi xuân của hai chị em họ Kiều. Ý cả câu: nhà
họ Vương có hai cô con gái đẹp cấm cung.
[20]. Giải cấu tương phùng: tình cờ không hẹn mà gặp nhau.
[21]. Ðố lá: trò chơi thi kiếm những lá lạ, phổ biến ở Việt Nam và Trung Quốc thời
xưa. Ðây là dịp để nam nữ có thể gặp nhau.
[22]. Thu không: hiệu đống cửa thành lúc gần tối.
[23]. Hạ tứ: Viết tứ thơ xuống. Ném châu gieo vàng: lời hay ý đẹp, quý như vàng,
như ngọc.
[24]. Nhà huyên: do chữ huyên đường, chỉ người mẹ. Huyên là tên một thứ rau
nấu canh rất ngọt (cây kim châm), tượng trưng cho người mẹ. Trong khi đó
cây thông tượng trưng cho người cha (thung đường.)
[25]. Mạch tương: do chữ tương lệ, nước mắt nhớ người yêu. Tích vua Thuấn đi
tuần thú, chết ở đất Thương Ngô, ven bờ sống Tương; vợ là bà Nga Hoàng và
Nữ Anh ra sông khóc, nước ấy vẩy vào các bụi trúc chung quanh làm cho trúc
có sắc lốm đốm nên gọi là Tương phi trúc.
[26]. Lời bài hát Bông hoa vàng trong cỏ của Nhất Hạnh.
[27]. Thơ Từ An Trinh: Ngân thược trùng quan thích vi tịch, bất như miên khứ
mộng trung khan = Khóa bạc mấy lần nghe chưa thấy mờ, chi bằng ngủ đi,
may được thấy mặt trong giấc mơ.
[28]. Mành Tương: Mành làm bằng giống trúc Tương Phi (Tích Nga Hoàng và Nữ
Anh khóc vua Thuấn ở bờ sông Tương, nước mắt làm trúc bên bờ sông trở
nên lốm đốm)
[29]. Lá thắm: do chữ hồng diệp đề thi (đề thơ trên lá đỏ). Theo Thái bình quảng
ký, đời Ðường, Vu Hựu một hôm tình cờ bắt được chiếc lá đỏ thắm trôi trên
một ngòi nước từ cung vua chảy ra, trên lá có bài thơ: Lư thủy hà thái cấp!
Thâm cung tận nhật nhàn; Ần cần tạ hồng diệp, hảo khứ đáo nhân gian =
Nước chảy sao xiết vậy! Trong thâm cung suốt ngày nhàn hạ; Ân cần tạ lá đỏ,
khéo trôi tới chốn nhân gian. Hựu bèn lấy sắc lá đỏ khác, đề hai câu thơ: Tằng
văn diệp thượng đề hồng oán, điệp thượng đề thi ký dữ thùy? = Từng nghe
nỗi hờn oán của khách má hồng đề trên lá, không biết trên lá đề thơ gửi cho
ai? Rồi đem thả nơi đầu ngòi nước cho trôi vào cung vua. Cung nữ Hàn thị,
người thả chiếc lá đó buổi trước, bắt được. Về sau nhân dịp vua thải ba nghìn
cung nữ, Hàn thị được ra, tình cờ kết duyên với Vu Hựu. Hàn thị nhân làm
bài thơ: Nhất liên giai cú tùy lưu thủy, thập tái ưu tư mãn tố hoài; kim nhật
khước thành loan phượng hữu, phương tri hồng diệp thị lương môi. = Một
đôi câu thơ đẹp trôi dòng nước chảy, mười năm ôm bụng nghĩ ngợi âm thầm;
ngày nay thành được bạn loan phượng, mới biết lá đỏ là bà mối giỏi. Chim
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |