Từ viết tắt Diễn giải



tải về 0.65 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu15.08.2016
Kích0.65 Mb.
#20799
1   2   3   4   5   6   7

3.3. Bối cảnh tỉnh Sơn La

Sơn La là tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam, có lịch sử hình thành và phát triển đến nay đã trên 110 năm. Tỉnh có diện tích 14.125 km2, chiếm 4,27% tổng diện tích Việt Nam, đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh, thành phố. Địa giới giáp các tỉnh Yên Bái, Điện Biên, Lai Châu, Phú Thọ, Hoà Bình, Thanh Hoá và nước CHDCND Lào. Đường biên giới chung với nước CHDCND Lào dài 250 km. Tỉnh Sơn La có 01 thành phố và 10 huyện với 206 xã, phường, thị trấn;

Thành phố Sơn La là trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế của cả tỉnh, có hệ thống giao thông đường bộ khá thuận lợi cho việc lưu thông hàng hoá, trao đổi thông tin, tiếp thu các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến và thu hút vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh. Tỉnh có 02 cửa khẩu quốc gia với nước CHDCND Lào là Chiềng Khương và Pa Háng.

Tỉnh Sơn La được xác định là trung tâm của vùng Tây Bắc theo Quyết định số 384/QĐ-TTg ngày 09/03/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La thời kỳ 2006 - 2020.



3.3.1. Dân số

Hiện nay, tỉnh Sơn La có khoảng 1.100 nghìn người, gồm 12 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Thái chiếm 54,76%, dân tộc Kinh 17,48%, Mông 12%, dân tộc Mường 8,53%. Mật độ dân số năm 2009 trung bình là 76 người/km2, nhưng phân bố không đều. Ở huyện Sốp Cộp trung bình chỉ có 26 người/km2, còn ở Thành phố Sơn La lên đến 238 người/km2. Tỉnh Sơn La quỹ đất còn nhiều, có điều kiện để các trường học đảm bảo chuẩn quy định bình quân diện tích đất trên sinh viên.



3.3.2. Điều kiện tự nhiên

Sơn La có độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt biển, có 02 cao nguyên (Mộc Châu và Nà Sản), địa hình tương đối bằng phẳng, khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh khô, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều, cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong phú. Vùng cao nguyên Mộc Châu phù hợp với cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với phát triển cây rừng nhiệt đới và nuôi trồng thủy sản.

Sơn La có diện tích đất canh tác khoảng 1.405.500 ha, trong đó 39,08% (549.273 ha) đang được sử dụng. Đất đai màu mỡ, tầng canh tác dày với nhiều loại thổ nhưỡng khác nhau cho phép phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, mạng lưới sông suối khá dày với 2 con sông lớn là sông Đà và sông Mã chảy qua cùng hàng trăm con suối với nhiều thác lớn. Diện tích các hồ chứa đạt gần 2 vạn ha là tiềm năng lớn cho ngành công nghiệp thủy điện, cho khai thác nuôi trồng thủy sản. Diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh chiếm 73% đất tự nhiên. Đất đai phù hợp với nhiều loại cây tạo rừng phòng hộ và nhiều vùng kinh tế hàng hóa có giá trị cao. Rừng có nhiều nguồn động vật quý hiếm, có các khu rừng đặc dụng phục vụ nghiên cứu khoa học và du lịch sinh thái.

Sơn La có 150 mỏ và điểm khoáng sản gồm than đá (Trữ lượng trên 40 triệu tấn), đá vôi và đất sét (Riêng mỏ Nà Hò có trữ lượng trên 18 triệu tấn), ni ken, đồng, vàng, bu tan… tạo điều kiện phát triển ngành khai thác khoáng sản.



3.3.3. Tình hình kinh tế - xã hội

Theo Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh Sơn La, trong 5 năm (2006-2010) tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh tăng bình quân 14,2 %/năm; GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 650USD (12,4 triệu đồng), gấp 2,5 lần so với năm 2005. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại gắn với thị trường và phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 50,81% năm 2005 xuống 39,6%; công nghiệp, xây dựng tăng từ 15,78% lên 22,12%; thương mại, dịch vụ tăng từ 33,41% lên 38,28% năm 2010.

Sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản, chăn nuôi tiếp tục chuyển dịch tích cực và phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Đảm bảo an ninh lương thực, đẩy mạnh thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Chương trình phát triển các ngành công nghiệp chủ lực được mở rộng với quy mô hợp lý, phát triển thành các vùng nguyên liệu tập trung. Công tác bảo vệ và phát triển rừng có nhiều tiến bộ, độ che phủ rừng đã đạt 50%, góp phần tăng cường bảo vệ môi trường sinh thái.

Sản xuất công nghiệp có bước phát triển mới. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010 đạt 1.450 tỷ đồng, tăng 2,9 lần so với năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 23,1%.

Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường, hàng hóa, đáp ứng được các yêu cầu kinh tế và đời sống xã hội. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ năm 2010 tăng 2,5 lần so với năm 2005. Du lịch phát triển cả về số lượng khách, loại hình và sản phẩm; hạ tầng du lịch được quy hoạch và đầu tư tập trung.

Chính sách thu hút đầu tư đã phát huy hiệu quả tích cực. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm 2006-2010 đạt 50.220 tỷ đồng, gấp 4,2 lần so với giai đoạn 2001-2005.

Tỉnh Sơn La có Chương trình 135 và Nghị quyết 37 của Chính phủ tạo động lực thay đổi kinh tế - xã hội của tỉnh, ổn định cuộc sống, tạo niềm tin, là bước phát triển quan trọng trong an ninh, quốc phòng của tỉnh.

Chương trình phát triển cây cao su được tỉnh Sơn La tập trung đầu tư, triển khai với diện tích đến nay đạt 6.400 ha, thu hút trên 6.700 hộ gia đình ở 160 bản thuộc 21 xã góp quyền sử dụng đất, gần 4.700 người lao động nông thôn được tuyển vào làm việc tại Công ty Cổ phần Cao su Sơn La.

Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh mặc dù đã đạt khá nhưng chưa thực sự bền vững; ở nhiều nơi, nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, đời sống của người dân vẫn còn nhiều khó khăn; kết cấu hạ tầng còn yếu kém, chưa đồng bộ; mặc dù người dân đã được tuyển dụng làm công nhân song chưa được đào tạo đầy đủ về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp.

Trong thời gian tới, Sơn La cần tập trung khắc phục những hạn chế thiếu sót, tập trung chỉ đạo việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Cần quan tâm đến vấn đề liên kết vùng trong quy hoạch, cập nhật bổ sung những tiềm năng, lợi thế mới hình thành.



3.3.4. Tình hình hoạt động khoa học và công nghệ

Trong giai đoạn 2005 - 2010 các đề tài nghiên cứu đạt kết quả khả quan là: Nghiên cứu ứng dụng, bảo tồn gen các loại rau quả quý bản địa, các giống lúa có chất lượng cao, công nghệ chế biến bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Các Dự án: Mô hình nuôi cá hồi thương phẩm tại xã vùng cao huyện Bắc Yên; Xây dựng mô hình nuôi lợn rừng và lợn lai thương phẩm tại Thành phố Sơn La; Công nghệ sản xuất và chế biến nấm... đã đạt được kết quả khả quan, mở ra hướng sản xuất mới có thu nhập cao cho người dân. Trong lĩnh vực xã hội nhân văn đã nghiên cứu, biên soạn: Lịch sử quan hệ quốc tế giữa tỉnh Sơn La với các tỉnh phía Bắc nước CHDCND Lào, Lịch sử HĐND tỉnh Sơn La, Lịch sử Trường Chính trị tỉnh, Lịch sử Báo Sơn La..., Xây dựng chương trình bảo tồn văn hóa phi vật thể của các dân tộc tỉnh Sơn La nhằm duy trì và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.



3.3.5. Tình hình giáo dục và đào tạo

Giáo dục - Đào tạo Sơn La trong những năm qua có bước phát triển về quy mô, mạng lưới và loại hình đào tạo, chất lượng và hiệu quả giáo dục có nhiều chuyển biến, tỷ lệ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đạt chuẩn tăng khá, bước đầu đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.

Năm học 2010 - 2011, toàn tỉnh có 781 trường gồm: 227 trường Mầm non, 268 trường Tiểu học, 13 trường Phổ thông cơ sở, 224 trường THCS; 31 trường THPT; 12 Trung tâm GDTX; 01 Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp - Dạy nghề; 02 trường Cao đẳng, 02 trường TCCN và 01 trường TCN; 198/206 xã, phường có Trung tâm học tập cộng đồng. So với năm học 2009 - 2010 tăng 16 trường (Gồm 12 trường Mầm non, 03 trường Tiểu học và 01 trường Phổ thông cơ sở).

- Giáo dục mầm non: Huy động 12,4% số trẻ trong độ tuổi đến nhà trẻ (tăng 1,1% so với năm trước); số trẻ mẫu giáo đến lớp đạt 89,1% (Tăng 1,3% so với năm trước); riêng trẻ 5 tuổi đến lớp đạt 95,6% (Tăng 0,6% so với năm trước).

- Giáo dục phổ thông: Huy động hầu hết số học sinh 6 tuổi vào lớp 1 và huy động 98,5% số học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào lớp 6 THCS ; 66,34% học sinh tốt nghiệp lớp 9 được tuyển vào lớp 10 THPT và bổ túc THPT.

Toàn tỉnh có 274.057 học sinh (Tăng 23.278 học sinh, tăng 1,23% so với năm trước), trong đó: 66.046 học sinh mầm non, 111.719 học sinh tiểu học, 69.876 học sinh THCS, 27.661 học sinh THPT; 4.854 học sinh, sinh viên cao đẳng, TCCN.

Trong những năm qua, để phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ các cấp, giáo viên, người lao động ngày càng lớn. Để đáp ứng nhu cầu này, các trường Cao đẳng, TCCN, Trung tâm GDTX tỉnh Sơn La đã liên kết với các Học viện, các trường Đại học tổ chức các khóa đào tạo theo hình thức vừa làm vừa học, giáo dục từ xa tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ công chức, viên chức, người lao động có thể học tập thường xuyên, phù hợp với nhu cầu và điều kiện của người học, góp phần nâng cao dân trí và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho địa phương.

Tuy nhiên chất lượng giáo dục - đào tạo vẫn còn hạn chế, kết quả phổ cập giáo dục không bền vững, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT, THCS được vào học tại các trường Đại học, Cao đẳng, TCCN, các cơ sở dạy nghề còn rất thấp so với mặt bằng chung của toàn quốc. Một trong những nguyên nhân là việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đội ngũ giáo viên các cấp học ở một số trường, một số vùng chưa đảm bảo, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa của tỉnh; việc đầu tư mở rộng, nâng cao năng lực đào tạo cho các trường chuyên nghiệp trong tỉnh chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.



3.3.6. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011- 2015

Đại hội Đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ tỉnh Sơn La nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã xác định trong thời gian tới tỉnh Sơn La phấn đấu đạt:



- Mục tiêu tổng quát

Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc trong công cuộc giảm nghèo nhanh và bền vững, đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn; tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức; duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đảm bảo quốc phòng, an ninh; mở rộng và tăng cường đối ngoại; phấn đấu sớm đưa Sơn La trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực miền núi phía Bắc; góp phần cùng cả nước thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.



- Mục tiêu cụ thể

Một số chỉ tiêu chủ yếu được Đại hội xác định là: tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong tỉnh đạt từ 14 đến 15%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt 1.200 USD (tương đương 23 - 24 triệu đồng); cơ cấu công nghiệp - xây dựng chiếm 37 - 38%; dịch vụ 36 - 37%; nông, lâm nghiệp khoảng 24 - 25%; thu ngân sách Nhà nước trên 1.1000 tỷ đồng; trong đó thu ngân sách địa phương đạt 2.000 tỷ đồng; vốn đầu tư toàn xã hội 16.000 tỷ đồng/năm; 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã đi được 4 mùa; tỷ lệ lao động qua đào tạo trên 40%; giải quyết việc làm trong 5 năm cho 86,7 nghìn người; tỷ lệ hộ nghèo dưới 10%. Phấn đấu kết nạp mới trên 10.000 đảng viên; 100% bản, cụm bản có chi bộ; 100% bí thư chi bộ và trưởng bản, tiểu khu, tổ dân phố được tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ; 50-60% bí thư chi bộ và trưởng bản, tiểu khu, tổ dân phố có trình độ học vấn trung học cơ sở và sơ cấp chuyên môn trở lên; hằng năm có trên 70% tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh; có ít nhất 80% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ.



- Các chỉ tiêu cụ thể về giáo dục và đào tạo đến năm 2015 và 2020

+ Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 18,1% năm 2010 lên đến 30% năm 2015 và 50% năm 2020; Tăng tỷ lệ trẻ 3-5 tuổi đến lớp mẫu giáo từ 80% năm 2010 lên đến 87% năm 2015 và 98,6% năm 2020; Riêng trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo để vào lớp 1 tăng từ 95% năm 2010 lên 99,5% vào năm 2015 và 2020.

+ Huy động học sinh tiểu học trong độ tuổi đến trường từ 99% năm 2010 lên 99% vào năm 2015 và 99,5% vào năm 2020; Huy động học sinh trong độ tuổi THCS đến trường từ 88% năm 2010 lên 93% vào năm 2015 và 99% vào năm 2020; Huy động học sinh trong độ tuổi THPT đến trường từ 58% năm 2010 lên 65% vào năm 2015 và 80 % vào năm 2020; Huy động trẻ khuyết tật tham gia giáo dục hòa nhập cộng đồng lên 65% vào năm 2015 và 85% vào năm 2020.

+ Đến năm 2020 toàn tỉnh có đủ cán bộ khoa học - kỹ thuật ở các ngành, các lĩnh vực; đảm bảo cơ cấu trình độ, tăng cường đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số; đến năm 2015 có 100% cán bộ, xã phường có trình độ THPT. trong đó có 15% cán bộ chuyên trách đạt trình độ cao cấp lý luận, 15% có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên; đến năm 2020 có 20% cán bộ chuyên trách cấp xã đạt trình độ cao cấp lý luận và 30% có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên; Đến năm 2020 có 100% giáo viên các cấp đạt trình độ lý luận theo yêu cầu của cấp học từ trình độ trung cấp trở lên.



+ Tăng tỷ lệ số người có trình độ cao đẳng, đại học đạt tỷ lệ 1,5% dân số năm 2010; 2% dân số năm 2015; 3% dân số vào năm 2020; nâng tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS, THPT vào các trường TCCN, dạy nghề của Trung ương và của tỉnh đạt 15-20% năm 2010; 20%-25% vào năm 2015; 30-40% vào năm 2020; nâng cao tay nghề cho người lao động, đảm bảo 70% số lao động nông nghiệp được chuyển giao kỹ thuật và nâng tỷ lao động qua đào tạo 25% năm 2010 lên 40% năm 2015 và 50% năm 2020.

+ Nâng tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 83% năm 2010 lên 83% năm 2015 và 87% vào năm 2020.

+ Nâng tổng số trường học từ 690 trường (mầm non, phổ thông, trung tâm GDTX, cao đẳng, TCCN, dạy nghề) năm học 2005 - 2006 lên 781 trường vào năm học 2015-2016 và 802 trường vào năm học 2020-2021. Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ học sinh - sinh viên tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập đạt tỷ lệ: trẻ 3 tuổi 50%; trẻ từ 3-5 tuổi học mẫu giáo đạt 30%; tiểu học: 2%; THCS: 4%; THPT: 15-20%; cao đẳng, TCCN, dạy nghề: 15-20%.

+ Năm học 2015 - 2 016 có 20.069 giáo viên mầm non, phổ thông và 600 giảng viên cao đẳng, giáo viên TCCN, dạy nghề; đào tạo 918 giáo viên (chủ yếu là giáo viên THPT và TCCN); năm học 2020 - 2021 có 20.464 giáo viên mầm non, phổ thông và 700 giảng viên cao đẳng, TCCN, dạy nghề; đào tạo 877 giáo viên (chủ yếu là giáo viên mầm non, THPT và giảng viên trường cao đẳng, dạy nghề). Năm học 2015-2016: Nâng tỷ lệ giáo viên có trình độ sau đại học ở THPT đạt 10%, TCCN: 25%, cao đẳng 60%. Năm học 2020-2021: Nâng tỷ lệ giáo viên có trình độ cao đẳng ở mầm non, tiểu học; trình độ đại học ở THCS, trình độ sau đại học ở THPT đạt 15%, ở TCCN đạt 35% và trường cao đẳng đạt 70%.

+ Đến năm 2015-2016 diện tích đất bình quân 18m2/học sinh; đến năm 2010-2011 diện tích đất bình quân 20 m2/học sinh.

+ Đến năm học 2015-2016: Đạt tỷ lệ 80% số trường phổ thông có thư viện, 30% số trường đạt chuẩn, 100% số trường có phòng thí nghiệm, 80% số trường THCS có phòng máy tính; trang bị phòng máy vi tính cho 50% trường mầm non, tiểu học. Đến năm học 2020-2021: Hoàn thiện về trang thiết bị, đảm bảo đủ phòng máy vi tính; phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, thư viện cho các trường học; 40-50% số trường phổ thông có thư viện đạt chuẩn.

+ Đảm bảo ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo; nâng tỷ lệ ngân sách hàng năm từ 1-2%; tổng nhu cầu vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo tỉnh Sơn La đến năm 2020, dự kiến khoảng khoảng 13.955.197 triệu đồng, trong đó: Vốn nhà nước: 80-85%, vốn huy động từ dân và sự ủng hộ của các cá nhân, của các tổ chức trong và ngoài nước: 5-10%, vốn đầu tư nước ngoài qua các Đề án, Dự án, các Chương trình hợp tác hỗ trợ thông qua Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo: 10-15%.



3.4. Những đối tác, quan hệ cơ bản và xu thế phát triển của nhà trường

Trường Cao đẳng Sơn La được thành lập và hoạt động nhằm đáp ứng các nhu cầu giáo dục - đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ của cộng đồng, góp phần tích cực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà, trước mắt là đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La giai đoạn 2006 - 2020 và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIII (Nhiệm kỳ 2010-2015).

Hiện nay, nguồn nhân lực đã qua đào tạo và có trình độ cao của Sơn La còn thấp hơn nhiều địa phương khác, số liệu so sánh thể hiện trong bảng sau:

Bảng 7. So sánh chất lượng nguồn lao động tỉnh Sơn La với một số địa phương

Trình độ

Tỉnh

Lao động chưa có CMKT (%)

Lao động trình độ TCCN (%)

Lao động trình độ CĐ, ĐH (%)

Sơn La

96,59

1,84

0,46

Lào Cai

90,85

2,44

1,23

Bắc Cạn

94,53

3,74

0,69

Thái Nguyên

85,58

16,39

19,03

Để góp phần từng bước giải quyết tình trạng trên, nhà trường đã chủ động tăng cường các mối liên hệ, hợp tác với các đại học, học viện, trường đại học có truyền thống, uy tín, chất lượng đào tạo để vừa học hỏi kinh nghiệm vừa kịp thời đáp ứng nhiệm vụ được tỉnh giao là đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ của cộng đồng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo điều kiện để người lao động sau đào tạo chủ động tham gia thị trường lao động.

Hiện nay nhà trường đang liên kết với gần 20 đại học, học viện, trường đại học để đào tạo trình độ đại học nhằm nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động (Đại học Thái Nguyên, Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông; Học viện Quản lý giáo dục; Học viện Hành chính Quốc gia; Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Đại học Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, Đại học Lao động - Xã hội, Đại học Công nghiệp Hà Nội, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định, Đại học Luật Hà Nội, Đại học Tây Bắc, Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương, Trường Chính trị Tỉnh Sơn La).

Nhà trường luôn thực hiện tốt sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, đồng thời chủ động phối hợp chặt chẽ với các Sở, Ban, Ngành, các tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh (Hội Khuyến học, Hội Nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản HCM...), các huyện - thành phố, các trường học, các doanh nghiệp để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được tỉnh giao, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín của nhà trường, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cộng đồng, xã hội.

Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa giáo dục chuyên nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo cung ứng cho xã hội những người lao động trẻ có kỹ năng nghề nghiệp, đồng thời đào tạo lại để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của lực lượng lao động hiện có. Trong giai đoạn hiện nay, hàng vạn học sinh THCS và THPT của tỉnh Sơn La, vùng Tây Bắc và các tỉnh lân cận lân cận sau tốt nghiệp THCS và THPT đều có nguyện vọng học một ngành nghề chuyên môn nhất định để tìm kiếm việc làm. Trong điều kiện khó khăn của tỉnh Sơn La, vùng Tây Bắc thì thuận lợi nhất đối với đa số học sinh là tiếp tục được đào tạo nghề nghiệp tại địa phương. Trường Cao đẳng Sơn La cần tiếp tục mở rộng đào tạo đa ngành, đa hệ để cùng với các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp khác đáp ứng nhu cầu nhân lực của tỉnh Sơn La, vúng Tây Bắc và các tỉnh lân cận.

Theo xu thế phát triển hiện nay, nhu cầu nâng cao năng lực đào tạo của các trường đại học và mở thêm các trường đại học là tất yếu, đa số các địa phương đều đều mong muốn xây dựng trường đại học để đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ có trình độ đại học trở lên đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong những năm sắp tới. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn phát triển giáo dục và đào tạo nước ta cho thấy xây dựng và phát triển các trường đại học địa phương là giải pháp có hiệu quả. Một số tỉnh trong toàn quốc đã có trường đại học trực thuộc tỉnh (Trường Đại học Hùng Vương - Tỉnh Phú Thọ, Trường Đại học Hồng Đức - Tỉnh Thanh Hóa, Trường Đại học Phú Yên - Tỉnh Phú Yên, Trường Đại học Tiền Giang - Tinh Tiền Giang. Trường Đại học An Giang - Tỉnh An Giang…). Đối với tỉnh Sơn La, sự phát triển kinh tế - xã hội và ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ, đảm bảo an ninh - quốc phòng phía Tây Bắc của cả nước với 250 km đường biên giới với nước CHDCND Lào, đòi hỏi phải tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, nhu cầu nhân lực các ngành, nghề và hợp tác đào tạo với nước bạn Lào sẽ tăng đáng kể trong thời gian tới, đặc biệt trong điều kiện tỉnh Sơn La đóng vai trò trung tâm của vùng Tây Bắc và đất nước đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực ASEAN, toàn cầu hóa và gia nhập WTO.

Trong tình hình đó, tỉnh Sơn La cần có trường đại học để có thể đáp ứng được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ có trình độ cao cho tỉnh Sơn La, các tỉnh vùng Tây Bắc và các tỉnh phía Bắc nước CHDCND Lào. Chủ trương xây dựng Trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La "làm nòng cốt để xây dựng Trường Đại học cộng đồng Sơn La trong tường lai" đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo và UBND tỉnh Sơn La phê duyệt năm tháng 06 năm 1996 trong Đề án nâng cấp Trường trung học Sư phạm tỉnh Sơn La thành Trường Cao đẳng phạm Sơn La. Hiện tại, trường Cao đẳng Sơn La đã cơ bản hội đủ điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý - giảng viên và trình độ quản lý để phát triển thành Trường Đại học cộng đồng Sơn La góp phần giải quyết yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tại địa phương, đặc biệt là con em đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, bồi dưỡng nhân tài và đào tạo cán bộ, nguồn nhân lực cho các tỉnh phía Bắc nước CHDCND Lào.



3.5.1. Các nhân tố bên ngoài trường

- Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, đặc biệt là chỉ đạo chiến lược phát triển trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho trường về các mặt tổ chức, nhân sự và tài chính - cơ sở vật chất để thực hiện tốt sứ mạng và chức năng, nhiệm vụ được giao.

- Các chủ trương, chính sách quản lý ngành của Bộ Giáo dục và Đào tạo thông qua chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, thông qua việc đề ra các cơ chế, chính sách cụ thể và kiểm tra việc thực hiện của các địa phương, các trường sẽ tạo điều kiện cho trường phát triển nhanh và bền vững trong tương lai.

- Sự phát triển kinh tế - xã hội, mức sống và thu nhập của nhân dân trong vùng tăng đáng kể, sự phát triển sản xuất và nhu cầu sử dụng lao động được đào tạo của các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất khác trong vùng sẽ làm tăng nhu cầu và khả năng học đại học, cao đẳng, TCCN và học nghề.

- Kinh nghiệm quốc tế và trong nước cho thấy xu hướng phát triển nguồn nhân lực trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội (ngoài sư phạm) và nhu cầu đào tạo - bồi dưỡng nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số tại chỗ, đòi hỏi phải thay đổi, phát triển mô hình các cơ sở đào tạo, trong đó mô hình trường đại học cộng đồng được nhiều quốc gia và các tỉnh trong cả nước thực hiện có hiệu quả.

- Sự hợp tác và cạnh tranh của các trường đại học và cao đẳng tại địa phương và cả nước trong việc đáp ứng các nhu cầu xã hội.




tải về 0.65 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương